BÀI SỐ 98
Ẩn tu phương tiện mượn thi ngâm
Thức ngộ mình người khởi đạo tâm
Đâu nghỉ hoa đào ra động bích
Mà mong Lưu Nguyễn ghé vào thăm?
NHƯ Ý : Nếu Hoa-đào có rơi nhẹ trôi theo vòng suối ra ngoài ĐỘNG BÍCH, đó cũng là một sự Ngẫu-nhiên, không phải do ý Chư-tiên mượn nó để dời chân LƯU NGUYỄN , cũng như thế Bút-giả không có ý mượn những lời Thi trong đây để Thả cánh Hoa-đào, mà chỉ muốn ngõ riêng với một ít vì Thông Cảm, Hữu Duyên.
Bởi Mình đã có DUYÊN để đáng tỏ BÀY công bố.
Niệm Phật Thập Yếu
ĐỆ NHẤT YẾU
Niệm Phật
Phải Vì Thoát Sanh Tử
Nhìn gẫm đường trần đầy khổ nhọc
Lòng tưởng Tây Phương cõi Thiên-Trúc
Đầu non trăng sáng tiếng chuông ngân
Canh khuya cầm quyển Lăng-Nghiêm đọc.
Quán Về Sự Khổ Luân Hồi
Chúng sanh hết kiếp này sang kiếp khác sống chết luân hồi, xuống lên trong sáu cõi. Đó là: cõi trời, cõi người, cõi A Tu La, cõi bàng sanh, cõi ngạ quỷ, và cõi địa ngục.
Bát khổ tuy các loài khác cũng có ít nhiều, nhưng nó là trọng tâm của nỗi khổ ở cõi NGƯỜI.
Cõi TRỜI tuy vui vẻ hơn nhơn gian, nhưng cũng còn tướng ngũ suy và những điều bất như ý.
Cõi A TU LA bị sự khổ về gây gổ, tranh đua.
Cõi BÀNG SANH như loài trâu, bò, lừa, ngựa bị sự khổ chở kéo nặng nề. Loài dê, lợn, vịt, gà, thì bị sự khổ về banh da xẻ thịt. Các loài khác chịu sự khổ về ngu tối; nhơ nhớp ăn nuốt lẫn nhau.
Ở cõi NGẠ QUỶ chúng sanh thân thể hôi hám xấu xa, bụng lớn như cái trống, cuống họng nhỏ như cây kim, miệng phực ra lửa chịu đói khát trong ngàn muôn kiếp.
Còn cõi ĐỊA NGỤC thì vạt dầu, cột lửa, hầm băng giá, non gươm đao, sự thống khổ không thể tả xiết.
Bốn cõi rốt sau này, trong kinh gọi là Tứ Ác Thú. Từ cõi A Tu La, theo chiều xuống, nỗi khổ ở mỗi cõi cứ tuần tự gấp bội hơn lên. Trong sáu cõi, chúng sanh sống chết xoay vần hết nơi này đến nơi kia, như bánh xe chuyển lăn không đầu mối. Đại khái sanh lên cõi trời cõi người thì khó và ít, đọa xuống Tứ Ác Thú rất dễ và nhiều. Người xưa đã than:
“Lục đạo xoay vần không mối hở.
Vô thường xô đến vạn duyên buông!”
ĐỆ NHỊ YẾU
Niệm Phật
Phải Phát Lòng Bồ Ðề
Ba cõi không an dường hỏa-trạch
Đâu miền chân-lạc khỏi tang thương?
Người vô thường,
Cảnh vô thường!
Khuyên gọi cùng nhau tỉnh mộng
Quay về bể giác thanh lương.
Khởi lòng bi trí
Nguyện độ mười phương.
Ba tăng-kỳ kiếp tu muôn hạnh.
Bền lòng không thối chuyển
Cầu ngôi vị Pháp-Vương!
Phải Diệt Niệm Buồn Chán
Người hoài bão tâm thương đời, hay kẻ có lòng lo đạo, trên đường chí nguyện thường thường phải trải qua ba giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhứt là tâm nhiệt thành sốt sắng.
Giai đoạn thứ hai là niệm buồn rầu chán nản.
Giai đoạn thứ ba là lòng BI TRÍ tùy cơ.
Nhưng thông thường, những vị hữu tâm ấy hay bỏ cuộc và tiêu tán chí niệm ở đoạn hai, ít ai đi đến đoạn ba. Vượt đoạn hai để đi đến đoạn ba là người có tâm bi trí rộng lớn, như con thần long khi bay lên mây xanh, lúc ẩn nơi lòng biển cả. Nhà Nho gọi điều này là:
"Dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng."
Đây là ý nói:
"Bậc chân nho, đời hữu đạo thì đem đạo lưu hành, đời vô đạo lại lui về ở ẩn."
Như đức Khổng Tử khi đem đạo thánh hiền truyền hóa, các vua thời Đông Châu không ai chấp nhận, Ngài lui về viết sách dạy học trò, chí thương lo cứu đời không khi nào bị thối giảm.
Kẻ chưa thấu hiểu thời tiết cơ duyên, chưa suốt được đạo lý này, thường hay chán buồn bi phẫn!
ĐỆ TAM YẾU
Niệm Phật
Phải Dứt Trừ Lòng Nghi
Niềm tin là bước đạo sơ nguyên,
Mà nỗi trần ai lắm sự duyên!
Thoạt tưởng sen lành say cõi Tịnh
Lại nghe mai đẹp mến non Thiền.
Bồ-Đề gieo khéo nguyền viên giác
Không hữu còn thương chấp nhị-biên
Tín-đức ví bền như hạnh nguyện
Mưa hoa đồng dạo cảnh Tây Thiên.
Sự Trọng Yếu Của Lòng Tin
Trong Kinh Phật Thuyết A Di Đà, đức Bổn Sư đã đôi ba phen nhắc nhở về lòng tin, như các đoạn:
Cho nên Xá Lợi Phất! Các ông phải nên tin nhận lời ta và lời nói của chư Phật!... Xá Lợi Phất! Như ta hôm nay khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của chư Phật. Các đức Phật kia cũng khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của ta, mà nói lời như sau:
“Phật Thích Ca Mâu Ni hay làm được việc rất khó khăn ít có! Ngài đã có thể ở trong đời ác năm trược là: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược của quốc độ Ta Bà, chứng quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, vì các chúng sanh nói ra pháp môn mà tất cả thế gian đều khó tin ấy.”
Xá Lợi Phất! Nên biết ta ở trong đời ác năm trược làm việc khó khăn sau đây, là đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, vì tất cả thế gian nói ra pháp khó tin này, thật là điều rất khó!
Đức Thế Tôn trí huệ nhiệm mầu, mà đã nói những lời ấy, thì biết pháp Tịnh Độ thật khó tin, và lòng tin là điều rất quan hệ! Nhiều vị cổ đức cũng bảo:
"Pháp môn Tịnh Độ rất khó thâm tín, duy hạng phàm phu đã gieo căn lành niệm Phật và bậc Đăng Địa Bồ Tát mới tin nhận được mà thôi. Ngoài ra những chúng sanh khác cho đến hàng Nhị Thừa hoặc quyền vị Bồ Tát đôi khi cũng không tin nhận pháp môn này."
Khi xem những lời như trên, ban sơ bút giả cũng lấy làm lạ tự hỏi:
"Tại sao đệ tử Phật lại không tin lời của Phật? Hàng Nhị Thừa và quyền vị Bồ Tát trí huệ siêu việt, chỗ tu chứng đã cao, sao lại không tin pháp môn Tịnh Độ?"
Nhưng về sau, khi thấy trong hàng xuất gia có những vị giảng giáo lý tinh thông, song lại không tin có cõi Cực Lạc và bài bác sự Niệm Phật Vãng Sanh, chừng đó mới công nhận lời kia là đúng. Nhân đây lại tìm trong kinh, thấy nói đạo nhãn của bậc A La Hán và Bích Chi Phật chỉ ở trong phạm vi tam thiên đại thiên thế giới, gồm một ngàn triệu thái dương hệ.
Mà môn Tịnh Độ thuộc về giới ngoại đại pháp, cõi Cực Lạc ở ngoài đại thiên thế giới, như vậy làm sao hàng cực quả Nhị Thừa có thể thấy biết tin nhận được? Còn hàng quyền vị Bồ Tát chưa chứng vào cảnh giới Ðại Phương Ðẳng, chưa thấy được mười phương Tịnh Độ, nên có vị không tin nhận lẽ dĩ nhiên.
PHẬT THUYẾT
KINH A DI ĐÀ
PHẦN LƯU THÔNG
KINH nầy không AI hỏi, mà Phật Thích-Ca tự nói ra, vì cõi CỰC LẠC chỉ có PHẬT cùng PHẬT mới HIỂU được và TRUYỀN BÁ LƯU THÔNG bộ KINH nầy.
“KHUYÊN TÍN”
Để Lưu Thông
Xá-Lợi-Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của Đức Phật A Di Đà, phương Đông cũng có đức A-Súc-Bệ-Phật, Tu-Di-Tướng Phật, Đại-Tu-Di Phật, Tu-Di-Quang Phật, Diệu-Âm Phật; Hằng hà sa số những Đức Phật như thế đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng:
“Chúng sanh các người phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Tây, có đức Vô Lượng-Thọ Phật, Vô-Lượng-Tướng Phật, Vô-Lượng-Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại-Minh Phật, Bửu- Tướng Phật, Tịnh- Quang Phật. Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng:
“ Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Bắc, có đức Diệm-Kiên-Phật, Tối-Thắng-Âm-Phật, Nan-Trở Phật, Nhựt-Sanh Phật, Võng-Minh Phật. Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng:
“ Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương dưới, có đức Sư-Tử Phật, Danh-Văn Phật, Danh-Quang Phật, Đạt-Mạ Phật, Pháp-Tràng Phật, Trì-Pháp Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng:
“ Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương trên, có đức Phạm-Âm-Phật, Tú-Vương-Phật, Hương-Thượng-Phật, Hương-Quang-Phật, Đại-Diệm-Kiên Phật, Tạp-Sắc-Bửu-Hoa-Nghiêm-Thân Phật, Ta-La-Thọ-Vương Phật, Bửu-Hoa Đức Phật, Kiến-Nhứt-Thiết-Nghĩa Phật, Như-Tu-Di-Sơn Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng:
“ Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.
