MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu
Nạp Đường
1) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
2) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Như bài kệ trên đã dẫn, ta thấy đại khái ý chỉ của câu
niệm Phật cao diệu như thế nào! Cho nên Thành Thời Ðại Sư đã nói trong một Ðề
Từ: " Mà trong A Di hồng danh thâm. Nghìn muôn khôn tìm ra tri âm! Thiên
Như lòng từ soi chân đăng. Ðưa người mau ra vòng mê lầm...Ôi câu hồng danh mầu
thâm xa. Sâu cùng chư tông làng Thiền Na. Buông ra thâu vào đều như như. Tương
tư mơ đầy trời liên hoa !" Ðiệu đàn niệm Phật cao siêu mầu nhiệm như thế, trừ ra
bậc tri âm, chớ kẻ tai gỗ làm sao nghe thấu? Vì thế nhiều kẻ đã lầm đánh giá
Niệm Phật là pháp thấp kém chỉ để cho kẻ ngu dốt, hạng người già cả tu hành.
Thật đáng cảm xót vì cảnh ít tri âm, như lời một bậc tiền bối đã than:
Nga nga hồ chí tại cao
sơn
Dương dương hồ ý tại lưu thủy!
Ðàn Bá Nha ít kẻ tri âm
Những nghe qua xót trộm lại đau thầm.
Chung Kỳ mất đập cầm không muốn khảy!
3) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Một người tới nhà bạn thân chơi, cố giao rót trà ra chén mời uống. Lúc ấy vào khoảng đầu đêm, ánh đèn chấp chóa in bóng cung treo gần bên vào chén giống như con rắn đang lăng quăng chao động. Trong lúc không kịp suy nghĩ, người ấy uống vội hết chén trà, rồi chợt sanh lòng nghi là mình đã nuốt con rắn nhỏ vào bụng, nhưng không dám nói. Về đến nhà anh lo sợ, rồi phát bịnh. Sau bạn đến thăm, hỏi biết duyên cớ, mời đến nhà để dĩa đèn và chén trà chỗ cũ, chỉ cây cung treo gần bên, người ấy mới dứt hết mối nghi và lành bịnh. Thuở xưa người Ấn Ðộ khi luyện thuốc quí, thường dùng gương dầy hoặc ngọc thủy tinh tụ ánh sáng mặt trăng để lấy nước. Luyện xong lại cất thuốc vào bình bạc hoặc bình vàng, cho tăng thêm hiệu lực linh nghiệm. Ðây ý nói câu niệm Phật rõ ràng là pháp Viên Ðốn đi thẳng vào chân tâm, ngay lúc niệm Phật tức đã thể hiện Phật tánh, ví như thuốc quí lấy ra từ bình vàng. Kẻ không biết lầm hiểu niệm Phật là pháp Quyền Giáo để dứt trừ vọng tưởng, hoặc pháp Tiệm Giáo để gieo lần thiện căn. Như thế có khác gì anh chàng lờ lạc nghi ngờ lầm bóng cung là rắn đâu ?
4) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Ấn Quang Ðại Sư nói: "Tu các môn khác phải nhiều đời
mới thoát luân hồi, và theo như Khởi Tín Luận thì phải trải qua một muôn đại
kiếp tu hành liên tục mới vượt lên ngôi Bất Thối Chuyển. Ví như quan chức phải
từ phẩm bậc nhỏ lần lượt thăng đến ngôi Tể Tướng. Riêng môn Niệm Phật là phương
tiệm mầu lạ để mau thành Phật một đời được đới nghiệp vãng sanh thoát khỏi luân
hồi, một kiếp đã bước lên ngôi Bất Thối Chuyển. Ví như Thái Tử khi mới
sanh ra, đã tôn quý vượt hẳn quần thần". Môn Niệm Phật lại nhiếp tất cả
căn cơ, dưới từ loài quỷ súc, hạng ngu tối dốt nát tật nguyền, trên đến bậc
Ðẳng Giác Bồ Tát như Văn Thù Phổ Hiền cũng có lời nguyện cầu sanh Tịnh độ. Chữ
"nhất tuyến" đây là chỉ cho môn Thiền Trực Chỉ, tức đường lối thẳng
vào Bát Nhã chân tâm. Ngài Triệt Ngộ dùng từ ngữ này, bởi ngài là một "đại
thiền sư". Lại "nhất tuyến" cũng hàm chỉ cho đường lối đặc sắc
nhiệm mầu của môn Tịnh Ðộ.
5) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
6) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Liên Trì Ðại Sư nói: "Một câu A Di Ðà gồm: đại thiện
căn, đại phương tiện, đại phước đức, đại trí huệ, đại giải thoát, đại từ bi.
Câu niệm Phật đã có nhiều công đức lớn như thế nên người niệm Phật mau diệt
nhiều tội chướng, mau sanh nhiều phước huệ, khi lâm chung quyết định Phật sẽ
hiện thân tiếp dẫn sanh về Cực Lạc”. Cho nên chư Phật sáu phương hiện ra tướng
lưỡi rộng dài, tiêu biểu cho sự tuyên thuyết pháp môn tối thượng thừa, mà ngợi
khen công đức không thể nghĩ bàn của Tịnh Ðộ. Ðã là pháp môn công đức không thể
nghĩ bàn thì đức Thích Ca Mâu Ni và chư Phật dù đã dùng Tứ Biện Tài là: Pháp Vô
Ngại Biện, Nghĩa Vô Ngại Biện, Từ Vô Ngại Biện, Nghĩa Vô Ngại Biện, cũng không
thể tuyên dương ngợi khen cho hết được.
7) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Niệm Phật chẳng riêng khi lâm chung được sanh về cõi Phật
mà thôi. Trong hiện tại nếu hành giả nhiếp cả sáu căn, giữ cho tịnh niệm nối
luôn, và có thể ngay đời này được ngộ đạo, chứng vào Vô Sanh Pháp Nhẫn. Cho nên
gọi: Niệm Phật là tiêu chuẩn thành Phật.
8) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
|
Ba ngôi Bất Thối Chuyển là: Vị Bất Thối, Hạnh Bất Thối, và Niệm Bất Thối. Cứ theo Thiên Thai Giáo, chứng được đệ nhất bất thối tâm trụ, mới lên ngôi Vị Bất Thối. Chứng Thập Hồi Hướng, lên ngôi Hạnh Bất Thối. Và chứng Sơ Ðịa mới vào ngôi Niệm Bất Thối. Nhưng ước theo đường lối phổ thông của Ðại Thừa giáo thì phá được kiến tư hoặc mới lên ngôi Vị Bất Thối. Phục đoạn trần sa hoặc, lên ngôi Hạnh Bất Thối. Và tiến phá vô minh hoặc, mới vào ngôi Niệm Bất Thối. Như thế chứng được ba ngôi bất thối thật không phải dễ! Theo các giáo môn khác, tất phải tu tập trải a tăng kỳ số kiếp mới chứng nhập được. Với pháp môn Tịnh Ðộ, khi được vãng sanh kể như vĩnh viễn không còn bị thối chuyển nữa. Ðiều này, theo kinh giáo, gọi là Xứ Bất Thối. Từ Xứ Bất Thối, địa vị tam bất thối là cầm chắc trong tay, lần lượt sẽ tiến lên Phật qủa. Cho nên kinh Di Ðà nói: “Là bậc A Bệ Bạt Trí (Bất thối chuyển)". Chư thiện nhơn ở Cực Lạc sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, chỉ trong một kiếp sanh về nơi đó đã dư thời gian chứng lên ngôi Nhứt Sanh Bổ Xứ, được bổ vào Phật vị rồi.
9) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
|
Trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Bất Tư Nghị Giải Thoát
Cảnh Giới, sau khi đức Phổ Hiền nói mười Ðại Nguyện Vương, ngài liền tự phát
thệ và khuyên Thiện Tài đồng tử cùng hải chúng Bồ Tát trong biển thế giới Hoa
Tạng đều nên niệm Phật hồi hướng về Cực Lạc. Lời phát thệ như sau:
Tôi nguyện khi lúc sắp
mạng chung
Dứt trừ tất cả điều chướng ngại
Diện kiến đức Phật A Di Ðà
Liền được sanh về cõi An Lạc.
Tại sao thế? Vì muốn vào cảnh giới bất tư nghị giải thoát, muốn thành tựu các
công đức, muốn chứng Phật quả phải thật hành mười đại nguyện vương, và muốn
không bị nhiều chướng duyên làm cho thối chuyển, muốn sớm mau hoàn mãn mười Ðại
Nguyện Vương ấy, tất phải cầu sanh Cực Lạc! Cho nên lời đức Phổ Hiền khuyên dạy
chư Bồ Tát niệm Phật cầu về Cực Lạc không phải là điều dạy bảo cạn cợt, lạc
lầm, nói suông rồi cho xong chuyện! Mà chính đó là lời khuyên dạy tối quan yếu,
bao gồm ý vị rất sâu sắc, phải suy gẫm nhiều mới thấu hiểu!
10) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Câu niệm Phật, đối với bậc cao, thì có niệm đồng với
không niệm. Và mặc dù không nghĩ rằng mình là người hay niệm, đức Phật là vị
được niệm, tâm niệm hằng rỗng không, nhưng cũng chẳng ngại gì câu niệm Phật
thường hiển lộ rành rẽ, rõ ràng. Như chư Bồ Tát, Tổ Sư vẫn đi dứng, nằm ngồi,
vẫn ăn cơm mặc áo, vẫn thuyết pháp tụng kinh, mà không thấy có các tướng ấy.
Các ngài làm pháp hữu vi mà tâm vô vi, tâm tuy vô vi vi song vẫn làm tất cả
pháp hữu vi. Như thế mới chẳng đọa vào lỗi "không và có", tiến lên
cảnh giới Ðại Thừa. Cho nên đức Lục Tổ đã bảo:
Không niệm, niệm mới
chánh
Có niệm, niệm thành tà
Có, không đều chẳng tưởng
Ngồi được bạch ngưu xa.
Cần nhận rõ: Không và Có trên đây, chẳng phải là không niệm Phật, tụng kinh.
Ðây chính là niệm Phật đi vào cảnh giới chân không, chẳng tưởng nghĩ rằng mình
có niệm hay không niệm. Với bậc kém hơn, tuy chưa thể ứng dụng được như thế,
nhưng biết niệm Phật tức là đã tiến lên đường tu bằng phẳng, bước đi an ổn vững
vàng, lần siêu vào cảnh giới Ðại Thừa. Như đã ngồi trên xe bạch ngưu, bước đi
của nó thật bằng vững, không còn lo ngại chi nữa !
11) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Có một tu sĩ hỏi vị thượng tọa: "Niệm Phật để làm
gì?". Ngài đáp: "Niệm Phật để thành Phật!" Tu sĩ ấy mỉm cười lui
về, ý không công nhận. Tu sĩ đó không công nhận vì ông chưa hiểu và chưa ứng
dụng được hạnh niệm Phật đi ngay vào Phật cảnh, tức vào tâm tạng của Như Lai.
Theo trí phân biệt, ông chỉ chấp nhận và chỉ có thể ứng dụng câu niệm Phật để
trừ vọng tưởng, lần lần chứng vào Chân Như mà thôi. Nếu theo tâm chấp tướng
phân biệt, người ta thấy sóng với nước, xuyến cùng vàng khác nhau. Nhưng thật
ra, các thứ đó chẳng phải một, cũng chẳng phải hai. Nếu các hành giả niệm Phật
từ thí dụ này để tìm hiểu, tất sẽ xóa tan niệm phân biệt, dung hòa tâm với
cảnh, thể nhập pháp môn Bất Nhị, đi ngay vào tạng tánh Phật, đại khái ý nghĩa
như thế. Thuở xưa, một hành giả khi chứng ngộ vào cảnh giới này đã có bài kệ:
Bước
đường vô vị đã cùng rồi
Thấy sóng là đâu chỉ nước thôi !
Ông Triệu siêu quần chi lắm đó
Mặt mày trông cũng thế mà thôi.
12) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Thuở xưa, một vị Tăng
tụng kinh Pháp Hoa đến câu: "Chư
pháp tùng bản lai. Thường tịch diệt tướng" (Các pháp từ xưa nay. Tự
tướng thường tịch diệt), bỗng sanh nghi không hiểu. Sau mấy năm tham thiền, ông
chợt tỏ ngộ, liền viết tiếp thêm hai câu: "Xuân đáo bách hoa khai. Hoàng oanh đề liễu thượng" (Xuân đến trăm hoa nở, Oanh vàng kêu liễu
biếc!). Câu niệm Phật đã thuần, hành giả sẽ thấy tánh chân như mầu nhiệm
lồ lộ hiện bày, không thể dùng lời nói luận bàn, dùng tâm tư nghĩ suy phân biệt
được. Cảnh trạng ấy như sắc xuân hiện nơi trăm hoa đua nở sáng tươi, như oanh
vàng kêu hót líu lo trên cành liễuu xanh biếc, chỉ dùng tâm thiên nhiên mới thể
hợp được cảnh thiên nhiên. Nếu nghĩ suy phân biệt, tức là phiền não vọng động
rồi, đâu còn chi là sáng suốt, trong đó in cảnh non nước trời mây, gương cùng
cảnh tượng dung nhập nhau không nghĩ là đây là kia, là một là khác. Người niệm
Phật khi ngộ vào tánh diệu Chân Như cũng như thế. Thời cận đại ở Trung Hoa, một
đêm Hư Vân thượng nhân đang ngồi tịnh ngoài trời dưới ánh trăng sáng, vị Thiền
sư đồng tham bước đến ướm hỏi thử:
Mắt cá vẫn nhiều, châu khó nhận
Móng mây dễ lẫn ráng tươi hồng!
Thượng nhân liền đáp:
Gương hàm muôn tượng không kim cổ
Chẳng thuộc âm dương sáng đại đồng.
Thiền sư nghe xong, gật đầu
mỉm cười rồi bỏ đi.
13) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Lập lại ý trên, hành giả
niệm Phật khi đi sâu vào tam muội, thể Thật Tướng của chân tâm lồ lộ hiện bày.
Cảnh giới này chỉ đem tâm thanh tịnh khế hợp, không thể dùng lời nói diễn tả,
dùng tâm niệm phân biệt để nghĩ ngợi phan duyên. Bởi thế nên khi Thủy Lão Hòa
Thượng đến tham khấu với ý niệm cầu hỏi về chân tâm, vừa mới cúi lạy đã bị đức
Mã Tổ đạp cho té lăn tròn. Thế mà Hòa Thượng tỏ ngộ, vỗ tay cười ha hả. Sự tỏ
ngộ ấy chỉ đương nhân tự hiểu, như người uống nước lạnh nóng riêng mình biết
lấy mà thôi. Cũng với y chỉ này, thuở xưa một vị tôn đức đem bài kệ như sau ướm
hỏi các môn nhân:
Có pháp không sau trước
Vô hình vốn lặng trang
Hay làm chủ muôn vật
Chẳng theo bốn mùa tàn.
Một đệ tử nghe xong, vội ứng tiếng thưa: "Ðó là chân tâm!" Liền bị
tôn đức rầy quở bác phá.
14) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Như trên đã nói, khi hành giả chứng Niệm Phật tam muội, căn trần dứt bặt
tự tánh Di Ðà dung thông tròn sáng khắp pháp giới. Cảnh tượng ấy lặng lẽ mà
chiếu soi, chiếu soi mà lặng lẽ, toàn thể đâu đâu cũng là chân thật. Trong chân
thể ấy, hằng sa vô biên thế giới xen giăng nhau, như vô số hạt châu nơi các mắt
lưới của trời Ðế Thích. Chân cảnh này rất đỗi sâu mầu, trong tứ pháp giới,
thuộc về Sự Sự Vô Ngại Pháp Giới, trong Thập huyền môn, thuộc về Nhân Ðà La
Võng Cảnh Giới Môn.
15) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Ðây là nói tiếp về công hạnh niệm Phật của hành giả khi chứng cùng cực chân cảnh tự tánh Di Ðà. Chân cảnh này như thể gương tròn sáng không ngằn mé, bao gồm muôn tượng sum la, gọi là Ðại Viên Cảnh Trí. Trong thể Ðại Viên ấy, "Thân" thuộc về phần Chân Như Tịch Chiếu Môn. "Ðộ" thuộc về phần Thế Giới Sanh Diệt Môn, đều hàm chứa hình bóng lẫn nhau. Sự hàm ảnh đó như mỗi hạt châu nơi mắt lưới của trời Ðế Thích, đều ngậm chứa hình bóng của vô số hạt châu khác. Cảnh hàm ảnh giữa Không với Không, Sắc cùng Sắc, Sắc và Không xen lẫn ngậm bóng nhau ấy, thật là lớp lớp tầng tầng, lấp lánh vô ngại nhiệm mầu khó bề diễn tả.
16) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Tiếp theo ý nghĩa trên, cảnh giới tuy nhiên sum la như thế, song hành giả phải một tâm lặng lẽ thể nhập vào Không Như Lai Tạng. Tâm cảnh này dứt cả muôn pháp, tuyệt cả sắc tướng, chỉ là một thể nhất chân không còn phân biệt.
17) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Khi hành giả đã thể nhập
Không Như Lai Tạng thì đạo Bồ đề tròn đủ, con đường giác ngộ đến mức cao tuyệt
rồi. Cảnh giới ấy như trạng thái của người: "Một mình nằm nghỉ trên đỉnh non cao". Khi xưa ông Khấu
Chuẩn đời nhà Tống, thuở bé theo cha lên núi Thái Sơn, đã đắc ý đọc lên bốn câu
thi cũng mường tượng như hai câu sau của bài kệ trên:
Bất dữ quần phong ngũ
Cảnh vô sơn dữ tề
Cử đầu hồng nhật cận
Hồi thủ bạch vân đề!
Tạm dịch:
Chẳng cùng muôn đảnh đồng bạn
Lại không một núi dám qua
Ngước mắt vầng hồng kề cận
Cúi đầu mây bạc thấp xa!
Nhưng đó chỉ là khẩu khí
của một vị Tể Tướng, vì trên còn có vầng hồng, còn có Thiên Tử. Chưa bằng vua
Hồng Võ đời nhà Minh lúc du ngoạn núi này, cũng tức cảnh hai câu:
Nhứt thượng, nhứt thượng, cánh nhứt thượng
Vô hạn yên vân nhãn để thâu!
Tạm dịch:
Lên cao càng lúc càng cao tít
Vô hạn trời mây dưới mắt nhìn.
Ðây mới thật là khẩu khí
của một bậc Thiên Tử, đứng trên muôn dân. Có thể mượn hai câu sau này để tạm
hình dung cảnh tượng giác ngộ tròn đầy cao tuyệt của một vị Pháp Vương đứng
trên vạn pháp.
18) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Khi đã vào thể nhiệm mầu cao tuyệt của Không Như Lai
Tạng, hành giả niệm Phật ở cảnh giới mà nhà Thiền gọi là "Chẳng cùng muôn pháp làm bạn"
(Bất dữ vạn pháp vi lữ). Cảnh
giới này như vầng trăng tròn sáng, chiếu soi muôn dặm, vắng lặng, thanh lương,
là cảnh Ðại Tịch Diệt hay Ðại Bát Niết Bàn vậy. Ðây cũng gọi là cảnh "song
vong", người chăn và trâu đều mất, phiền não cùng pháp trừ phiền não không
còn. Như lời xưa đã diễn tả:
Soi lại người, trâu dã mất tung
Dặm ngàn vắng lạnh nguyệt linh lung!
Ý hay đoan bích như ai hỏi
Cỏ biếc hoa tươi tự thắm hồng!
19) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Bát Nhã là trí huệ. “Thập hư” có nghĩa: cõi hư không ở mười phương. Một
câu Phật hiệu nếu niệm cùng cực, tất mở toang được trí huệ và bao hàm muôn pháp
ở mười phương hư không. Muốn một tiếng nuốt trọn muôn pháp cõi thập hư, bên
trong hành giả phải tiêu trừ bốn đại, năm uẩn thuộc Ngã Chấp, bên ngoài xả bỏ
sáu trần cùng thời gian, không gian thuộc Pháp Chấp. Khi chuyên giữ một câu
Phật hiệu, xả trừ quan niệm chấp thân tâm và thế giới như thế, đến lúc sức cực
công thuần, tâm của đương nhân bỗng mở rỗng rang, bao trùm muôn pháp khắp mười
phương như bọt nước hòa tan đồng sức hàm chứa cùng biển rộng. Ðó gọi là “một miếng nuốt tất cả”. Thuở xưa cư
sĩ Bàng Uẩn đến tham khấu đức Mã Tổ hỏi: "Thế
nào là ý của Tổ Sư Ðạt Ma từ Tây Phương đến?". Mã Tổ đáp: "Ðợi khi nào ông uống một hớp hết nước
sông Tây Giang, ta sẽ nói cho biết!". Cư sĩ nghe xong bỗng đại ngộ.
Hành giả niệm Phật nên theo dõi bước đại ngộ này, đừng quan thiệp vào lý giải.
20) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Hoa ốc đây chỉ cho cảnh trang nghiêm của thế giới Hoa
Tạng. Khi hành giả chứng được Niệm Phật tam muội rồi, tâm cảnh rỗng rang, lần
lần đi sâu vào biển thế giới Hoa Tạng gồm vô biên quốc độ mầu đẹp, trang
nghiêm. Tự mình giác ngộ chứng được đức trí, lại dùng vô lượng phương tiện
khuyên dẫn kẻ hữu duyên đồng bước theo vào nơi hoa ốc để thật hiện đức Bi...
Ðây là bản nguyện cao cả của người học đạo.
21) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Niệm Phật tam muội cũng gọi là Bảo Vương tam muội. Khi chứng được
tam muội này, diệt vô lượng tội chướng, tăng vô biên phước huệ, độ vô số chúng
sanh, đức hóa lan rộng khắp mọi nơi như trời che đất chở. Từ nơi Niệm Phật Bảo
Vương tam muội này, Bồ Tát rưới vô lượng mưa pháp độ khắp chúng sanh. Như trong
kinh Hoa Nghiêm, Ðức Vân Bồ Tát đã bảo Thiện Tài đồng tử:
"Thiện nam tử! Chư đại Bồ Tát có
vô biên hành môn trí huệ thanh tịnh. Ðó là: môn Trí Quang Phổ Chiếu Niệm Phật,
thường thấy các thứ cung điện nghiêm sạch nơi tất cả quốc độ của chư Phật. Môn
Linh Nhứt Thiết Chúng Sanh Niệm Phật, tùy nơi tâm ưa thích của các chúng sanh,
đều khiến cho được thấy Phật và được thanh tịnh. Môn Linh An Trụ Lực Niệm Phật
khiến cho được vào mười lực của Như Lai. Môn Linh An Trụ Pháp Niệm Phật khiến
cho thấy vô lượng chư Phật được nghe pháp mầu. Môn Chiếu Diệu Chư Phương Niệm
Phật, thấy trong tất cả thế giới, các Phật hải đều đồng nhau không sai khác.
Môn Nhập Bất Khả Kiến Xứ Niệm Phật, thấy tất cả cảnh vi tế trong các việc thần
thông tự tại của chư Phật. Môn Trụ Ư Chư Kiếp Niệm Phật, trong tất cả kiếp
thường thấy các việc làm của Như Lai không tạm mất. Môn Trụ Nhứt Thiết Thời
Niệm Phật, trong tất cả thời thường thấy Như Lai đồng ở gần bên không xa lìa.
Môn Trụ Nhứt Thiết Sát Niệm Phật, trong các quốc độ đều thấy thân Phật vượt hơn
tất cả không chi sánh bằng. Môn Trụ Nhứt Thiết Thế Niệm Phật, tùy nơi tâm mình
ưa thích, thấy khắp chư Như Lai trong ba đời. Môn Trụ Nhứt Thiết Cảnh Niệm
Phật, khắp trong tất cả cảnh giới, thấy chư Như lai lần lượt hiện thân. Môn Trụ
Tịch Diệt Niệm Phật, trong một niệm thấy chư Phật trong tất cả cõi thị hiện vào
Niết Bàn. Môn Viễn Ly Niệm Phật, trong một niệm thấy tất cả Phật từ chỗ mình ở
đi ra. Môn Trụ Quảng Ðại Niệm Phật, tâm thường quán sát mỗi mỗi thân Phật đầy
khắp tất cả các pháp giới. Môn Trụ Vi Tế Niệm Phật, khoảng một đầu lông có bất
khả thuyết Như Lai xuất hiện, đều đến tận nơi mà thừa sự. Môn Trụ Trang nghiêm
Niệm Phật, trong một niệm thấy tất cả cõi đều có chư Phật thành Ðẳng Chánh Giác
hiện sức thần biến. Môn Trụ Năng Sự Niệm Phật, thấy tất cả Phật hiện ra nơi đời
phóng ánh sáng trí huệ, chuyển bánh xe pháp. Môn Trụ Tự Tại Tâm Niệm Phật, tùy
tâm mình ưa thích, tất cả chư Phật đều biết và hiện ảnh tượng. Môn Trụ Tự
Nghiệp Niệm Phật, biết tùy theo nghiệp lành chứa nhóm của chúng sanh, hiện ra
ảnh tượng khiến cho giác ngộ. Môn Trụ Thần Biến Niệm Phật, thấy Phật ngồi trên
hoa sen tươi nở rộng lớn đầy khắp pháp giới. Môn Trụ Hư Không Niệm Phật, quán
sát Như Lai có nhiều thân như mây, trang nghiêm pháp giới và hư không
giới...".
Môn Niệm
Phật xuất sanh nhiều tam muội và lợi ích khắp chúng sanh như thế, nên gọi là
Vương tam muội, và như trời che đất chở.
22) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Ðại Tổng Trì là sự thông suốt nắm giữ tất cả pháp với tầm mức lớn lao rộng rãi. "Muốn được tất cả, phải bỏ tất cả". Ví như tấm gương sáng lớn mà đem vật gì che áng ở trước, dù là một bình hoa đẹp, tất chỗ đó mất sự chiếu soi tự tại. Chơn tâm của chúng ta là tấm gương Ðại Viên Cảnh Trí, nếu chấp giữ một pháp nào, dù đó là Phật lý cao siêu mầu nhiệm, tất cũng sẽ bị kém mất sức chiếu soi tự tại, sự thông suốt tất cả pháp. Như thế làm sao được Ðại Tổng Trì? Kinh nói: "Thấy biết mà giữ sự thấy biết là gốc vô minh. Thấy biết không giữ sự thấy biết, đó mới chính Niết bàn".
"Tri kiến lập tri, tức vô minh bản. Tri kiến vô kiến, tư tức Niết Bàn". Cho nên chuyên nhứt câu niệm Phật, xả bỏ tất cả, hành giả quyết sẽ được Ðại Tổng Trì, Ðại Tam Muội.
Kinh Lăng Nghiêm nói: "Nếu chuyển
được vật, tức đồng với Như Lai". (Nhược năng chuyển vật, tức đồng
Như Lai). Chúng sanh tâm thường hướng ngoại, không biết các pháp là huyễn, cho
nên bị cảnh lục trần xoay chuyển, như con trâu lâm cảnh xỏ giàm dắt đi, hằng chịu
sự phiền não buộc ràng không được tự tại. Nếu quán xét các pháp là huyễn, giữ một
câu Phật hiệu xoay chiếu vào trong thì tâm lần lần thanh tịnh tự tại, sẽ làm chủ
được các pháp, không còn bị các pháp sai sử làm chủ nữa. Ðó gọi là "chuyển
vật" là đồng với Như lai. Trái lại, tức là bị vật chuyển, đồng với chúng
sanh vậy.
Ấn Quang pháp sư bảo: "Một lòng
không trụ, muôn cảnh đều nhàn!" (Nhứt tâm vô trụ, vạn cảnh câu
nhàn). Khi tâm trụ nơi các pháp thì thấy thời gian có lâu mau, bị cảnh giới làm
cho loạn động, sanh niệm ưa, chán, ghét, thương, khổ, vui, cùng vô lượng phiền
não. Như trên, khi hành giả giữ câu niệm Phật thanh tịnh, không để cho vật chuyển,
thì trong mười hai thời của ngày đêm, hằng được nhàn nhã, tự tại, tùy ý sử dụng
mọi sự, việc nào đáng làm trước hoặc làm sau đều theo tuần tự, chẳng khác vị
Ðông y sĩ tùy nghi sử dụng các hộc thuốc của mình.
Tóm lại, nếu khéo biết tu hành thì cách tự tại sử dụng trong mười hai thời, sự
làm chủ xoay chuyển các pháp, cho đến chứng đắc cảnh giới Ðại Tổng Trì, then chốt
đều do ở nơi câu niệm Phật.
23) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Một tín nữ đến thuật lại với bút giả: "Có vị sư-cô bảo con bỏ hết đừng nên niệm Phật nữa, hãy để lòng yên lặng cho tâm không, cảnh không, mới mau ngộ đạo!". Bút giả nói: "Các pháp đều như huyễn, câu niệm Phật cũng như huyễn, tự thể của nó đã là không rồi, cần gì phải bỏ? Nếu muốn chứng được tâm không, cảnh không, mà còn ngại câu niệm Phật, còn bác bỏ sự tướng, thì đó chính là Thiên Không hay Ngoan Không (cái không thiên lệch, trống rỗng, cứng chắc) của ngoại đạo, chớ chẳng phải ý nghĩa Chân Không của Phật pháp. Ý nghĩa chân không chân chánh của đạo Phật ở ngay nơi tất cả cái có thuộc mọi sự tướng, mà không chấp thấy là có (Chân không bất không, diệu hữu phi hữu). Chẳng phải riêng sư cô ấy lạc lầm, trong hiện tại có rất nhiều vị tu học Phật pháp đã sa vào hầm hố đó. Thật là điều không may và đáng thương cảm!" Nay nhân tiện xin tạm mượn sự việc trên để giải thích về ý nghĩa "tự không" của câu niệm Phật.
Theo quan niệm địa dư xưa, người Trung Hoa cho rằng vùng đất của loài người ở
là một châu lớn, chỗ họ cư trú thuộc Trung Quốc. Phía Ðông của châu ấy là biển
cả, muôn dòng nước ở lục địa đều chảy ra đó. Người Việt Nam hấp thụ văn hóa
Trung Hoa, cũng đồng với quan điểm ấy. Bởi thế cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm mới có câu:
"Hồng nhật Ðông thăng tri đại
hải. Bạch vân Tây vọng thị thần châu". Và theo thiên văn học xưa,
người Trung Hoa bảo rằng các vì sao đều chầu hướng về ngôi Bắc Ðẩu. Ðể dẫn giải
cho Phật pháp, Triệt Ngộ đại sư cũng phương tiện mượn quan niệm thế gian ấy mà
làm thí dụ. Bởi tất cả pháp đều từ nơi biển Chân Không lưu xuất và đều tan về
Chân Không. Bên tông Tịnh Ðộ gọi thể Chân Không đó là Tự Tánh Di Ðà.