Xá-Lợi-Phất! Nơi ý của ông nghĩ thế nào, vì sao tên là kinh: Nhứt- Thiết-Chư-Phật Sở Hộ Niệm?
Xá-Lợi-Phất! Vì nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh này mà thọ-trì đó, và nghe danh hiệu của các Đức Phật, thời những thiện-nam tử cùng thiện-nữ nhơn ấy đều được tất cả các đức Phật hộ niệm, đều được không thối chuyển nơi đạo Vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác.
Xá-Lợi-Phất! Cho nên các ông đều phải tin nhận lời của Ta và của các đức Phật nói.
“KHUYÊN NGUYỆN”
Để Lưu Thông
Xá-Lợi-Phất! Nếu có người đã phát nguyện, hiện nay phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về cõi nước của Đức Phật A Di Đà, thời những người ấy đều đặng không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác; nơi cõi nước kia, hoặc đã sanh về rồi, hoặc hiện nay sanh về, hoặc sẽ sanh về.
Xá-Lợi-Phất! cho nên các thiện nam tử, thiện nữ nhân nếu người nào có lòng tin thời phải nên phát nguyện sanh về cõi nước kia.
“KHUYÊN NIỆM PHẬT”
Để Lưu Thông
Xá-Lợi-Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của các đức Phật, các đức Phật đó cũng ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của Ta mà nói lời này: “Đức Thích Ca Mâu Ni Phật hay làm được việc rất khó khăn hi hữu, có thể ở trong cõi Ta Bà đời ác năm món trược: kiếp trược, kiến trược, phiền trược, não trược, chúng sanh trược, mạng trược trung, mà Ngài chứng được ngôi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài vì các chúng sanh nói kinh pháp mà tát cả thế gian khó tin này”.
Xá-Lợi-Phất! Phải biết rằng Ta ở trong đời ác ngũ trược thật hành việc khó này: đặng thành bậc Vô Thượng Chánh Giác và vì tất cả thế gian nói kinh pháp khó tin này, đó là rất khó!
(Phật Thích-ca thuyết Kinh A Di Đà
còn khó hơn là ở TA BÀ NGŨ TRƯỢC, tu thành vô thượng chánh giác, ĐỂ KHUYÊN NIỆM PHẬT A DI ĐÀ)
Y GIÁO PHỤNG
HÀNH
Đức Phật nói kinh này rồi, ngài Xá-Lợi-Phất cùng các vị Tỳ kheo, tất cả trong đời: Trời, Người, A-Tu-La… nghe lời của Đức Phật dạy, đều vui mừng tin nhận đảnh lễ Phật mà lui ra.
PHẬT THUYẾT
KINH A DI ĐÀ
Dao Tần, Tam-Tạng Pháp-Sư Cưu-Ma-La Thập dịch
Việt Dịch : Hòa Thượng TRÍ TỊNH
ĐỆ TỨ YẾU
Niệm Phật
Phải Quyết Ðịnh Nguyện Vãng Sanh
Sân lan trời ngả bóng chiều,
Cảm thân phù-thế ít nhiều ngẩn ngơ!
Tranh đời dệt mộng vẩn-vơ
Say đua danh lợi, mê mờ sắc thanh.
Cánh bèo sóng vỗ bập bềnh,
Tại ai hay cũng gây nên bởi mình?
Bể trần là mấy phù sinh,
Thị phi thương ghét trong tình quẩn quanh
Mà trông chiếc lá lìa cành,
Dinh hư cõi tạm trong vành đó thôi!
Mà trông ngọn nước chảy trôi!
Mênh-mang sáu nẻo biết rồi về đâu?
Kiếp người nào có bao lâu
Nắng mưa thôi cũng dãi dầu cỏ hoa!
Lầu sương nhạt ánh trăng tà
Hoàng lương một giấc tỉnh ra ngỡ ngàng!
Chi bằng về cõi Liên Bang,
Sen khoe sắc ngọc, gió đàn pháp âm.
Trời giải-thoát, cảnh thậm thâm
An vui muôn kiếp tuyệt lầm lỗi xưa
Chỉ câu niệm Phật đừng thưa,
Chỉ bền tin nguyện tam thừa bước lên.
Đài vàng sẵn đã ghi tên
Cơ duyên sẵn đợi một nền đạo tâm.
Kinh Văn Khuyên Phát Nguyện
Về động lực hướng dẫn của chữ Nguyện, phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện trong Kinh Hoa Nghiêm có nói:
"Người này khi sắp mạng chung, trong khoảng sát na rốt sau, tất cả các căn thảy đều tan hoại, tất cả quyến thuộc thảy đều lìa bỏ, tất cả oai thế thảy đều lui mất. Duy có nguyện vương này chẳng rời bỏ nhau, trong tất cả thời, nó đều dẫn dắt ở trước. Và trong khoảng một sát na, kẻ ấy liền được vãng sanh về thế giới Cực Lạc."
Bởi thấy rõ công dụng cần yếu của sự phát nguyện, nên trong Kinh A Di Đà, đức Thích Tôn cứ mãi nhắc đi nhắc lại điểm ấy, qua các đoạn văn như sau:
"Lại nữa, Xá Lợi Phất! Chúng sanh về cõi nước Cực Lạc đều là hàng A Bệ Bạt Trí. Trong ấy có nhiều bậc Nhất Sanh Bổ Xứ, số lượng rất đông, không thể dùng toán số tính biết được, chỉ có thể lấy số không lường không ngằn a tăng kỳ để nói mà thôi. Xá Lợi Phất! Chúng sanh nghe rồi, phải nên phát nguyện cầu sanh về cõi kia. Bởi tại sao? Vì được cùng các bậc thượng thiện nhơn như thế đồng họp một chỗ.
... Xá Lợi Phất! Ta thấy sự lợi ích đó, nên nói lời này. Nếu có chúng sanh nào nghe lời nói đây, phải nên phát nguyện cầu sanh về quốc độ ấy.
... Xá Lợi Phất! Nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện, muốn sanh về nước Phật A Di Đà, những người đó hoặc đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh, đều được không thối chuyển nơi quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề ở cõi nước kia. Cho nên Xá Lợi Phất! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn nếu có lòng tin, phải nên phát nguyện cầu sanh về quốc độ ấy."
Như trên, ta thấy đức Thích Tôn mãi nhắc đi nhắc lại hai chữ "PHÁT NGUYỆN" lời ý đều khẩn thiết. Cho đến phần kết cuộc của kinh văn, Ngài cũng vẫn đôi ba phen bảo phải phát nguyện cầu sanh. Tại sao thế? Vì nếu về cõi Cực Lạc, sẽ được ở cảnh giới vô cùng mầu đẹp trang nghiêm, được thân kim cương đủ ba mươi hai tướng tốt, dứt hẳn nỗi khổ sanh già bịnh chết; được gần gũi Phật, chư đại Bồ Tát và hội họp với các bậc thượng thiện nhơn; được thần thông Tam Muội, không còn thối chuyển nơi quả vô thượng Bồ Đề. Bởi trí huệ của Phật nhìn thấy rất nhiều sự lợi ích như thế, Ngài mới vận lòng từ bi vì cứu độ loài hữu tình mà khuyên phát nguyện vãng sanh.
Lòng bi mẫn của đức Thích Ca Thế Tôn, thật là vô lượng.
ĐỆ NGŨ YẾU
Niệm Phật
Phải Hành Trì Cho Thiết Thật
Lặng ngồi chốn tĩnh lâu
Trăng sáng, gió canh thâu!
Bát Nhã hương lòng nhẹ.
Lăng Già niệm ý sâu
Phật, Tâm chung một vẻ
Thiền, Tịnh chẳng hai mầu
Ngưng chuỗi, thầm riêng hỏi
Hoa đêm điểm điểm đầu...
Niệm Phật Với Tứ Hạnh
Sở thích và túc căn của chúng sanh vẫn thường sai biệt cho nên tuy đồng tu hạnh Niệm Phật, sự hành trì chẳng khỏi có điểm không giống nhau. Vì thế, trên đường Tịnh Độ, cổ nhơn đã khái ước chia thành bốn hạnh là: Thiền Tịnh, Giáo Tịnh, Mật Tịnh và Thuần Tịnh.
1. Những vị lấy niệm Phật làm chánh, tham thiền làm phụ, thuộc về hạnh Thiền Tịnh. Đây cũng là lối Thiền Tịnh song tu, nhưng lại lấy sự vãng sanh Tịnh Độ làm yếu điểm chung cuộc, còn việc thấy tánh ngộ đạo chỉ thuộc phần tùy duyên.
2. Những vị lấy niệm Phật làm chánh, tụng kinh làm phụ, gọi là tu hạnh Giáo Tịnh. Về phần kinh giáo, có người thích tụng Kinh Kim Cang hay Di Đà; có vị thích tụng Hoa Nghiêm hay Pháp Hoa, hoặc phẩm Phổ Môn hay Phổ Hiền Hạnh Nguyện chẳng hạn.
3. Những vị lấy niệm Phật làm chánh, trì chú làm phụ, đó là tu về hạnh Mật Tịnh. Trong sự trì chú, mỗi người lại ưa thích riêng mỗi môn Đà Ra Ni, như: Đại Bi, Chuẩn Đề, Vãng Sanh, Công Đức Bảo Sơn, Văn Thù Ngũ Thanh thần chú, Lục Tự Đại Minh chân ngôn, hoặc các Đà Ra Ni khác.
4. Những vị chỉ chuyên niệm Phật, không xen tạp môn nào khác, thuộc về các hành giả tu hạnh Thuần Tịnh.
Trong đây các vị căn cơ cao thì theo Thập Lục Quán, còn đại đa số chỉ chuyên về hạnh Trì Danh.
Thiện Đạo hòa thượng và Vĩnh Minh thiền sư bên Trung Hoa, tương truyền đều là hóa thân của Phật A Di Đà. Nhưng Thiện Đạo hòa thượng chỉ dạy chuyên niệm Phật; Vĩnh Minh thiền sư thị hiện mỗi ngày ngoài việc niệm mười muôn câu Phật hiệu, còn tu các hạnh khác, tất cả gồm 108 môn.
Ấn Quang pháp sư đã phê phán: "Đồng dạy về Tịnh Độ, nhưng lối khai thị của ngài Thiện Đạo là để tiếp dẫn hàng trung, hạ căn thuộc về chuyên tu. Còn lối khai thị của ngài Vĩnh Minh để riêng khuyến tấn bậc thượng thượng căn, thuộc về viên tu."
Người đời mạt pháp phần nhiều là bậc trung, hạ căn. Vì thế, với bốn hạnh trên, nếu muốn chắc chắn được vãng sanh, có lẽ nên tu theo đường lối Thuần Tịnh. Nhưng đã nói sở thích và túc căn của mỗi người đều sai biệt, không thể ép buộc được, thì mặc dù có kiêm tu hạnh khác, hành giả Tịnh Độ cũng cần lưu ý đến hai phần chánh và trợ cho phân minh. Mà phần chánh phải luôn luôn lấn nhiều hơn phần trợ.
Như thế đường tu mới không mất mục tiêu và sự vãng sanh cũng không bị chướng ngại.
Cho nên tham thiền, tụng kinh cùng tu các môn khác là những
điều quý báu nên làm, và đáng khuyến khích. Nhưng giữa thời mạt pháp này, cần
phải tu thêm môn Niệm Phật, rồi đem tất cả công đức ấy hồi hướng về Tây Phương,
mới bảo đảm khỏi luân hồi mà đọa. Nếu không lấy Tịnh Độ làm nơi quy hướng, thì
công đức tu các môn khác chỉ gây căn lành phước báo, và nhân duyên đắc độ về
sau mà thôi. Như thế, e cho khi chuyển sanh hôn mê tạo nghiệp phải bị trầm trệ
lâu trong cảnh khổ luân hồi. Mấy ai thông minh như Ngộ Đạt quốc sư, mười kiếp
làm cao tăng tu thiền định, kiếp sau rốt mới mười bốn tuổi đã giảng suốt Kinh
Niết Bàn. Nhưng vì một niệm đam mê trước tòa trầm hương nên bị túc báo ghẻ mặt
người, sau trở lại niệm Phật mới được vãng sanh giải thoát. Những vị ỷ mình
cao minh, ngoài miệng nói suốt lý huyền, chỉ trọng tự lực khinh thường niệm Phật,
cũng nên xem gương trên mà để tâm suy nghĩ.
ĐỆ LỤC YẾU
Niệm Phật
Phải Ðoạn Tuyệt Phiền Não
Thanh sắc tài danh thế-lợi trêu
Bể trần chìm nổi kiếp vô-liêu!
Giai-nhân kiệt-sĩ chừ đâu vắng?
Dấu sử nghìn thu để hận nhiều!
Hươu Tần tranh đuổi khắp giang-san
Cỏ xót, mây thương, cuộc thảm tàn!
Lầu Hán vui trăng ai đó mấy?
Hơn thua thù hận thuở nào tan?
May gặp Như-Lai ánh huệ-không
Nước dương quyết rửa sạch mê lòng!
Đã lên non pháp quên tìm báu
Lần lựa đi về tiếc uổng công!
Vượt hết non cao vực thẳm rồi
Bên đường bỗng thấy sắc hoa tươi
Mới hay siêu đọa do mình cả
Mà cõi mười phương cũng huyễn thôi.
Cách Đối Trị Tổng Quát
Nghiệp tham, sân, si biểu hiện dưới nhiều hình thức, không thể tả xiết! Nơi đây chỉ nói tổng quát bốn điều căn bản để đối trị những nghiệp ấy:
1. Dùng tâm đối trị: - Người mê với bậc giác ngộ chỉ có hai điểm sai biệt: tịnh là chư Phật, nhiễm là chúng sanh. Chư Phật do thuận theo tịnh tâm nên giác ngộ, đủ thần thông trí huệ; chúng sanh bởi tùy nơi trần nhiễm nên mê hoặc, bị sống chết luân hồi. Tu Tịnh Độ là đi sâu vào Niệm Phật Tam Muội để giác ngộ bản tâm, chứng lên Phật quả. Vậy trong niệm Phật, nếu thấy bất cứ một niệm vọng động nào khác nổi lên, liền phải trừ ngay và trở về tịnh tâm. Đây là cách dùng tâm để đối trị.
2. Dùng lý đối trị: - Nếu khi vọng niệm khởi lên, dùng tâm ngăn trừ không nổi, phải chuyển sang giai đoạn hai là dùng đến quán lý. Chẳng hạn như khi tâm tham nhiễm nổi lên, quán lý: bất tịnh, khổ, vô thường, vô ngã. Tâm giận hờn phát khởi, quán lý: Từ bi hỷ xả, nhẫn nhục nhu hòa, các pháp đều không.
3. Dùng sự đối trị: - Những kẻ nghiệp nặng, dùng lý đối trị không kham, tất phải dùng sự, nghĩa là dùng đến hình thức. Thí dụ, người tánh dễ sân si, biết rõ nghiệp mình, khi phát nóng bực sắp muốn tranh cãi, họ liền bỏ đi và uống từ từ một ly nước lạnh để dằn cơn giận xuống. Hoặc như kẻ nặng nghiệp ái, dùng lý trí ngăn không nổi, họ lựa cách gần bậc trưởng thượng, làm Phật sự nhiều, hoặc đi xa để lãng quên lần tâm nhớ thương. Câu: "Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng!" thật ra chính là "Càng xa xôi mặt, càng thưa thớt lòng!" Bởi tâm chúng sanh y theo cảnh, cảnh đã vắng tức tâm mất chỗ nương, lần lần sẽ phai nhạt.
4. Dùng sám tụng đối trị: - Ngoài ba cách trên từ tế đến thô, còn có phương pháp thứ tư là dùng sám hối trì tụng để đối trị. Sự sám hối, niệm Phật, trì chú hoặc tụng kinh, mà giữ cho đều đều, có năng lực diệt tội nghiệp sanh phước huệ. Vì thế thuở xưa có nhiều vị trước khi thọ giới hay sắp làm Phật sự lớn, thường phát nguyện tụng mấy muôn biến chú Đại Bi, hoặc một tạng Kinh Kim Cang Bát Nhã. Bên Trung Hoa, các cư sĩ khi hợp lại Niệm Phật Ðường để kiết thất, nếu ai nghiệp nặng niệm Phật không thanh tịnh, hay quán Phật không được rõ ràng, vị pháp sư chủ thất thường bảo phải lạy hương sám. Đây là cách đốt một cây hương dài, rồi thành kính đảnh lễ hồng danh Phật sám hối, cho đến khi nào cây hương tàn mới thôi. Có vị suốt trong thời kỳ kiết thất bảy ngày hoặc hai mươi mốt ngày, toàn là lạy hương sám.
Bốn cách trên, hành giả tùy trường hợp mà đối trị tổng quát ba nghiệp tham sân si. Nếu bền bỉ chí tâm, thì không việc chi chẳng thành tựu.
Nếu là bậc chân tu
Không thấy lỗi của đời.
Nếu như thấy lỗi người
Mình chê, là kém dở!
Người quấy, ta đừng quấy
Ta chê, tự có lỗi.
Muốn phá tan phiền não
Hãy trừ tâm thị phi
Thương ghét chẳng để lòng
Nằm thẳng đôi chân nghỉ!
(Pháp Bảo Đàn Kinh, Vô Tướng kệ)
ĐỆ THẤT YẾU
Niệm Phật
Phải Khắc Kỳ Cầu Chứng Nghiệm
Thân như bọt
Bể thương tang
Chìm nổi kiếp mênh mang!
Dưới trăng suy cạn khoảng đêm tàn
Chỉ nương Vô-Lượng-Quang.
Trời niệm tâm
Núi kiên quyết
Vọng tình xin cách tuyệt!
Dần-dà khó thể nhập Liên-Bang
Khi nao thật được nhàn?
Thân như bọt
Bể thương tang
Chìm nổi kiếp mênh mang!
Dưới trăng suy cạn khoảng đêm tàn
Chỉ nương Vô-Lượng-Quang.
ĐẲNG GIÁC
Như-lai ngược dòng trở lại, vị Bồ-tát đó thuận dòng đi tới, giác-ngộ vào chỗ giao-tiếp với nhau; gọi là Đẳng-giác.
ĐẲNG GIÁC là sự giác ngộ đồng với CHƯ PHẬT. 12 CHỦNG LOẠI CHÚNG SANH thì hướng tới QỦA PHẬT, còn CHƯ PHẬT thì hướng tới chúng sanh để HỘ NIỆM, làm cho chúng sanh PHÁT BỒ ĐỀ TÂM, tu hành được sự giác ngộ như PHẬT; thì gọi là ĐẲNG GIÁC BỒ TÁT.