Bài kệ trên đại ý: Câu niệm Phật tánh vốn TỰ KHÔNG, KHI HÀNH GIẢ TỪ KHỞI ĐIỂM NÀY tu tiến chứng thể tánh ấy một cách viên mãn, sẽ thức ngộ muôn pháp từ nơi đó mà lưu xuất, lại cũng qui nhập về nơi đó. Như sao Bắc Ðẩu làm chủ muôn sao, muôn sao chầu về Bắc Ðẩu, biển Ðông dâng nước vào các sông ngòi, nước sông ngòi đều đổ về biển Ðông vậy.
24) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Phật Pháp chia thành hai hệ: Không tông và Hữu tông. Không tông đề ra thuyết Chân Như Duyên Khởi; Hữu tông đề ra thuyết A-lại-da Duyên Khởi. Dung nhập vào Trung Ðạo, tức Nhứt Chân Pháp Giới thì Không và Hữu chẳng khác, Chân Như tức A-lại-da. Ðây ý nói câu niệm Phật là huyễn hữu, cũng lại là Chân Không, duyên khởi điểm của nó từ nơi pháp giới. Vậy câu niệm phật là Pháp Giới Duyên Khởi, gồm Chân Như cùng A Lại Da duyên khởi, dung nhiếp cả Hữu lẫn Không. Bởi thế nên Niệm Phật là chánh nhân của Tịnh nghiệp. Tịnh nghiệp đây gồm bốn Tịnh Ðộ mà tiêu điểm cuối cùng là cõi Thường Tịch Quang. Và Niệm Phật cũng là hạt giống Bồ Ðề đưa đến sự Toàn Giác, gồm giác ngộ mình, giác ngộ chúng sanh, hạnh giác ngộ đầy đủ.
25) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Ðời Ðường, Hiền Thủ đại sư khi giảng kinh Hoa Nghiêm đến nghĩa "vô tận pháp giới trùng trùng đế
võng", ngài phương tiện dùng mười mặt gương tròn lớn, để tám hướng
và trên, dưới mỗi chỗ một tấm, cách nhau độ hơn trượng và đều cùng đối diện.
Chính giữa lại an bài cốt Phật, rồi thắp một ngọn đèn sáng để soi. Lúc ấy học
chúng đều thấy trong mỗi mặt gương nổi hiện lớp lớp tượng Phật và ánh sáng.
Nhân đó tất cả đều hiểu ý nghĩa: Biển quốc độ giao chiếu xen lẫn nhau lớp lớp
điệp trùng, không cùng tận, không ngằn mé. Ðây là cảnh tượng trang nghiêm của
Hoa Tạng thế giới hải. Bài kệ trên ý nói: Câu niệm Phật sẽ đưa hành giả vào
cảnh đại trang nghiêm không cùng tận đó. Cho nên niệm Phật chẳng phải là pháp
thấp kém thông thường. Ðã có bài kệ khen ngợi :
Niệm Phật vào tướng thật
Chứng biết Phật với Phật.
Cảnh vô tận trang nghiêm
Môn Ðại Ba La Mật!
26) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Ðem một ly nước đổ vào chậu nước thì nước cùng nước dung hòa nhau, không làm sao tìm thấy lằn dấu. Khi trút nước ra, khoảng hư không trong ly hợp với hư không bên ngoài, cũng tuyệt không lằn dấu. Hành giả niệm Phật, nếu trong quên thân tâm, ngoài quên cảnh giới, chẳng thấy mình là người hay niệm, Phật là vị được niệm, thì tâm rỗng rang, hồn nhiên, dung hợp với thể tánh Chân Không. Tâm cảnh ấy chẳng phải là không có chi, vì như thế là lạc vào ngoan không của ngoại đạo. Trái lại, hiện tượng Chân Không ấy sáng suốt vô tận bao hàm muôn pháp, vẫn có đầy đủ màu sắc của cỏ cây, sông, núi, trời mây, vẫn có các phương hướng, cho đến cõi Ta Bà thuộc phương Ðông, cõi Cực Lạc ở phương Tây. Ðó mới đích xác tánh không chân chánh, cũng gọi là Như Lai nhứt thật cảnh giới.
Thuở xưa có vị cư sĩ đến hỏi đạo một cao tăng ở chốn sơn lâm. Bậc thượng nhân
này không đáp, chỉ trỏ mây trên trời cùng cái bình đựng nước của mình. Tuy
nhiên tuệ căn đã sẵn, vị cư sĩ liền ngộ vào thể đạo, tức thật tánh chân không,
liền làm bài kệ, trình lên rằng:
Luyện được thân hình tợ
hạc hình
Ngàn thông tươi tốt mấy pho kinh.
Ta nay hỏi đạo không chi khác
Mây ở trời xanh, nước ở bình!
Niệm Phật
đến chỗ vô niệm, sẽ dung hợp với tánh không bao la, tìm không thấy mối mang dấu
vết, mà vẫn đầy đủ tất cả, không thêm bớt là như thế.
27) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm
bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại
thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng
cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn
ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân
tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ
hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa
chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải
chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi.
Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm
thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự
đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
28) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Câu niệm Phật đã bao hàm đầy đủ nghĩa lý của một Ðại Tạng Kinh
thì đối với một Ðại Tạng Luật nó cũng như thế. Vì luật chẳng ngoài nhiếp giữ
thân, khẩu, ý cho trong sạch. Và thân, khẩu, ý lại không ngoài tâm, nếu tâm
thanh tịnh thì ba nghiệp cũng đều trang nghiêm thanh tịnh. Luật nói: "Phật chế tất cả giới, mục đích để trị
tất cả vọng tâm. Nếu không có tất cả vọng tâm thì cần chi dùng tất cả
giới?" (Phật chế nhứt thiết giới, vi trị nhứt thiết tâm. Nhược vô nhứt
thiết tâm, hà dụng nhứt thiết giới?)
Cho nên
khi niệm Phật, thoáng chốc dứt hết vọng tưởng đi vào tịnh tâm, tức đã đầy đủ Giới
Ba La Mật rồi. Ba-la-mật là "bờ bên kia", là nơi giải thoát rốt ráo.
Niệm Phật thanh tịnh, tức đã đầy đủ sự giữ giới đến bờ cứu cánh giải thoát vậy.
29) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Như trên, câu niệm Phật đã bao hàm Kinh, Luật, tất nhiên đối với Luận cũng như thế. Kinh Viên Giác nói: "Trí tuệ sáng sạch vô ngại đều từ nơi Thiền Ðịnh mà sanh". Niệm Phật thanh tịnh chính là thiền định, từ Ðịnh phát sanh trí huệ. Ðã có trí huệ thì nguồn biện luận sẽ vô cùng. Tứ vô ngại biện cũng từ nơi niệm Phật thanh tịnh tâm cảnh mở sáng mà tuôn trào như suối chảy.
30) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Câu niệm Phật đã gồm ba tạng của Hiển giáo lại cũng đủ thần thông uy lực của bí tạng Mật giáo. "Bản thần thông" là thần thông sẵn có, phát sanh từ nguồn gốc chân tâm, không phải do tập luyện mà được. Niệm Phật công thuần đến mức thanh tịnh, cũng như người có sẵn tiền muốn mua món gì cũng được. Dùng công đức niệm Phật để cầu an, cầu siêu, trừ tai nạn, trị đau bịnh, hàng tà ma, sám tội chướng, cầu phước huệ duyên lành, nguyện sanh lên cung trời hoặc về cõi Phật, cho đến cầu Ðại Niết Bàn cũng đều thành tựu. Tất cả uy lực thần thông cũng từ câu niệm Phật mà phát sanh. Như thuở xưa, Thiện Ðạo đại sư khi niệm Phật, mỗi câu đều có một luồng ánh sáng phóng ra. Một Ðại sư về Tịnh tông bên Nhật Bản, mỗi câu niệm hồng danh, trong miệng bay ra một vị Phật. Liên Trì đại sư lúc dân chúng nhờ đảo võ, ngài chỉ ra ngoài đồng gõ mõ niệm Phật, đi tới đâu mưa rơi đến đó. Niệm Phật tùy ý phát ra thần thông uy lực là như thế.
31) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Bài kệ trên nói tổng quát về sự bao hàm các Ðại Tạng của câu niệm
Phật. Các Ðại Tạng đây, gồm Kinh tạng, Luật tạng, Luận tạng, Tạp tập tạng và Bí
Mật tạng. Tạp Tập tạng nói về các pháp Ðại Thừa cũng gọi Bồ Tát tạng. Bí Mật
Tạng gồm các phương thức đàn, ấn, chú, mở một lối tu đặc biệt, gọi là Kim Cang
Thừa.
Ðường lối chứng lên thánh đạo không ngoài căn bản Giới, Ðịnh, Huệ, nhưng chỉ một
câu niệm Phật đã gồm đủ. Niệm Phật nhiếp thân, khẩu, ý trong sạch là Giới. Niệm
Phật thanh tịnh lòng không loạn động là Ðịnh. Niệm Phật sáng suốt dứt hết vọng
tưởng điên đảo là Huệ. Hành trì như thế, công càng dày, niệm càng sâu thì ánh
nhiệm mầu của giới, định, huệ, càng sáng tỏ và chiếu xa đến nơi vô cùng tận!
32) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Duy Thức Luận có đoạn thí dụ: Người nọ đi trong cảnh trời nhá nhem tối, chợt thấy một sợi dây to nằm uốn lượn, tưởng là con rắn, vội nhảy tránh la hoảng lên. Ðến chừng nhìn kỹ lại mới biết mình lầm, vì đó chỉ là đoạn dây. Nếu người ấy thể nhận sâu thêm, sẽ thấy dây kia cũng không thật, vì do những tơ gai nhỏ kết hợp thành.
Lầm dây là rắn, Duy Thức Học thí dụ cho tánh Biến Kế Sở Chấp thuộc Phi Lượng, tức
chấp trước mọi sự và lượng định một cách sai lạc. Nhận ra là dây, thí dụ cho
tánh Y Tha Khởi thuộc về Tỷ Lượng. Y Tha Khởi là tánh chất nương nơi cái khác
khởi hiện, như sợi dây nương nơi cái khác khởi hiện, như sợi dây nương nơi tơ
gai mà có. Tỷ Lượng là sự lượng định tương tợ của ý thức so sánh, như thấy dây
tương tợ như rắn. Thể nhận sâu thêm, thấy dây cũng giả, chỉ do tơ gai kết hợp
thành, thí cụ cho tánh Viên Thành Thật thuộc Hiện Lượng. Viên Thành Thật là tánh
bao la sáng suốt tròn đầy xác thật. Hiện Lượng là tâm lượng của trực giác không
phân biệt. Ðây mới là tánh lượng xác thật rốt ráo của chân tâm.