A-nan, từ tâm Càn-huệ đến Đẳng-giác rồi, giác đó mới bắt-đầu được Sơ-càn-huệ-địa trong tâm Kim-Cang.
“Càn-Huệ-Địa” nghĩa là “ tình dục khô cạn (Càn), chỉ thuần còn Trí-huệ (Huệ).” ĐÂY LÀ “ĐỊA VỊ” TU CHỨNG ĐẦU TIÊN CỦA NGƯỜI TU THIỀN (Địa).
Từ Càn-huệ địa đến Đẳng-giác rồi, vì còn chấp mình LÀ ĐẲNG GIÁC BỒ TÁT, NÊN CÒN CÓ Vi-Tế SANH TƯỚNG VÔ MINH, phải dùng “TÂM KIM CANG” để phá trừ tất cả sở đắc, như là SƠ CÀN HUỆ ĐỊA trong TÂM KIM CANG, THẬP TÍN trong TÂM KIM CANG…ĐẲNG GIÁC trong TÂM KIM CANG. CHO NÊN, GỌI LÀ SƠ CÀN HUỆ ĐỊA TRONG TÂM KIM CANG.
DIỆU GIÁC
Như vậy lớp-lớp tu đơn, tu kép 12 vị mới cùng tột Diệu-giác, thành đạo Vô-thượng.
Tu Đơn, tu kép 12 vị :
1) CÀN HUỆ ĐỊA
2) THẬP TÍN
3) THẬP TRỤ
4) THẬP HẠNH
5) THẬP HỒI HƯỚNG
6) NOÃN
7) ĐẢNH
8) NHẪN
9) THẾ ĐỆ NHỨT
10) THẬP ĐỊA
11) ĐẲNG GIÁC
12) TÂM KIM CANG
Dùng TÂM KIM CANG phá trừ từng phần VÔ MINH cho đến Vi-Tế VÔ MINH mới cùng tột Diệu-giác, thành đạo Vô-thượng.
Các thứ địa ấy, đều lấy trí Kim-cang quán-sát mười thứ ví-dụ như-huyễn sâu-xa, trong Xa-ma-tha, dùng phép Tỳ-bà-xá-na của các đức Như-lai mà thanh-tịnh tu-chứng, lần-lượt đi sâu vào.
Các địa vị ấy, đều dùng “TÂM KIM CANG” hay “TRÍ KIM CANG” QUÁN LÝ “NHƯ HUYỄN SÂU XA”, tức là CHỈ và QUÁN KHÔNG HAI, ĐỊNH HUỆ BẤT NHỊ mà thanh tịnh tu chứng, lần lượt đi sâu vào.
Dùng “TRÍ KIM CANG” QUÁN LÝ “NHƯ HUYỄN SÂU XA” LÀ:
1. Quán NGƯỜI như huyễn
2. Quán ÁNH NẮNG (DƯƠNG DIỆM) như huyễn
3. Quán TRĂNG DƯỚI NƯỚC như huyễn
4. Quán HOA ĐỐM TRONG HƯ KHÔNG như huyễn
5. Quán TIẾNG VANG TRONG HANG ĐỘNG như huyễn
6. Quán THÀNH CÀN THÁT BÀ ( LÀM BẰNG HƠI SƯƠNG TRONG BIỂN) như huyễn
7. Quán MỘNG như huyễn
8. Quán BÓNG như huyễn
9. Quán TƯỢNG TRONG GƯƠNG như huyễn
10. Quán ẢO HÓA như huyễn.
A-nan, như thế, đều dùng ba tiệm-thứ tăng-tiến, nên khéo thành-tựu 55 vị trong đường Bồ-đề chân-thật. Làm cái quán như vậy, gọi là chính-quán; nếu quán cách khác, gọi là tà-quán".
Muốn thành tựu 55 vị trong đường Bồ-đề chân thật, trước phải tu 3 TIỆM THỨ TĂNG TIẾN là:
1) Không ăn NGŨ VỊ TÂN
2) PHẢI NGHIÊM TRÌ GIỚI LUẬT
3) PHẢI NGĂN CHẶN VỌNG KHỞI CỦA HIỆN NGHIỆP PHÁT SANH
KẾ TIẾP dùng TÂM KIM CANG quán LÝ NHƯ HUYỄN, để thành tựu 55 địa vị tu chứng.
Năm mươi lăm vị trong đường Bồ đề ( vì Càn-huệ-địa là con đường mà chẳng CHÂN THẬT, còn DIỆU GIÁC thì CHƠN THẬT mà chẳng phải là con đường, ĐÂY LÀ QỦA PHẬT. cho nên, chỉ có 55 vị trong đường Bồ-đề chân-thật mà thôi.)
1. Thập tín
2. Thập trụ
3. Thập hạnh
4. Thập hồi hướng
5. Tứ gia hạnh
6. Thập địa
7. Đẳng giác
Tuy biết con đường CHƠN THẬT chứng nhập CHƠN TÂM, nhưng trải qua các địa vị tu chứng gặp phải 50 loại ma chướng cùng với tập khí nhiều đời khó đoạn trừ, nếu MÊ MỜ CHƠN TÁNH, tự nghĩ rằng mình đã CHỨNG THÁNH, THÀNH PHẬT thì sẽ đi vào TÀ MA NGOẠI ĐẠO, khó CÓ NGÀY quây đầu trở lại theo CON ĐƯỜNG CHƠN THẬT.
Cho nên, PHẬT dạy phải trì “CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM”, thì không bị những TẬP KHÍ NHIỀU ĐỜI cùng MA CHƯỚNG đến phá HOẠI CON ĐƯỜNG CHƠN THẬT THẲNG đến qủa DIỆU GIÁC của CHƯ PHẬT.
Sức tu của người thời nay, phần nhiều bị Phiền Não ma hoặc Ngoại ma phá hoại, chưa đủ để cho Thiên ma phải ra tay. Loại ma này chỉ đến với những vị tu cao. Nếu Thiên ma quyết phá, những vị sức tu tầm thường khó có hy vọng thoát khỏi.
Trong Kinh Lăng Nghiêm, vì thương đường tu nhiều hiểm nạn, đức Phật khuyên các hành giả tham thiền nên kiêm trì mật chú, để được nhờ thần lực gia hộ, thoát khỏi nạn ma thành tựu chánh định.
Ấn Quang đại sư đã bảo: "Mới xem qua, dường như Kinh Lăng Nghiêm khác quan điểm với Tịnh Độ, nhưng xét nghĩ sâu mới thấy kinh này trong vô hình đã khen ngợi tuyên dương Tịnh Độ. Tại sao thế? Bởi bậc đã chứng đệ tam thánh quả A Na Hàm, còn có thể bị ma cảnh làm cho thối đọa; thì sự niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ càng nổi bật thêm tánh cách trọng yếu, trong ánh sáng nhiếp hộ của đức A Di Đà không còn nạn ma."
Dưới trăng suy cạn khoảng đêm tàn
Chỉ nương Vô-Lượng-Quang.
ĐỆ BÁT YẾU
Niệm Phật
Phải Bền Lâu Không Gián Ðoạn
Nắng lại mưa qua
Chìm nổi vui buồn
Phù-thế thương lưu lạc !
Nhớ thuở còn thơ
Cổ-thụ bên nhà
Cùng trẻ nô đùa hát.
Rồi hỏi Hoàng-Mai
Tìm lối Liên-Hoa
Tóc xanh vừa điểm bạc.
Một nén tâm-hương
Một chí Tây-Phương
Chờ lắng bên trời nghe tiếng nhạc !
Thân người dễ mất
Pháp Phật khó nghe
Tinh-tấn khuyên lên đường giải-thoát.
Niệm không phải khó
Khó tại bền lâu
Khẩn nguyện cùng sanh về Cực-Lạc.
Bền lâu không khó
Khó ở nhứt tâm
Sẽ thấy hoa sen lầu các !
Vào khoảng cuối đời nhà Thanh bên Trung Hoa, ở Hàng Châu có một bà Phật tử đến am Hiếu Từ hỏi Đạo Nguyên hòa thượng:
"Con niệm Phật đã lâu, nhưng chưa thấy có chi tiến bộ, không biết tại sao?"
Hòa thượng bảo:
"Niệm Phật không khó, mà khó ở giữ cho được bền lâu. Chắc có lẽ bà niệm không được đều và bền nên mới như thế."
Bà thưa:
"Quả đúng như vậy. Con vì mắc gia duyên bận buộc, nên niệm Phật thường hay gián đoạn không được bền. Từ đây xin gát hết mọi duyên, nguyện giữ đúng như lời thầy dạy."
Cách ít lâu sau, bà lại đến hỏi:
"Từ khi nghe lời chỉ giáo đến nay, con dẹp hết mọi việc ngoài, mỗi ngày niệm Phật đều đều, sao vẫn chưa thấy có hiệu lực?"
Hòa thượng dạy tiếp:
"Niệm Phật không khó, khó ở bền lâu. Niệm bền lâu không khó, mà khó ở nơi nhứt tâm. Bên ngoài tuy bà gác hết mọi duyên, nhưng trong tâm còn lo đến việc nhà cửa, ruộng vườn, luyến tưởng đến cháu con quyến thuộc. Ý lo lắng chưa dứt, gốc tình ái vẫn còn, làm sao mà được nhứt tâm thấy Phật?"
Bà nghe nói liền than:
"Thật quả có như vậy! Con duyên ngoài tuy bỏ, nhưng tâm tưởng vẫn còn vấn vương. Từ đây xin trăm việc không quản đến, để nhứt tâm niệm Phật."
Sau khi lãnh giáo về nhà, con cháu hoặc người ngoài có bày tỏ hỏi han điều chi, bà đều bảo:
"Tôi muốn yên tâm, trăm việc xin không quản đến."
Do duyên cớ này, mọi người đều gọi là bà lão Bá Bất Quản. Vài năm sau, bà đến am Hiếu Từ lạy ngài Đạo Nguyên thưa:
"Nhờ ơn chỉ dạy, nay con niệm được nhứt tâm và đã thấy Phật. Xin đến lễ tạ giã từ hòa thượng, vì con sắp sẽ vãng sanh."
Bà Bá Bất Quản trên đây, do lãnh ngộ hai nguyên tắc: BỀN LÂU và NHỨT TÂM mà được kết quả giải thoát.
Cho nên người niệm Phật muốn đi đến mức tinh thuần, phải xem từ nhà cửa, ruộng vườn đến thân tình quyến thuộc như cảnh duyên giả tạm, hợp rồi lại tan. Nếu có lòng thương quyến thuộc, trước tiên phải làm sao cho mình được vãng sanh giải thoát, rồi sau sẽ độ người thân, mới là tình thương chân thật. Cho nên muốn niệm Phật, suy ra chẳng những trăm việc không quản, mà ngàn việc, muôn việc đều không quản đến mới được.
ĐỆ CỬU YẾU
Niệm Phật
Phải An Nhẫn Các Chướng Duyên
Cửa rồng tăm cá vượt
Đỉnh nhạn bóng chim qua
Khách đi nghìn dặm biệt sơn hà
Đường tu gian khổ
Chướng ngại trải hằng-sa
Nghịch thuận duyên ma-khảo
Thương ghét nợ oan-gia
Khá thương kham nhẫn cõi Ta- Bà
Khổ vui bao quản
Vinh nhục tợ sương hoa
Nhẫn nại bền lòng tinh tiến mãi
Ác vàng thỏ bạc
Năm tháng sẽ dần dà...
Lời Khuyên Dạy Của Cổ Đức
Vì biết trên đường tu có nhiều chướng ngại, khi xưa đức Đạt Ma Tổ Sư đã nói bốn hạnh để làm phương châm tiến đạo cho hàng đệ tử. Bốn hạnh ấy là: Báo Oan Hạnh, Tùy Duyên Hạnh, Xứng Pháp Hạnh và Vô Sở Cầu Hạnh.
Sao gọi là Báo Oan Hạnh?
Chúng ta từ trước đến nay luân hồi trong sáu nẻo, mỗi đời đều gây nghiệp trái hoặc ân hoặc oán, từ việc nhỏ đến việc lớn, có thể nói là vô lượng vô biên. Cho nên khi ta hành đạo, tuy nhờ công đức tu tập tiêu trừ một phần nào, nhưng các nghiệp chưa tan, tất phải lần lượt đền trả.
Như người thường đau yếu hoặc tàn tật, do kiếp trước đã tạo nghiệp sát sanh.
Người bị nhiều tiếng thị phi khen chê, do kiếp trước ỷ thông minh quyền thế xem rẻ người, hoặc đã tạo nghiệp hủy báng.
Người bị nghèo khổ thiếu hụt, do kiếp trước không có lòng xót thương tu hạnh bố thí.
Người bị gông cùm tra khảo tù đày, do kiếp trước hay trói buộc, đánh đập, giam nhốt chúng sanh.
Kẻ bị cô độc lẻ loi thiếu người phụ trợ, do kiếp trước không hoan hỷ kết duyên với mọi người.
Những nghiệp như thế vô lượng vô biên, ngày nay tu hành khi bị oan trái đến, phải an lòng nhẫn nại chịu đền trả, không nên oán trách buồn phiền. Nơi kiếp luân hồi, chúng sanh đều có ăn uống cùng gia đình đôi bạn, nên trong các nghiệp duy có nghiệp sát và nghiệp ái là nặng nhứt.
Cổ đức đã than:
"Bể nghiệp mênh mang,
Khó đoạn không chi hơn ÁI DỤC.
Cõi trần man mác,
Dễ phạm duy chỉ có SÁT SANH!"
Thế nào là Tùy Duyên Hạnh?
Đây là nói sự an phận tùy duyên của người tu cảnh nào sống theo cảnh ấy. Như cảnh giàu sang tùy theo giàu sang, cảnh nghèo hèn tùy theo nghèo hèn, cảnh man rợ tùy theo man rợ, cảnh hoạn nạn tùy theo hoạn nạn, Cho đến cảnh thạnh suy, họa phước, đắc thất, thị phi... cũng đều như thế.
An phận tùy duyên đây, là giàu sang mà không tự đắc kiêu căng, nghèo hèn hoạn nạn mà không buồn rầu đổi chí. Tại sao thế? Vì tất cả cảnh thạnh suy họa phước đều như huyễn, chỉ tùy nghiệp hiện lên một thời gian rồi diệt, có chi đáng tham luyến nản buồn?
Sao gọi là Xứng Pháp Hạnh?
"Pháp" đây là Chân Như pháp, đối với người tu Tịnh Độ là Niệm Phật Tam Muội. Người tu Thiền khi đi đứng nằm ngồi, tâm phải xứng hợp với pháp Chân Như, như nước hòa nước, tợ hư không hợp với hư không. Hành giả tu Tịnh Độ cũng thế, tâm lúc nào cũng trụ nơi câu niệm Phật.
Cổ đức bảo:
"Nếu tạm thời không trụ nơi CHÁNH ĐỊNH,
Tức đồng như người đã chết."
Bởi không trụ được nơi chánh định, tức là bị trần cảnh đoạt. Bị trần cảnh cướp đoạt lôi cuốn, thì pháp thân huệ mạng không còn. Cho nên người tu Tịnh Độ nếu thường trụ nơi câu niệm Phật, thì tâm địa lần lần lặng yên sáng suốt, cảm thông với Phật, chắc chắn sẽ được vãng sanh.
Thế nào là Vô Sở Cầu Hạnh?
Đạo là chỉ cho tâm hạnh trong sạch không mong cầu điều chi. Bởi tất cả pháp đều như huyễn, sanh rồi diệt, diệt lại sanh, có chi chân thật để mong cầu?
Vả lại pháp thế gian đều tương đối, trong họa có phước, trong phước có họa, nên người trí vẫn bình thản, ở cảnh thạnh suy họa phước đều không động tâm.
Có người hỏi:
"Nếu niệm Phật không cầu vãng sanh, không cầu phước huệ viên mãn để thành Phật, thì làm sao tu tiến?"
Đáp: "Bởi Phật là chơn không, càng cầu lại càng xa càng mất." Vì thế Kinh Pháp Hoa nói: "Giả sử có vô số bậc Thanh Văn, Duyên Giác cho đến hàng Bất Thối Bồ Tát, trong vô lượng kiếp suy nghĩ tìm cầu, cũng không thấy hiểu được thật trí của Phật."
Về sự vãng sanh, thì lối cầu của người tu là cầu mà không cầu, không cầu mà cầu. Sự ứng dụng ấy như mặt gương sáng trong, khi hình đến thì chiếu soi, hình đi, lại lặng yên rỗng suốt. (HÀNH XẢ là CẦU mà không CHẤP, Tâm thường AN TRỤ nơi BÌNH ĐẲNG CHƠN NHƯ)
Giữ sự thấy biết tìm cầu thì lạc vào VỌNG TƯỞNG,
Không thấy biết tìm cầu nào khác gì gỗ đá VÔ TRI!
Nói rộng ra, hạnh Vô Sở Cầu đây gồm cả ba môn: Không, Vô Tướng, Vô Nguyện vậy. Nếu người tu giữ theo bốn hạnh của đức Đạt Ma Tổ Sư đã dạy, thì có thể bình thản trước mọi chướng duyên.
ĐỆ THẬP YẾU
Niệm Phật
Phải Dự Bị Lúc Lâm Chung
Bên đường xe tang buồn đi qua
Chiều hôm mồ hoang sương trăng tà
Vô-thường đời trần thương ôi mau!
Người đi rồi lần sang phiên ta.
Nghìn xưa xa vời trong mông lung
Tài hoa tan về nơi vô cùng!
Luân-hồi không cầu đường siêu thăng
Dù cho hiền minh sao anh hùng?
Hoàng hôn mây hồng in non xa
Dung hoa thầm khô theo suy già
Di-Đà chuyên tu phòng lâm chung
Tương tư mơ về trời Liên-Hoa.
Từ Chiếu đại sư nói: "Người tu Tịnh Độ khi LÂM CHUNG thường có ba điều nghi, bốn cửa ải, hay làm chướng ngại cho sự vãng sanh, phải dự bị suy nghĩ trước để phá trừ BA ĐIỀU NGHI là:
1- Nghi mình túc nghiệp sâu nặng, thời gian công phu tu hành ít, e không được vãng sanh.
2- Nghi mình bản nguyện chưa trả xong, tham sân si chưa dứt, e không được vãng sanh.
3- Nghi mình niệm Phật, Phật không đến rước, e không được vãng sanh.
BỐN CỦA ẢI là:
1- Hoặc nhân bị bịnh khổ mà trở lại hủy báng Phật không linh.
2- Hoặc nhân tham sống mà giết vật mạng cúng tế.
3- Hoặc nhân uống thuốc mà dùng rượu cùng chất máu tanh hôi.
4- Hoặc nhân ái luyến mà tự ràng buộc với gia đình.
Đại sư nêu ra thuyết Tam Nghi Tứ Quan ở trên, bậc trí huệ có thể suy nghĩ tìm phương pháp giải quyết.