Sự ứng dụng về niệm Phật cũng thế. Nếu cho câu hồng danh là một pháp lành, dùng
nó để tu cầu phước báu hư huyễn của cõi Nhơn Thiên, đó thuộc về tánh Biến Kế Sở
Chấp và Phi Lượng. Có người dùng câu niệm Phật như một thoại đầu hay phương tiện
để dứt trừ vọng tưởng trở lại chân tâm, cũng còn thuộc về tánh Y Tha Khởi là Tỷ
Lượng. Như thể nhận niệm Phật tức là Phật, ngay câu hồng danh là phước, là huệ,
là Thật Tướng, là Chân Tâm và Bồ Ðề Niết bàn, đó mới là tánh Viên Thành Thật
thuộc Hiện Lượng. Ứng dụng niệm Phật như thế mới đúng mức. Dùng với hai cách
trước còn là khuyết điểm sai lầm. Bài kệ trên, Triệt Ngộ thiền sư muốn nêu cao
sự diệu dụng về niệm Phật, để phá lối nhận thức sai lạc của một số người đối với
pháp môn này.
33) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Nơi cõi trời Ðao Lợi có chiếc thiên cổ do Bồ Tát hóa hiện. Khi chư Thiên mê say theo ngũ dục, trống ấy nổi lên tiếng ầm ầm để cảnh giác và nói ra các pháp: Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã. Thiên chúng nghe xong như chợt tỉnh, liền bỏ các thú vui, cùng nhau tụ họp lại Thiện Pháp Ðường để giảng luận về đạo đức. Niệm Phật cũng có tác dụng giống như thế. Bởi công đức câu hồng danh, do sự nhiếp tâm xưng niệm, hành giả sẽ được tiêu trừ nghiệp chướng, lần lần đi đến chỗ giác ngộ.
Lại như tấm gương tròn sáng vẫn lặng lẽ không phân biệt, mà hiện rõ bóng hoa
cỏ, rừng cây với đầy đủ chi tiết. Hành giả niệm Phật đến mức tịch tĩnh vô phân
biệt thì tấm gương lòng tức Ðại Viên Cảnh Trí sẽ lần lần hiện ra sáng suốt lan
rộng. Trong ấy cảnh y báo và chánh báo của mười phương đều ảnh hiện, đương nhơn
có thể nhận biết rõ từng số điểm hạt mưa trong tam thiên thế giới. Như Di Lặc
Bồ Tát đã khai thị cho Hư Vân thiền sư:
"Gương đại trí trang nghiêm. Hiện cảnh giới sum la. Trời người và phàm thánh. Thiện ác đều an lạc".
Công đức câu hồng danh rất ít nghe, ít thấy như thế, song tiếc thay cũng rất ít người am hiểu suốt thông!
34) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Công năng niệm Phật rất mầu nhiệm, không thể nào dùng thí dụ mà nói ra cho hết được! Về thể, thì Niệm Phật sẽ phát hiện Ðại Viên Cảnh Trí, ảnh hiện mọi cảnh giới: như tấm gương xưa để nơi đài cao chiếu rõ và in bóng cảnh vật một cách không phân biệt. Ðã vô phân biệt thì làm sao dùng lời nói mà diễn tả thí dụ? Về dụng, câu niệm Phật viên dung không ngại như hạt thủy ngân rơi xuống mặt đất liền lăn tròn. Sự trì niệm hồng danh có đủ Thiền, Giáo, Luật, Mật, một ngàn bảy trăm công án, tám muôn tư pháp tạng. Nói rộng ra, lục độ vạn hạnh, tất cả hành môn đều dung thông hàm chứa trong câu niệm Phật.
35) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Vì lòng đại từ đại bi, đức Thích Tôn cùng hằng hà sa số chư Phật ở sáu phương, đều hiện tướng lưỡi rộng dài, khen nói công đức không thể nghĩ bàn của môn Niệm Phật, khuyên chúng sanh nên phát nguyện cầu sanh về Cực Lạc. Từ xưa đến nay, chư Tổ cũng đã dẫn kinh viết luận rất nhiều, để tán dương môn Tịnh Ðộ. Tâm xót thương sâu rộng, lời khổ thiết khuyên răn của chư Phật, Bồ Tát, Tổ Sư như thế, thật đã hết lòng hết sức. Ví như người đẩy thuyền chở nặng muôn hộc, giương cung cứng mạnh ngàn cân, sự dụng tâm vận lực đã đến mức điểm cuối cùng vậy.
36) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Trong cảnh giới Nhứt Chân, chẳng phải rỗng không, cũng chẳng phải thật có các pháp. Cho nên Tâm Kinh nói: "Này Xá Lợi Tử! Huyễn sắc chẳng khác chân không, chân không chẳng khác huyễn sắc. Huyễn sắc chính là chân không, chân không chính là huyễn sắc". Tóm lại, Chân Không chẳng phải cái không trống rỗng, mà chính nó ở ngay nơi hiện tượng huyễn hữu. Có một số người tu về Không môn, như Thiền tông chẳng hạn, chưa hiểu chân lý này, lầm nhận chân tâm là một tự thể sáng suốt rỗng không. Chư cao đức bên Tông môn cũng bác lối tu theo nhận thức sai lạc ấy, cho đó là Hư Ðầu Thiền. Bởi hiểu biết sai lạc như thế, nên họ rất ngại niệm Phật, cho tu Tịnh Ðộ còn có cái chướng của tướng có, như cát lẫn vào cơm. Hoặc họ cũng nhận niệm Phật là có công đức, nhưng còn thuộc về pháp hữu vi. Vì vậy, trong số các vị ấy có người đã mượn câu nói của cổ đức để thí dụ: "Mạt vàng tuy là quí, nhưng rơi vào mắt thì xốn xang thành bịnh!". Kỳ thật cổ nhơn cũng có lời ấy, song nói với một ý khác về bên Thiền khi hành giả hỏi, chớ không phải thuộc bên Tịnh. Các vị ấy cũng không hiểu: Pháp vô vi dung thông bao quát, đâu riêng có ngoài pháp hữu vi?
Thuở xưa ni cô Ðạo Càn đến chùa Quốc Thanh ở non Thiên Thai để phỏng đạo, có hỏi
Bảo Lâm Trân thiền sư: "Bạch tôn đức! Thế nào là tướng đại nhơn?".
Trân công đáp: "Ðợi khi nào ngươi trừ hết ngũ chướng, đến đây ta sẽ nói
cho!" Ni cô thưa: "Thế thì Hòa thượng đã bị che lầm rồi đấy!"
Ngũ chướng là thân tướng người nữ. Ý Ðạo Càn muốn nói Chân Tánh không có tướng
nam nữ, nếu y cứ nơi hình tướng để tìm chân tánh là sai lầm. Ngài Bảo Lâm Trâm
nghe nói biết chỗ tu của Ni cô còn lạc vào lối chấp Thiên Không, nên quát bảo:
"Ngươi học ở đâu được cái Hư Ðầu Thiền như thế?". Ðạo Càn bị quở, bất
giác xuất hạn dầm mình, chợt tỏ ngộ, liền cúi xuống đảnh lễ. Trân công gạn hỏi
lại: "Thế nào là tướng đại nhơn?". Ni cô liền đứng chẩm hẩm, giang
đôi chân, giăng hai tay ra. Ðây là hành động biểu thị tướng đại trượng phu,
cũng ngầm nêu rõ tánh Chân Không ở ngay trong tướng có. Ngài Bảo Lâm Trân thấy
thế biết cô đã lãnh ngộ, liền gật đầu ấn khả.
Bài kệ trên của tổ Triệt Ngộ, nhấn rõ lý Chân Không ở ngay nơi hình thức Diệu Hữu
của một câu A Di Ðà, nên mới nói: "Rõ ràng chính là có". Tứ biện tài
như tập trước đã dẫn giải. Còn “bát âm” là tám giọng nói của Phật, gồm có: 1.
Âm thanh rất trong tốt. 2. Âm thanh cực dịu dàng. 3. Âm thanh hòa nhã thích ý.
4. Âm thanh tôn trọng sáng suốt. 5. Âm thanh không pha lẫn giọng nữ. 6. Âm
thanh giác ngộ không mê lầm. 7. Âm thanh rất sâu xa. 8. Âm thanh sang sảng tuôn
trào bất tận. Vì thương xót muốn cho chúng sanh giác ngộ, chư Phật đã dùng bốn
thứ vô ngại biện tài, tám điệu âm thanh, khổ thiết tỏ bày dẫn đủ phương tiện chỉ
rõ lý Chân Không ở ngay trong Diệu Hữu. Và chư tổ sư trước nay cũng đã thương
xót nói đến đắng miệng cạn lời để giải thích lý này.
37) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Như trên đã nói sáu chữ hồng danh nguyên là Diệu Hữu, bài kệ này khai thị một câu A Di Ðà chính thật Chân Không. Với mục đích nêu rõ ý này, xin tạm mượn một việc đã qua để giải thích:
Nhớ lại độ nọ, có vị sư cô tu Thiền đến nói với bút giả: "Gần đây một cư
sĩ niệm Phật hơn ba mươi năm, sau khi nghe lý Thiền, muốn thể nhập vào cảnh
Chân Không, cảm thấy mình bị trói buộc chướng ngại. Sở dĩ như thế, do vì niệm
Phật đã lâu năm, dù muốn xả bỏ tất cả, câu niệm Phật trong tàng thức vẫn cứ hiện
ra tiếp tục mãi, không làm sao dứt thoát được!". Biết cô muốn bác rằng: Niệm
Phật còn sự chướng ngại về sắc tướng, bút giả đáp:
- Lý tánh chân không vẫn ở ngay nơi các pháp có, nên Bát Nhã Tâm Kinh đã nói: "Thị chư pháp không tướng".
Nếu vị cư sĩ ấy muốn thể nhập vào Chân Không thì cái không đó là Ngoan Không của
ngoại đạo, chớ chẳng phải Chân Không. Tôi xin dẫn ra đây một ít bằng chứng:
1. Thuở xưa, đức Thế Tôn chỉ dạy nhiều vị Sa Môn thật hành môn Bất Tịnh Quán để
dứt trừ nhiễm dục. Và đã có vô số chư tỳ kheo tu theo pháp này nên được chứng
quả A La Hán. Bất tịnh vốn tướng nhơ ác mà Phật còn bảo quán tưởng, huống chi
câu hồng danh là tướng của công đức lành? Lại nếu như sắc tướng gây chướng ngại
cho việc chứng lý Chân Không thì làm sao các vị sa môn kia đắc quả A La Hán?
2. Từ trước đến nay, năm chi phái về Thiền tông như Lâm Tế, Quy Ngưỡng, Tào Ðộng,
Vân Môn, Pháp Nhãn đều dùng câu thoại đầu làm công phu hạ thủ. Chẳng hạn như
các thiền giả tham cứu câu: "Muôn
pháp về một, một về chỗ nào?" (Vạn pháp qui nhứt, nhứt qui hà xứ?)
Hoặc có vị chỉ tham đơn độc một chữ Vô hay tham tưởng chữ A theo Phạn ngữ. Sự
tham cứu như thế đều nương nơi tướng có, nào khác chi hành trì câu niệm Phật? Nếu
tham thoại đầu chẳng thể nhập được vào Chân Không thì làm sao các thiền sư xưa
nay đắc ngộ cho đến chứng quả? Và nếu niệm Phật chẳng có công hiệu tương tợ thì
tại sao nhiều bậc tôn đức như Nhứt Nguyên thiền sư, Minh Bản đại sư chỉ trì niệm
một câu hồng danh mà được đại ngộ, đi sâu vào tam muội?
3. Nếu cho rằng hình tướng của văn tự, ngôn âm gây chướng ngại đến lý tánh Chân
Không thì tại sao các bậc tôn đức khi xưa sau khi đại ngộ rồi, trở lại niệm Phật,
trì chú, tụng kinh, cho đến phiên duyệt tam tạng kinh điển? Trong số ấy, chẳng
hạn như ngài Vĩnh Minh và Thủ Sơn Niệm thiền sư trọn đời trì tụng kinh Pháp
Hoa, Phổ Am tổ sư trì tụng kinh Hoa Nghiêm, Khuê Phong Ðịnh Huệ thiền sư trì tụng
kinh Viên Giác, Kim Hoa Câu Chi thiền sư trì tụng chú Chuẩn Ðề, Minh Giáo Tung
thiền sư chuyên niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm. Cho đến như Phần Châu Vô Nghiệp
thiền sư sau khi đại ngộ, ba lần duyệt xem qua Ðại Tạng kinh điển?
Cho nên vị cư sĩ đó nếu muốn thể nhập vào Chân Không, hãy bỏ sự nhận thức sai lầm
ấy đi, đừng nghĩ rằngNiệm Phật là chướng ngại mà tự thành chướng ngại. Vị đó cần
chuyên nhứt niệm Phật hơn nữa, lâu ngày sẽ thấy tự thể câu hồng danh chính là
Chân Không. Niệm như thế, chẳng những câu hồng danh là không, mà cho đến muôn vật
tượng ở thế gian cũng do nhờ niệm Phật, được tan biến dung hòa vào lò Chân
Không to rộng bao la khắp mười phương nữa!
38) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Bài kệ trên
nêu rõ ý: Câu niệm Phật nói không cũng được, nói có cũng được. Ví như bóng cành
hoa, cội liễu lộ trong gương sáng, cảnh non cao, sông rộng hiện giữa giấc mơ.
Trường hợp ấy, nói không cũng được vì đó chỉ là hình bóng, là cảnh mơ; nói có
cũng được, bởi nó vẫn có ảnh tượng của cảnh vật vậy.
39) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Trong bốn bài kệ liên tiếp, bài đầu nói về lý Có, bài thứ hai nói lý Không, bài thứ ba nói lý CŨNG CÓ CŨNG KHÔNG, và bài thứ sau sau này nói lý CHẲNG PHẢI CÓ CHẲNG PHẢI KHÔNG của câu niệm Phật. Thật ra câu hồng danh tuy không rời bốn lý trên, nhưng cũng chẳng thuộc riêng vào một thứ nào trong bốn lý ấy. Ý nghĩa đích thật của câu niệm Phật là "Viên dung tự tại chẳng thể nghĩ bàn!". Nếu hiểu ý này, hành giả có thể tùy duyên ứng phó với mọi hoàn cảnh trong mọi trường hợp: hoặc có, hoặc không, cũng có cũng không, cho đến chẳng phải có chẳng phải không, một cách dung thông tự tại, không bị nó làm dính mắc chướng ngại. Ví như chiếc hồ lô thả nổi trên mặt nước, chạm đến liền tùy tiện lăn chuyển, không nằm hẳn một về nào. Bài kệ tiếp sau đây, sẽ nói rõ thêm về thật nghĩa của câu niệm Phật.
40) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Trước tiên xin giải qua về Tứ Cú, Bách Phi. Tứ Cú là bốn câu gồm: Có, không, cũng có cũng không, và chẳng phải có chẳng phải không. Bách Phi: Bách là ước số lấy một trăm làm giới hạn. Phi là chẳng phải, tiêu biểu cho nghĩa bác phá. Ðây nói chân lý vốn phi hữu, phi vô, phi thường, phi đoạn, phi sanh, phi diệt, phi nhứt, phi dị, phi lai, phi khứ, phi hữu biên, phi vô biên v.v... cho đến cả một trăm thứ phi. Tại sao thế? Bởi lý tánh ấy tuyệt ngôn luận, dứt tâm tư, chẳng thể dùng lời nói và sự suy nghĩ mà viện đến và diễn tả được.
Còn Ðệ Nhứt Nghĩa Ðế là thế nào? Ðây là nghĩa chân thật bậc nhứt, bên Tông mệnh
danh là: Một bước trên đầu sào trăm
trượng, bên Giáo gọi là: Bất Nhị pháp môn hay Thánh Ðế. Xin mượn lời vấn
đáp của vua Lương Võ hỏi tổ Ðạt Ma để tạm giải thích: Hỏi: "Bạch ngài! Sao
gọi là Ðệ Nhứt Nghĩa Ðế hay Thánh Ðế?". Ðáp: "Rỗng rang không
tánh!".
Quy kết lại, ý bài kệ trên nói: Một câu A Di Ðà, nếu vận dụng đến mức cùng tột,
hành giả sẽ lìa tứ cú, vượt khỏi bách phi, đi ngay vào Ðệ Nhứt Nghĩa Môn, tức
thể nhập chân tâm vậy.
Qua năm bài kệ liên quan nhau nói trên, từ diễn dịch cho đến quy nạp, ở điểm
nào câu niệm Phật cũng dung thông không ngại. Nhưng luận về phần căn bản, các lối
chấp của nhà tu học Phật pháp xưa nay chẳng ngoài hai điểm: Có và Không. Bước đầu
tiên vào đạo, và cũng thuộc phần đa số, người tu Phật thường hay chấp Có. Khi
làm các công đức lành, họ sanh niệm trước tướng, đôi khi dẫn đến sự tự mãn khoe
khoang. Lối chấp này gây trở ngại cho bước ngộ đạo, tiến trình đến cảnh giới giải
thoát.
Sau khi đi sâu thêm vào biển Phật pháp, xem đến kinh Kim Cang, Pháp Bảo Ðàn, hoặc
nghiên cứu về thiên lý cao siêu, hầu hết lại rơi vào lối chấp Không. Do đó, có
nhiều kẻ đã không xem trọng điểm ăn chay, giữ giới, bác bỏ sự niệm Phật tụng
kinh cùng các việc làm lành, cho là thấp kém trước tướng, chẳng hợp với trình độ
cao siêu của lý Không. Họ đâu hiểu lý Không của Ðại thừa là làm tất cả công đức
hữu vi mà không chấp thấy có tướng làm. Chẳng hạn như kinh Kim Cang bảo Bồ Tát
bố thí chẳng nên trụ tuớng, là không chấp thấy mình là người thí cho, đây là vật
trao giúp, kia là kẻ được ân huệ nhận lãnh. Bố thí như thế công đức mới vô hạn
lượng, rộng lớn như hư không. Trong ấy cũng nói về tụng kinh này sẽ được công đức
như thế nào? Vậy thì kinh Kim Cang, một áo điển diễn đạt về lý Không của Ðại Thừa
đâu từng bác bỏ việc tụng kinh, bố thí?
Trong hai lối chấp trên, chấp Có hãy còn gốc luân hồi, song chấp với những việc
lành, cũng sẽ được phước báu cõi Nhơn Thiên. Ðến như chấp Không, bác phá tất cả
sự tướng thì quả thật là tai hại. Kinh Phật gọi đó là tội phá chánh kiến, bởi
vì bài bác nhân quả. Nó gây sự lầm lạc cho mình và người hủy hoại Phật pháp,
khiến cho đương nhơn dễ sa vào địa ngục! Ðây là hiện tượng mà các bậc thiện tri
thức gọi là nhức đầu đau tim (thống tâm tật thủ) vì nó gây tổn thương rất nhiều
cho Phật giáo. Chấp Không như thế lại dễ khiến cho loài Không Ma dựa vào tác hại,
làm hành giả đảo điên. Bút giả đã gặp một Thượng Tọa thuật lại câu chuyện như
sau:
Theo ý tôi, vị Thượng Tọa ấy nói, việc tham thiền chỉ thích hợp riêng cho một số
ít người bậc thượng căn. Thời nay, phần đông hàng tăng, tục khi tu, nên lấy niệm
Phật làm phần chánh, tụng kinh hoặc trì chú làm phụ. Bởi tham thiền mà chưa thể
thường nhiếp tâm vào định, hoặc hiểu sai lầm rồi trụ tâm nơi cái ngoan không ám
muội, tất sẽ bị loài không ma dựa vào. Chính tôi đã mục kích vài ba người trong
trường hợp này. Ðộ nọ, có một sư cô đến gặp tôi đảnh lễ, trình thưa rằng:
"Huynh đệ con hơn mười người, trước kia đã thọ giáo với một vị tự xưng là
Khán Không thiền sư. Vị này bảo phải gạt hết tướng có, trụ tâm vào nơi không.
Huynh đệ con thật hành theo một thời gian, về sau tất cả đều bị loài ma ám nhập,
nói việc vị lai quá khứ, luận thuyết toàn là lý Không. Riêng phần con, nó đã dựa
vào hơn mười năm. Hiện thời khi gặp tượng hay kinh Phật, nó giục bảo phải đập
phá xé bỏ. Gặp hàng Tăng Ni, lại giục bảo phải chửi mắng, nói những lời thô tục.