Niệm
Phật Thập Yếu
1. Vì thoát sanh tử.
2. Phát lòng Bồ Đề.
3. Dứt trừ lòng nghi.
4. Quyết định nguyện vãng sanh.
5. Hành trì cho thiết thật.
6. Đoạn tuyệt phiền não.
7. Khắc kỳ cầu chứng nghiệm.
8. Bền lâu không gián đoạn.
9. An nhẫn các chướng duyên.
10. Dự bị lúc lâm chung.
LỜI SAU CÙNG
Người xưa bảo: "Trứ thơ nghi tại vãn
niên." Đây là ý nói: Viết sách nên đợi lúc tuổi già, vì tuổi càng lớn càng
đầy đủ hiểu biết kinh nghiệm, quyển sách viết ra giá trị mới có thể được thành
toàn. Bút giả chưa phải tuổi già muộn, chỗ kinh nghiệm cùng sự hiểu biết tất
còn nhiều thiếu sót, song vì cấp thiết trong sự lợi tha, lại chẳng biết vô
thường sẽ đến ngày nào, nên gắng gượng xin đem chút ngu thành hiến dâng hàng
thức giả. Đây tuy nói là trứ tác song hầu hết phần lớn đều rút lời trong kinh
Phật, ý kiến của chư cổ đức cùng các bậc thiện tri thức mà góp thành. Nên thiết
tưởng cũng có thể đem lại lợi ích phần nào cho bạn đọc.
Khi xưa Sở Thạch đại sư có hai câu thơ:
Nhơn sanh bá tuế thất tuần hy.
Vãng sự hồi quan tận giác phi!
Lời này thốt ra trong lúc Ngài đã thất tuần, ý than:
kiếp người tuy nói trăm năm, nhưng sống được bảy mươi tuổi cũng rất ít có, và
tuổi đã bảy mươi như Ngài khi quay nhìn việc cũ, thấy mình đều lỗi lầm. Một bậc
cao tăng mà còn tự phê kiểm dường ấy, thì hạng người phàm thường sự lầm lỗi biết
là bao nhiêu? Cho nên khi bút giả nghĩ mình tội chướng còn dẫy đầy, tự độ chưa
xong mà mạo muội nói đến chuyện khuyên nhắc người, đôi lúc cũng hổ thẹn bàng
hoàng ngập ngừng không muốn viết. Nhưng nghĩ lại danh từ khuyến hóa thật ra
mình chẳng dám đương, nhưng lấy tánh cách người trong biển khổ gắng kêu nhắc
đồng bạn cùng vượt qua biển khổ, để mong cho mình nhờ chút ảnh hưởng đó tiêu
bớt phần nào tội chướng nên mới không ngần ngại.
Nhớ lại thuở đời nhà Minh bên Trung Hoa, ông La Điện
có soạn bài thi "Tỉnh thế" như sau:
Vội vội vàng vàng khổ nhọc cầu,
Mưa mưa nắng nắng trải xuân thu.
Hôm hôm sớm sớm lo sinh kế,
Lãng lãng quên quên thấy bạch đầu.
Thị thị phi phi không kết liễu,
Phiền phiền não não những bi ưu.
Rành rành rõ rõ một đường đạo,
Vạn vạn ngàn ngàn chẳng chịu tu!
Lời văn trên tuy thô sơ, dường như không có đạo lý
chi sâu sắc, nhưng đã đem tất cả hành vi và chướng nghiệp trong đời sống của
kiếp người mô tả ra rất rõ ràng. Ai có thể tránh khỏi khuôn khổ của bài thi
trên đây, và cố gắng tu hành, mới gọi là người đi trên đường giải thoát.
Ông La Điện sở dĩ có lời than trên đây, bởi thấy
biển tục dễ chìm, đường tu khó bước. Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, đức Phật
dạy:
Nhơn sanh có hai mươi việc khó:
- Nghèo khổ, bố thí là khó
- Giàu sang, học đạo là khó
- Xả thân, quyết chết là khó
- Xem được kinh Phật là khó
- Nhịn sắc lìa dục là khó
- Sanh gặp đời Phật là khó
- Thấy tốt không cầu là khó
- Bị nhục chẳng giận là khó
- Có thế không ỷ là khó
- Gặp việc vô tâm là khó
- Học rộng nghiên tầm nhiều là khó
- Trừ bỏ ngã mạn là khó
- Không khinh kẻ chưa học là khó
- Tâm hành bình đẳng là khó
- Chẳng nói việc thị phi là khó
- Được gặp thiện tri thức là khó
- Thấy tánh học đạo là khó
- Tùy duyên độ người là khó
- Thấy cảnh không động là khó
- Khéo biết dùng phương tiện là khó.
Trong hai mươi điều trên, nơi đây chỉ xin nói lược qua ít chi tiết. Như nghèo khổ bố thí là khó, bởi nghèo khổ dù muốn bố thí, nhưng ngặt vì có lòng mà thiếu sức, nếu gắng gượng bố thí tất ảnh hưởng đến sự sống của mình, nên mới thành khó.
Hoặc như giàu sang học đạo khó, bởi giàu sang tuy có sức bố thí, song lại bị cảnh dục lạc lôi cuốn, khó buông bỏ thân tâm để tu hành.
Sanh gặp đời Phật là khó, như Luận Trí Độ nói: Ở thành Xá Vệ gồm chín ức dân mà chỉ có ba ức người được gặp thấy Phật, ba ức người tuy nghe danh tin tưởng nhưng không thấy gặp, và ba ức người hoàn toàn không được nghe biết cũng không được thấy. Đức Phật ở tại xứ này giáo hóa trước sau hai mươi lăm năm, mà còn có ba ức người không thấy gặp nghe biết, thì những kẻ sanh nhằm đời Phật nhưng ở cách xa, hoặc sanh trước hay sau khi Phật ra đời, tất cơ duyên gặp Phật hoặc nghe Phật pháp là điều không phải dễ. Nhưng tuy không gặp Phật mà y theo Phật pháp tu hành, thì cũng như gặp Phật.
Nếu không theo lời Phật dạy, dù ở gần Phật, vẫn là cách xa. Như khi xưa Đề Bà Đạt Đa là em họ của Phật, Tỳ Khưu Thiện Tinh làm thị giả cho Phật hai mươi năm, vì không giữ đúng theo đường đạo, nên kết cuộc đều bị đọa địa ngục. Và bà lão ở phía Ðông thành Xá Vệ, sanh đồng năm tháng ngày giờ với Phật, nhưng vì vô duyên nên không muốn thấy gặp Phật. Cho nên được thấy Phật nghe pháp, y theo lời dạy phụng hành, phải là người có nhiều căn lành phước đức nhân duyên. Nay Như Lai đã nhập diệt, các bậc thiện tri thức thay thế Phật ra hoằng dương đạo pháp, nếu thân cận nghe theo lời khuyên dạy tu hành, tất cũng được giải thoát. Nhưng kẻ căn lành sơ bạc, gặp thiện tri thức cũng khó. Dù có duyên được thấy mặt nghe pháp, song nếu không hiểu nghĩa lý, hoặc chấp hình thức bên ngoài mà chẳng chịu tin theo, thì cũng đều vô ích.
Theo Kinh Phạm Võng và Hoa Nghiêm, muốn tìm cầu thiện tri thức, đừng câu nệ theo hình thức bên ngoài; như chớ chấp kẻ đó trẻ tuổi, nghèo nàn, địa vị thấp, hoặc dòng dõi hạ tiện, tướng mạo xấu xa, các căn chẳng đủ, mà chỉ cầu người thông hiểu Phật pháp, có thể làm lợi ích cho mình. Lại đối với bậc thiện tri thức chớ nên tìm cầu sự lỗi lầm, bởi vị đó có khi vì mật hạnh tu hành, vì phương tiện hóa độ, hoặc đạo lực tuy cao song tập khí còn chưa dứt, nên mới có hành động như vậy. Nếu chấp nê hình thức, tìm cầu lỗi lầm, tất không được lợi ích trên đường đạo.
Khi Phật còn tại thế, ngài Ca Lưu Đà Di có thói quen miệng nhơi qua, nhơi lại như trâu; Tỳ Khưu Ni Liên Hoa Sắc tánh ưa soi gương trang điểm; một vị Tỳ Khưu thích leo lên cây nhảy chuyền; một vị Tỳ Khưu khác nói với ai, ưa lên giọng xưng mi tao lớn lối. Nhưng sự thật bốn vị này đều đã chứng quả A La Hán cả. Bởi kiếp trước một vị làm thân trâu, một vị là kỹ nữ, một vị làm thân khỉ, một vị là dòng quý tộc Bà La Môn, nhiều đời ở trong hoàn cảnh đó, đến nay tuy đắc quả, song tập quán dư thừa hãy còn.
Lại như đức Lục Tổ vì thấy người học Phật thời ấy ưa chấp nói theo kinh văn, không nhận ngay Phật tánh, nên mới thị hiện làm kẻ dốt, không biết chữ. Ngọc Lam thiền sư vì muốn tránh duyên để tu hành, nên mới giả làm người điên cuồng, quần áo lôi thôi, ăn nói không chừng độ. Hư Vân hòa thượng vì thấy người thời mạt pháp, phần nhiều thân xuất gia, mà tâm không xuất gia nên tuy đã ngộ đạo mà thường để râu tóc, mật ý chỉ cho "đạo" không phải ở nơi đầu tròn áo vuông. Nhưng đương thời của các vị ấy, cũng có nhiều kẻ chê bai chỉ trích đức Lục Tổ là dốt nát, ngài Ngọc Lam là điên khùng, Hư Vân thượng nhơn là người phạm quy luật Thiền môn. Cho nên nhìn tìm bậc thiện tri thức khó là như thế.
Mấy điều này người học Phật cũng nên
hiểu, để bớt sự cố chấp và tránh lỗi khinh báng Tăng, Ni. Còn các việc khó kia,
có thể suy ra để hiểu.