Con tự kềm hãm chống trả lại, tìm nhiều bậc Pháp sư cầu cứu, song họ đều nói
con ma này uy lực cao không thể trục xuất ra được. Nay con đến đây đảnh lễ cầu
xin thầy có phương pháp chi giải thoát dùm con!". Tôi nghe nói, bảo sư cô ấy
tạm nằm nơi ghế dựa, rồi ngồi phía sau để tay kiết ấn nơi đảnh mà trì chú Chuẩn
Ðề. Tụng một lát, cô ấy chuyển lời nói con ma năn nỉ xin tha, vì nó ra ngoài bơ
bơ không nơi nương tựa. Tôi không chấp thuận, tiếp tục trì chú mãi. Ban sơ, sư
cô nghiêng trở, dằn vật mình, kế tiếp lần lần thở gấp gần như đứt hơi. Tôi thấy
thế liền dừng lại, vì biết nếu cứ trì tụng tiếp, nó có thể liều chết giết người
bịnh trước, phó mặc cho sự thể ra sao thì ra. Ðã có vài vị pháp sư bị cảnh ma
giết người bịnh trong trường hợp này.
Tối hôm ấy, tôi trì chú, cầu nguyện xin chư thần giúp đỡ. Hơn một giờ đêm,
trong giấc mơ tôi thấy có hai vị Kim Cang sứ giả. Một vị thân màu đen như sắt,
khôi giáp toàn trắng; vị kia thân trắng như bạc, khôi giáp toàn đen. Trước
tiên, Thiết sứ giả lấy ra một binh khí lạ dường như xa luân múa lên. Giây phút,
từ binh khí ấy phát tiếng kêu vo vo, phóng ánh sáng lạ mắt. Kế tiếp vị Ngân sứ
giả đưa tay ra ngăn lại bảo: "Hãy từ từ xem nó có chịu cải hối hay không
đã!". Tới đây, cảnh tượng đều ẩn mất. Thức tỉnh, tôi ngẫm nghĩ biết chư vị
mách bảo: Nên khuyến hóa hơn là dùng uy lực gây oan trái. Sáng ra tôi thuyết
giáo chỉ rõ lối chấp sai lầm không lợi ích cho con ma nghe, nó xin sẽ chuyển hướng
tu theo chánh pháp. Riêng phần sư cô nọ, tôi bảo vì loài ma đã dựa vào quá lâu,
nên thể phách của nó có phần dính liền với thể xác. Nếu vội trục xuất, e cho
thân của người bịnh sẽ bị tổn. Tôi truyền ấn và chú Chuẩn Ðề, bảo cô nên hằng
ngày trì tụng. Với uy lực của chú, ma sẽ từ từ xuất ra. Sư cô ấy vâng lời.
Nói xong vị Thượng Tọa kết luận: Sự nhận thức cùng tu tập sai lầm, gây nên tổn
hại và cứu gỡ khó khăn là như thế.
41) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Tam Ðế là ba lý chắc
thật: Không, Giả, Trung. Không Ðế hiển công dụng phá tình chấp. Giả Ðế hiển
công dụng lập các pháp. Trung Ðế hiển công năng dứt đối đãi. Trung Quán Luận có
bài kệ:
Các pháp nhân duyên sanh
Ta nói tức là Không.
Cũng gọi là Giả Danh.
Cũng là nghĩa Trung Ðạo.
Các pháp
vì hư huyễn chẳng có thật thể, nên gọi là Không. Vì sanh diệt vô thường nên gọi
là Giả. Vì tự tướng lồ lộ hiện bày, chẳng thể nói riêng là Không, là Giả, dứt
ngôn thuyết tâm tư, nên gọi là Trung. Kinh Pháp Hoa nói: "Các pháp từ xưa
nay. Tự tướng hằng tịch diệt" chính là nghĩa này. Trong ba đế, Không bao
hàm cả Giả, Trung. Giả và Trung cũng đều lại như thế, nên gọi là “mầu tròn”,
cũng gọi là Tam Ðế Tương Tức.
Dùng trí tuệ quán chiếu, các pháp đã như thế, thì câu hồng danh cũng đủ lý Tam
Ðế nhiệm mầu tròn thông như vậy. Hiểu được lý này, tất có thể ứng dụng hạnh Niệm
Phật siêu vào cảnh giới đại tịch diệt, như đống lửa lớn cháy hừng đốt tiêu tất
cả rác rến, trần cấu, như ao to mát mẻ dứt trừ tất cả hơi nóng của não phiền.
Hành giả sẽ lần lần chứng vào chân cảnh Tịnh Bảo Nguyệt Quang Minh tam muội vậy.
42) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Với câu niệm Phật, nếu hành giả ngộ suốt lý Tam Ðế như trên, sẽ vượt thánh siêu phàm chứng vào chân tâm tuyệt đối. Cảnh trí này không còn giới hạn giữa tự cùng tha, nhơn với pháp, chúng sanh và Phật, nên gọi là Ðại Tự Tại tam muội. Ánh sáng chân tâm sẽ từ đó lan rộng ra, chiếu suốt vô biên thế giới ở mười phương. Trong ánh đại quang minh, biển thế giới mười phương đều lung linh như huyễn, tròn trặn nhiệm mầu, dung thông vào một chân cảnh.
43) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Trong kinh Pháp Hoa, đức Phật có thí dụ đại khái: "Như vua Chuyển Luân đem quân dẹp giặc, thấy những binh tướng có công, đều tùy phần mà thưởng, hoặc cho y phục, châu báu, chí đến thành ấp tụ lạc. Duy hạt minh châu nơi mái tóc chẳng đem cho, vì riêng trên đảnh vua chỉ có một viên bảo châu ấy thôi. Nếu vua thấy vị nào có công lớn, mới đem hạt ma ni vô giá để từ lâu nơi mái tóc ra cho. Ðức Như Lai cũng như thế, nếu thấy hàng đệ tử y theo các kinh khác dứt trừ ba độc năm ấm, liền ban cho các pháp thiền định, giải thoát, chí đến thành Niết Bàn, bảo rằng đã diệt độ. Nhưng riêng kinh Pháp Hoa lại không nói ra, vì kinh này rất sâu khó tin, quí báu bậc nhứt. Nếu hàng đệ tử nào có công lớn phá các vô minh phiền não, vượt ra ba cõi, phát tâm Ðại Thừa, mới đem kinh Pháp Hoa là tạng bí mật, từ lâu hằng nghiêm cẩn giữ gìn, ngày nay tuyên thuyết".
Môn Niệm Phật cũng như thế, là Bí Mật Tạng chỉ thưởng riêng cho những kẻ có
công tin nhận diệu pháp thành Phật này. Tin tưởng và thật hành theo môn Niệm Phật
tức như người đã có trước mặt yến tiệc đầy đủ sơn hào hải vị của vua ban, đã cầm
vào tay viên minh châu nơi mái tóc của Chuyển Luân vương vậy.
44) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Thuở thầy Mạnh Tử còn bé, nhà ở xóm có hàng thịt. Khi ông cùng lũ trẻ nô đùa, thường họp nhau nắn đất thành hình súc vật, rồi bày ra trò giết heo dê. Bà mẹ thấy thế, e con mình về sau thành kẻ đồ tể, liền dời nhà đi nơi khác. Chỗ ở kế lại không may gặp nhằm xóm có một nhóm người chuyên nghề ma chay chôn cất. Hằng ngày Mạnh Tử lại cùng đám trẻ bắt chước đào huyệt, nắn đất thành hòm, giả trang sức đồ tang, bày trò chơi khóc than, tẫn táng. Thấy vậy bà mẹ không ưng, tìm chỗ tản cư. Lần sau này, nhà ở gần trường học. Mạnh Tử lại cùng lũ trẻ bắt chước lời nói khiêm nhường lễ nghĩa, học dáng điệu cung kính chào thưa, cùng ê a đọc sách. Bà mẹ trông thấy mừng thầm, yên lòng không dời đi đâu nữa. Cũng như thế, người gặp pháp giải thoát của môn Niệm Phật, có khác nào kẻ tìm chỗ ở, được may mắn gặp nhằm xóm nhân đức hiền lương. Gia đình kẻ ấy sẽ lần lần tập nhiễm hạnh lành tánh tốt vậy.
Một người đi đem bất ngờ gặp trụ cây khô, lầm tưởng là quỉ nên thảng thốt, kinh
hoảng. Nhưng quan sát kỹ, đó chỉ là cây khô không làm sao có tác dụng của ma
quỉ được, nên lại yên tâm ngẫm nghĩ buồn cười cho mình. "Trụ cây khô"
còn tiêu biểu cho pháp chân như bất biến. Cổ đức có câu:
"Cây khô xơ xác tựa rừng đông.
Mấy độ xuân sang chẳng đổi lòng!"
(Tồi tàn khô mộc ỷ hàn lâm.
Kỷ độ phòng xuân bất biến tâm)
Pháp Niệm Phật là viên ngọc ma ni, là con thuyền giải
thoát, mà kẻ không biết giá trị xem thường như đất sạn, khác nào anh chàng thảng
thốt kia nhìn cây khô, tưởng là ma quỉ đâu!
45) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Môn Niệm Phật quả dễ thật hành, câu hồng danh niệm ra không phải khó. Tuy nhiên, niệm với tâm tín nguyện chắc thật, niệm với hạnh bền bỉ lâu dài, niệm với ý dứt tuyệt trần duyên, lại là điều không phải dễ. Với ba điều kiện vừa kể trên, trong muôn ngàn người khó tìm được một. Cho nên cũng đừng vội xem thường hạnh Niệm Phật. Muốn được dự vào chín phẩm sen ở cõi Tây phương, người tu tịnh nghiệp phải đem hết năng lực của thân và tâm, chẳng nài khổ nhọc thật hành suốt một đời, mới mong đạt được kết quả.
46) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Trong kinh có đoạn thí dụ về điểm cố chấp của kẻ khờ dại: Hai người nọ vào rừng róc lột vỏ gai để lấy tơ dệt vải bố. Trên lối về với đôi gánh vỏ gai oằn oại nơi vai, cả hai gặp một đống tơ gai của ai bỏ sót trên đường. Một người mừng rỡ bảo: "Chúng ta đem vỏ gai về, chẳng qua để đập rồi ngâm lấy tơ. Nay đã có sẵn, tơ gai ở đây, nên bỏ thứ vỏ nặng nề này, lấy tơ đem về!". Nói xong liền thật hành theo ý định. Kẻ kia chấp mê rằng mình đã ra công gánh vỏ gai trải qua một quãng đường rồi, nên không chịu bỏ. Ði thêm đoạn nữa, cả hai bỗng gặp mấy xấp vải bố của một chiếc xe tải làm rơi rớt ngổn ngang. Người gánh tơ lại mừng nói: "Vỏ gai hay tơ gai dù đem về cũng chỉ dùng để dệt vải bố. Nay đã có thứ này ở đây, chúng ta phải bỏ hết cái cũ mà chọn lấy vải là quí hơn!". Nói đoạn vội bỏ tơ gai, chất vải bố đầy gánh. Kẻ kia cũng chấp rằng mình gánh vỏ gai quá xa, nên không chịu bỏ. Ði thêm một đoạn đường, cả hai dừng lại ngồi nghỉ, chợt thấy một hốc dưới gốc cây khô nằm la liệt mấy hũ vàng, có lẽ của ai đã chôn giấu từ lâu. Người gánh vải quá mừng, vội vất lại thứ cũ, chọn lấy hai hũ vàng đem về, vì vải không làm sao bằng vàng được. Còn kẻ si mê kia vẫn cố chấp mình đã ra công quá nhọc, thà chịu gánh vỏ gai chớ không lấy vàng.