Tuy nhiên, khó và dễ là pháp đối đãi, trong khó có dễ, trong dễ có khó. Nếu nhận hiểu và quyết tâm thì các việc khó chẳng phải không thể làm được. Như thuở đời Phật Tỳ Bà Thi, có hai vợ chồng ông Kế La Di, nghèo đến đỗi mặc chung một chiếc khố, khi chồng đi làm vợ phải lõa thể đóng cửa ở nhà, vợ thay phiên đi làm thì chồng cũng y như vậy. Nhưng khi nghe chư tăng đi khuyến hóa, bảo bố thí sẽ có phước tránh cảnh nghèo khổ, hai vợ chồng bàn luận nhau đem chiếc khố duy nhứt ấy trao qua cửa sổ bố thí, đành cam cùng chịu lõa thể đóng cửa nằm chết trong nhà. Do sự quyết tâm làm lành đó, khiến cho vị quốc vương hay được, đem y phục tiền của giúp đỡ. Từ đó về sau, mỗi đời sanh ra, hai vợ chồng đều có y phục tùy thân, và sau cùng đều chứng đạo quả.
Cho nên tuy nghèo khổ, bố thí là khó, nhưng nếu hiểu cái nhân nghèo nàn do bởi không bố thí, rồi quyết tâm cam chịu thiếu kém khổ cực đem của riêng để tu phước, tất việc bố thí cũng có thể làm. Lại như vua Thuận Trị nhà Thanh, lên ngôi hồi sáu tuổi, hai mươi bốn tuổi từ bỏ vương vị, theo Ngọc Lâm quốc sư đầu Phật xuất gia. Làm một vị hoàng đế giàu sang tột bực, ở lầu rồng, gác phượng ăn hải vị, sơn hào, phi tần có cả hàng ngàn trang tuyệt sắc giai nhơn, quyền lực nắm cả thần dân trong một nước, sự phú quý còn chi hơn? Nhưng nếu nhận rõ sự phước lạc thế gian vô thường như mộng huyễn, cảnh chân như thường tịch mới thật là vui, thì tuy nói giàu sang học đạo là khó, song đã quyết tâm tất cũng có thể thật hành.
Ngoài ra, nghèo khổ quá tu hành vẫn thật khó, nhưng nếu có chí cũng chẳng
phải không làm được. Như thuở Phật Thích Ca còn ở đời, có một bà lão rất nghèo
khổ, ở mướn cho người từ hồi mười ba tuổi, đến tám mươi tuổi cũng còn vất vả, ban
ngày làm việc không ngơi nghỉ, đêm nào cũng phải giã gạo đến canh hai, gà gáy
sáng đã thức dậy quây quần bên cối xay bột. Hoàn cảnh cực nhọc không rảnh rỗi
như thế, muốn tu hành là một sự vạn nan. Nhưng nhờ tôn giả Ca Chiên Diên khuyến
hóa, nên mỗi buổi tối sau khi giã gạo xong, bà tắm rửa thay đổi y phục, ngồi tu
niệm đến quá nửa đêm mới đi nghỉ. Nhờ sự quyết tâm cố gắng đó, mà sau khi chết
bà được sanh lên làm vị thiên tử ở cung trời Dạ Ma.
Kính thưa quý vị!
Thân người khó được, pháp Phật khó
nghe. Nay quý vị đã được thân người, và có duyên xem đến quyển này, tức là đã
gặp được pháp môn thành Phật mầu nhiệm. Dù gặp phải hoàn cảnh khó khăn, xin quý
vị nhận rõ duyên đời khổ mộng, quyết chí tu hành, để hoa sen báu bên trời tây
được nở thêm những hàng thượng thiện.
Ngày Phật Đản 2515
THÍCH THIỀN TÂM
kính phụng
Thứ Hai Mươi Ba
Vị đạo cầu tiên nguyện trường sinh
Thọ dữ thiên tề bất giảm tăng
Toại tâm như ý thông biến hóa
Ngũ sắc tường vân túc hạ đăng.
Ma Hê Ma Hê [26]
Án-- phạ nhựt-ra, ca rị ra tra hàm tra.
Một câu A Di Đà
Phương tiện cực mầu lạ
Nhiếp khắp hết căn cơ
Rẽ thông vào Bát nhã.
Nhứt cú Di Đà
Danh dị phương tiện
Phổ nhiếp quần cơ
Bàng thông nhất tuyến.
LƯỢC GIẢI
Ấn Quang Đại sư nói: “Tu các môn khác phải nhiều đời mới thoát luân hồi, và theo như Khởi Tín Luận thì phải trải qua một muôn đại kiếp tu hành liên tục mới vượt lên ngôi Bất thối chuyển. Ví như quan chức phải từ phẩm bậc nhỏ lần lượt thăng đến ngôi Tể tướng.
Riêng môn Niệm Phật là phương tiệm mầu lạ để mau thành Phật một đời được đới nghiệp vãng sanh thoát khỏi luân hồi, một kiếp đã bước lên ngôi Bất thối chuyển. Ví như Thái tử khi mới sanh ra, đã tôn qúi vượt hẳn quần thần”.
Môn Niệm Phật lại nhiếp tất cả căn cơ, dưới từ loài qủy súc, hạng ngu tốt dốt nát tật nguyền, trên đến bậc Đẳng giác Bồ Tát như Văn Thù Phổ Hiền cũng có lời nguyện cầu sanh Tịnh độ.
Chữ “Nhất tuyến” đây là chỉ cho môn thiền Trực chỉ, tức đường lối thẳng vào Bát nhã chân tâm. Ngài Triệt Ngộ dùng từ ngữ này, bởi ngài là một “đại thiền sư”.
Lại “Nhất tuyến” cũng hàm chỉ cho đường lối đặc sắc nhiệm mầu của môn Tịnh Độ.
TRƯƠNG THỦ ƯỚC
Cư sĩ Trương Thủ Ước, người đời Minh, ở huyện Tú Thủy, tỉnh Triết Giang. Ông nhà nghèo mà ưa bố thí, hằng dùng trăm ngàn phương tiện khuyên gọi các vị đạo tâm rộng làm việc lợi ích.
Lúc lớn tuổi, ông tạ tuyệt duyên đời, bữa cháo bữa rau, mỗi ngày thường chuyên niệm Phật. Cư sĩ thường phỏng theo ngài Hàn Sơn, làm ba trăm bài thi, khuyến tấn mọi người quy hướng về Tịnh độ. Xin lược trích mấy bài như sau:
Cao cả nguyện Di Đà
Rộng mầu môn Niệm Phật.
Muôn kiếp khổ luân hồi
Đời nay mới tường tất.
Nên sanh tưởng khó gặp
Dè chớ mê lạc mất.
Niệm niệm cầu vãng sanh
Tâm tâm quý chuyên nhất.
Hôm qua đến nhà Phật
Niệm niệm lòng sâu thiết!
Ngày nay ở nhà lửa
Tâm phiền rối bận việc
Nếu chẳng vững đạo căn
Khó khỏi chìm mê kiếp
Cho nên bậc hiền xưa
Ở non tu tịnh nghiệp.
Cõi tạm gởi huyễn thản
Tùy duyên mọi việc tất
Không vương nửa điểm trần
Chỉ niệm một câu Phật
Tánh mềm dịu tợ bông
Nguyện cứng bền như sắt
Nếu theo việc vẩn vơ
Đáy nước tìm trăng thật.
Thượng phẩm thấy Phật sớm
Hạ phẩm thấy Phật chầy.
Sớm chầy tuy sai khác
Duyên trần đã thoát ly.
Tham thiền ngại chấp tướng
Niệm Phật quý dứt nghi
Xác thật có Tịnh độ
Xác thật có Liên trì!
Bảy chục xưa nay ít
Trước mắt chẳng nhiều ngày!
Phải mau cầu giải thoát
Tìm gởi chất liên thai.
Ngang trái cho ngang trái
Vạy ngay mặc vạy ngay.
Đâu rảnh đối kẻ xấu
Phân biệt phải cùng sai.
Vợ Thủ ước là Đào thị, từ khi về nhà chồng, mỗi ngày cũng tụng kinh niệm Phật. Khi ông đến non Phổ Đà lễ Quán Âm đại sĩ, Đào thị bảo hai con rằng: “Mẹ bình nhựt tu trì đã tỏ ngộ tông chỉ :
“Tâm nầy làm Phật,
Tâm nầy tức Phật”.
Ngày nay, Ta Bà duyên mãn, mẹ sắp về cảnh Tịnh độ an vui!” Nói xong, ngồi niệm Phật mà hóa. Hôm sau Thủ Ước về đến nhà thì việc tẩn liệm đã xong. Bỗng trên nắp hòm của Đào thị mọc lên năm cánh sen màu xanh. Mọi người đều khen ngợi kinh lạ.
Về sau, Thủ Ước cùng được thoại ứng khi lâm chung.
CHUNG
Ẩn tu phương tiện mượn thi ngâm
Thức ngộ mình người khởi đạo tâm
Đâu nghỉ hoa đào ra động bích
Mà mong Lưu Nguyễn ghé vào thăm?
Động Đào Nguyên
Đào Nguyên còn gọi là động Bích.
Đây là chỗ tiên ở.
Tương truyền đời nhà Tấn (265-419), có người chài cá
ở huyện Vũ Lăng, một hôm chèo thuyền đi ngược ven theo bờ suối. Càng đi xa chừng
nào thì thấy có nhiều hoa đào trôi theo dòng nước đổ xuống. Đến một quãng, bỗng
thấy trước mặt hiện ra một rừng đào. Hoa đào đỏ rực rỡ làm cho ngư phủ càng thấy
say sưa thích thú. Định co người ở gần đấy nên bỏ thuyền, lên bờ. Vượt qua rừng
đào, đến một ngọn núi. Dưới chân núi có một cửa hang nhỏ hẹp, vừa chui được một
người. Bên trong thấp thoáng có ánh sáng.
Gợi tính tò mò, chàng lách mình vào cửa hang. Lúc đầu,
cửa hang còn hẹp, sau rộng dần, rồi cả một thế giới hiện ra: ruộng vườn tươi tốt,
nhà cửa thôn ấp liên tiếp nhau; tiếng gà, tiếng chó nghe rõ mồn một; thanh niên
thiếu nữ đều say sưa công việc đồng áng. Trên mặt mọi người hiện nét vui tươi
chất phác hồn nhiên. Người già, con trẻ đều có vẻ ung dung thanh thản.
Những người ở đây thấy chàng ngư phủ thì lấy làm
kinh ngạc hỏi: làm sao đến được chốn này? Ngư phủ trình bày sự thực. Các bực phụ
lão đem vợ con ra chào mừng khách lạ, dọn cơm rượu đãi khách.
Ngư phủ ăn uống lấy làm ngon lạ, vì tuy cơm rượu mà
tính chất khác thường. Những bực phụ lão lại nói:
- Tổ tiên chúng tôi tránh loạn đời Tần, đem cả gia
đình vào ở đây, từ đó cách biệt với bên ngoài.
Hiện nay, chúng tôi không còn biết nhà Hán, huống hồ
là nhà Ngụy, và nhà Tấn. Cuối cùng, họ lại dặn ngư phủ: sau khi ra khỏi chốn
này, xin đừng cho ai biết có họ ở đây.
Người đánh cá ở chơi một hôm rồi xin cáo biệt.
Từ đời nhà Tần (221 trước D.L.) đến nhà Tấn (419 sau
Dương lịch) mà họ đến đây tránh nạn kể ra có trên sáu trăm năm. Người đánh cá
cho mình may mắn đã được gặp tiên. Nên khi trở về, nhiều người đến thăm hỏi,
trước còn tìm cách giấu nhưng cuối cùng chuyện thấu đến quan Thái Thú sở tại,
ngư phủ đành phải thuật cả việc lại.
Có tính hiếu kỳ, viên Thái Thú sai người đi theo
chàng ngư phủ tìm lại động Đào Nguyên, nhưng hai người bị lạc đường đành phải
trở về.
Trong truyện "Hoa tiên" của Nguyễn Huy Tự
có câu: "Nào hay là khách Đào Nguyên đã về".
Trong "Đoạn trường tân thanh" của Nguyễn Du đoạn thuật lại lời Thúy Kiều nói với Kim Trọng trong khi nhà vắng, nàng lén sang chỗ ở của chàng, có câu: "Xắn tay mở khóa động Đào".
"Động Đào" là động Đào Nguyên, Kiều dùng lối
thậm xưng, đề cao chỗ ở của tình nhân như một cõi tiên; và nàng cũng vinh hạnh
được vào... cõi tiên ấy.
Trong "Tần cung nữ oán Bái Công văn" của
Nguyễn Hữu Chỉnh (?) có câu: "Nếu tuổi xanh chẳng nhuốm bụi hồng, chiếc
ngư phủ đã đưa vào động Bích".
"Động Đào", "Đào Nguyên",
"động Bích" đều do điển tích trên.
Nguyễn Tử Quang
Điển hay tích lạ
MỘNG VU SƠN
XÓA TÌNH VỢ CHỒNG ÂN ÁI
Vợ chồng duyên đẹp
Loan phượng mến yêu
Mối giây ân ái thuở nào tiêu ?
Mộng tình theo lẽo đẽo
Duyên hết lìa đôi nẻo !
Ôi chà chà !
Vấn vương vui hết lại buồn đau
Tam đồ thêm khổ não !
Xét rõ phá oan gia
Tìm của đạo mầu mau thoát tháo.
Bởi thế nên đem
Cá nước duyên kia xóa sạch làu !
Lưu Nguyễn Nhập Thiên Thai
Nguyên tác
: U Minh Lục
Tác giả : Lưu Nghĩa Khánh
Bản dịch của : Phạm Xuân Hy
Theo sách “Thái
Bình Quảng Ký-太平廣記“ quyển 41, trích dẫn sách “U Minh Lục“ của Lưu Nghĩa Khánh,
người triều Tống, thời Nam triều thì :
Vào năm Vĩnh Bình
ngũ niên, tức năm 62 CN, đời vua Hán Minh Đế, ở Diễm huyện, có hai người là
Lưu Thần và Nguyễn Triệu rủ nhau vào núi Thiên Thai để hái thuốc, bị lạc ở
trong núi mười ngày, hết lương thực, đói sắp chết, thì thấy ở đằng xa trên
núi có cây đào, đầy những trái, nhưng vách cao đèo sâu, không có đường
lên, bèn víu vào những dây leo mà lên, rồi hái mỗi người ăn mấy trái cho
khỏi đói, Trong người trở nên khỏe khoắn.
Sau đó hai người xuống núi, lấy bát múc nước uống, định rửa tay, thì thấy một chiếc lá rơi lạc lõng, còn xanh tươi, nõn nà, từ trong lòng núi trôi ra, sau lại thấy có một cái bát trôi ra theo, trong chén còn sót lại những hạt vừng.
Hai người mới
bảo nhau:
-Nơi đây ắt là có
người ở không xa.
Bèn cùng nhau lội
xuống suối, đi ngược trở lại chừng hai ba dặm, đến một chân núi, gặp được một
con suối lớn, có hai người con gái đứng bên kia bờ, trông dáng dấp yêu
kiều diễm lệ vô cùng.
Hai người con gái
thấy Lưu Thần và Nguyễn Triệu cầm bát múc nước, mới cười, bảo :
-Lưu, Nguyễn nhị
lang, xin hãy trao lại cái chén cho thiếp !
Lưu Thần và
Nguyễn Triệu vốn chưa từng biết hai nàng, nay hai nàng lại gọi tên một
cách thân mật, tựa hồ như người quen biết cũ, hân hoan vui vẻ, và hỏi
hai chàng vì sao đến trễ.
Rồi mời Lưu
Thần, Nguyễn Triệu về nhà.
Ngôi nhà mái lợp
bằng loại tre lớn. Các vách phía nam và phía đông, mỗi phía đều có kê một
chiếc giường rộng lớn, trên phủ gấm tía lụa hồng, ở mỗi góc giường đều
có treo khánh ngọc, chuông vàng, và đầu giường có chừng mười đứa thị
nữ đứng hầu.
Hai nàng mới bảo
với Lưu Thần, Nguyễn Triệu :
-Nhị vị lang
quân, sơn xuyên vất vả, hẳn là mệt nhọc, mau ăn đi thôi.
Rồi đem cơm vừng
đen, thịt bò rừng, đãi hai chàng. Rất là ngon miệng. Ăn xong thì uống rượu.
Sau đó có một
đám tì nữ, mỗi người trên tay cầm bốn năm trái đào, chúm chím tươi
cười chúc tụng :
-Kính chúc nhị vị
cô nương kén được rể mới.
Lưu, Nguyễn rượu
say túy lúy, vừa mừng vừa sợ, rồi cùng hai nàng vui vẻ mãi cho đến thật
khuya, thì hai nàng mới mời hai chàng lên giường, mỗi người một giường,
rồi lên sau.
Nghe giọng nói và
thanh âm của hai nàng ngọt ngào, êm ái, khiến hai chàng hết hẳn lo âu phiền
muộn.
Sống ở đấy được
mười ngày, hai chàng bỗng chạnh niềm cố quốc, bèn ngỏ ý muốn trở về quê.
Thì hai nàng nói
:
-Nhị lang, đến
đây, là duyên từ kiếp trước đưa lại, sao nay lại muốn trở về ?
Vì thế, Lưu Nguyễn
mới ở lại với hai nàng thêm nửa năm nữa.
Một hôm, vào tiết
xuân sang, cỏ xanh mơn mởn, hoa lá rộn ràng, cây cối xum xuê. Oanh hát, yến ca,
đua nhau hót líu lo, khiến hai chàng càng nặng thêm niềm tư hương cố thổ, lại
khẩn khoản xin với hai nàng cho trở về nhà.
Hai nàng nói :
- Duyên kiếp ràng
buộc. Chị em thiếp biết làm gì bây giờ.
Nhưng rồi, cũng gọi
mấy chục đứa tỳ nữ đem nhạc cụ đàn sáo, chiêng phách, đến diễn tấu, để tiễn
biệt hai chàng về quê.
Khi Lưu Lang và
Nguyễn Triệu về đến quê, thấy họ hàng làng xóm, đều tinh tán không còn ai. Xóm
cũ năm xưa, nay hoàn toàn xa lạ, không còn nhận ra được nữa.
Cũng may có đứa
trẻ, cháu bẩy đời, thuật lại là ông cố cố tổ ngày trước vào núi hái thuốc, lạc
đường không thấy về nữa.
Đến năm Thái Nguyên
bát niên nhà Đông Tấn, tức năm 383 CN đời Tấn Hiếu Võ Đế Tư Mã Huy (362-396),
người ta bỗng lại thấy Lưu, Nguyễn bỏ ra đi. Nhưng không ai biết là đi đâu.
Hậu thế, có người
bâng khuâng nghe lời ca thiên cổ, cao vút, mơ hồ từ xa vọng lại :
« Thiên Thai !
Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng,
nhớ Lưu Nguyễn ngày
xưa lạc tới đào nguyên ».
Làm bản dịch này.
Rồi âm thầm đưa tay
lau nước mắt.
Comments
Post a Comment