Môn Niệm Phật là pháp viên đốn, là đường lối thẳng tắt để trở lại nhà. Người đã
gặp môn tối thượng mau thành phật này, mà còn tham cầu phước báu nhơn thiên,
còn mê chấp lối tu tà ngoại, còn giữ theo những hành môn quanh co khó bảo đảm
cho sự giải thoát. Tổ Triệt Ngộ cho đó là một lối si chấp, như kẻ thà cam gánh
vỏ gai không chịu chọn lấy vàng vậy.
47) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Có hai lối tu để thoát vòng luân hồi trong Tam Giới. Ðó là lối Thụ Xuất, vượt ra theo chiều dọc. Và Hoành Xuất: vượt ra theo chiều ngang. Kẻ tu đường lối Thánh đạo, dùng sức Giới, Ðịnh, Huệ lần lượt dứt trừ Kiến hoặc cùng Tư hoặc của Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới, thoát ra ba cõi, gọi là Thụ Xuất. Ví như con ong muốn ra khỏi cây tre, dùng sức khó nhọc đục từng mắt tre theo chiều đứng, mà tìm lối thoát. Còn người tu theo đường lối vãng sanh, tuy chưa dứt trừ hoặc nghiệp, nhưng biết dùng sức tín, nguyện, hạnh của mình và nương theo sức bản thệ nhiếp thọ của Phật, cũng được vượt thoát ba cõi Ta Bà, sanh ngang về Lạc quốc. Ðã về cõi ấy rồi, tất không còn bị luân hồi, lần lượt chứng lên các thánh phẩm, cho đến khi thành Phật. Ðây gọi là lối tu Hoành Xuất. Ví như con ong biết dùng phương tiện đục ngang cây tre mà thoát ra, đã dễ dàng lại ít nhọc công phí sức.
Pháp môn Tịnh Ðộ là lối tu Hoành Xuất Tam Giới, là phương tiện nhiệm mầu để mau
thoát luân hồi, chứng lên quả Phật. Trong nhiều kinh luận, chư Phật và chư Tổ
đã tuyên dương khen ngợi rộng về môn này. Song tiếc thay những kẻ kém duyên sức
tin chưa thấu đáo thì lòng từ bi của các ngài dù trải ra vô lượng vô biên,
nhưng kết cuộc cũng không biết làm sao mà cứu vớt được!
48) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Câu niệm Phật là con đường thẳng tắt để trở lại nguồn tâm. Như người đi xa cần dự bị cho đủ tư lương là: tiền nong, đồ phục dụng và thức ăn uống. Tư lương cần thiết đi về Tịnh Ðộ cũng thế, chỉ suông gọn trong ba điểm: Tín, Nguyện, Hạnh mà sau đây sẽ nói.
49) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Lòng Tin là phần tư lương trước tiên của môn Niệm Phật. Hoa sen chín phẩm ở Tịnh Ðộ cũng từ lòng Tin này mà nẩy mầm nhô đầu lộ mọc lên. Nhưng Tin cần phải sâu chắc, có thể tóm gọn trong ba điểm:
Một là tin cõi Cực Lạc trang nghiêm tốt đẹp kia vẫn thật có, không phải chuyện
hư huyễn hay thí dụ. Vì đức Phật Thích Ca không bao giờ nói dối, Ngài đã diễn tả
rành rẽ từng chi tiết của cảnh ấy trong ba kinh Tịnh Ðộ. Vì đã có rất nhiều người
niệm Phật trong đời hiện tại, do tâm thanh tịnh, từng chứng kiến cảnh giới này.
Hai là tin sự vãng sanh về cõi kia cũng hiện thật. Vì đức A Di Ðà Thế Tôn không
bao giờ nguyện suông, nói mà chẳng thật hành. Vì từ xưa đến nay có rất nhiều
người niệm Phật, khi lâm chung hiện ra điềm lành, được Tây phương Tam Thánh hiện
thân tiếp dẫn sanh về Cực Lạc.
Ba là tin mình dù còn phiền hoặc, dù nghiệp chướng nặng nề đến đâu, nếu chí tâm
niệm Phật cầu nguyện vãng sanh tất sẽ được tiếp dẫn. Vì trong kinh Vô Lượng thọ
đã nói, kẻ tạo nghiệp ngũ nghịch thập ác khi lâm chung dùng mười niệm cũng được
vãng sanh. Vì trong truyện ký đã có ghi, những kẻ tạo ác nhiều như Hùng Tuấn, Duy
Cung, nhờ biết hồi tâm niệm Phật đều được sự tiếp dẫn.
50) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Nguyện là phần tư lương thứ hai của môn Niệm Phật. Nhưng Nguyện phải tha thiết, không tham luyến trần cảnh, gia tư, quyến thuộc, không mong cầu hưởng sự vui phước báu nhơn thiên nơi đời sau. Chỉ nguyện mau sanh về Cực Lạc, để thoát khỏi nỗi khổ luân hồi, để sớm thấy Phật và chứng kiến cảnh trang nghiêm của Liên Bang, để độ thoát mình, kẻ oan, người thân và vô lượng chúng sanh trong vòng chìm đắm. Chí nguyện cầu sanh ấy nung nấu như lửa đốt lòng, đôi mắt thương cảm tha thiết trông về hầu như tuôn ra huyết lệ.
51) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Sau rốt, Hạnh là
phần tư lương thứ ba của môn Niệm Phật. Song Hạnh cần phải tinh chuyên. Ðiều
này có thể tóm lại trong hai câu: "Rủ sạch muôn duyên. Một lòng niệm
Phật". Muốn rủ sạch muôn duyên, phải thấu đáo cảnh Ta Bà là khổ, mọi sự
vật đều vô thường, như huyễn mộng, mà không còn niềm tham luyến. Muốn một lòng
Niệm Phật, phải hâm mộ cảnh Cực Lạc y báo, chánh báo vui đẹp trang nghiêm, mong
mỏi cầu về như con thơ nhớ mẹ, như lữ khách tưởng nghĩ trở lại quê xưa.
Ba điểm Tín, Nguyện, Hạnh trên tuy giải thích riêng từng phần, song thật ra cả
ba đều liên quan hỗ trợ lẫn nhau. Như cái đảnh có ba chân, nếu thiếu một phải
sụp đổ tất cả vậy.
52) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Người tu tịnh nghiệp do ý thức nỗi khổ sống chết luân hồi là việc lớn cần phải giải quyết, nên phát tâm Bồ Ðề. Từ nơi điểm này dùng lòng tin nguyện sâu thiết, hành trì câu hồng danh thề niệm thành một khối, không để phiền não xen vào. Trong đời này phải liều mình hết sức tu hành như thế, để bảo đảm cho sự vãng sanh lúc lâm chung. Khi đã được về Cực Lạc rồi, chừng đó mới thoát vòng sống chết, làm người an nhàn tự tại, không còn lo bị luân hồi sa đọa nữa.
53) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Kẻ sức yếu lúc lên
non, muốn được vững vàng, phải nương cây gậy. Cũng như thế, người tu Tịnh
nghiệp khi niệm lực chưa thuần, cần nương nơi tràng chuỗi giữ chắc định số mỗi
ngày để phòng ngừa sự biếng trễ. Cứ niệm mãi như vậy, chuỗi đứt lại đổi dây
khác, khi nào đến cảnh giới "không niệm tự niệm", chừng đó muốn lần
chuỗi hay không cũng được. Ðừng nghĩ rằng lần chuỗi sẽ mất sự tự tại. Cổ đức đã
trình thuật lại kinh nghiệm lần chuỗi vẫn được viên dung vô ngại như sau:
"Nắm lấy chuỗi tràng trần niệm dứt.
Nghiễm nhiên thành Phật đã từ lâu!"
(Niết khởi sổ châu thằng sách đoạn.
Thể hương phạn thục dĩ đa thời).
Còn phương pháp niệm Phật như thế nào, dưới đây sẽ
lần lượt chỉ rõ.
54) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Cách niệm Phật không
nên gấp hoặc huỡn lắm. Niệm gấp tất khó rành rõ, có hại cho sự huân tập câu
hồng danh, ngày kia cảnh giới "không niệm tự niệm" phát hiện, câu
Phật hiệu cũng không được rành rõ. Niệm huỡn thì vọng tưởng dễ xen lẫn vào. Lại
quá dùng sức niệm mau gấp, hư hỏa sẽ bốc lên, thần kinh căng thẳng, tất sanh
bịnh nám mặt, đau đầu. Niệm huỡn đãi lơ là thì tâm ý buông lơi, sẽ sanh lỗi hôn
trầm biếng trễ.
Khi niệm phải tiếng nương nơi tâm, tâm duyên theo tiếng, lòng và miệng ứng hợp
nhau, cứ niệm đều đều ngoài ra không tưởng nghĩ chi khác.
55) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Người học bắn, càng
tập lâu tất nghề càng tinh xảo. Câu hồng danh là sự kết tụ vô biên phước huệ
của Phật, niệm càng nhiều thì căn lành càng thuần, công đức càng to rộng, phẩm
sen lại càng cao. Ngẫu ích đại sư đã nói: "Ðược vãng sanh cùng không là do nơi Tín, Nguyện. Phẩm sen cao
hoặc thấp, toàn bởi sự Hành trì!".
56) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Kinh nói: "Chí
tâm niệm một câu A Di Ðà, tiêu được tội nặng trong tám mươi ức kiếp sống
chết". Một kiếp sống chết là một quãng đời trong nẻo luân hồi. Liên Trì
đại sư cũng bảo: "Câu niệm Phật là đại phước, đại đức, đại trí, đại huệ,
đại thánh, đại hiền!". Về phước thì câu hồng danh cảm hiện nhạc trời,
hương lạ, ao báu, đất vàng, cho đến vô lượng cảnh tướng tốt đẹp trang nghiêm.
Về huệ thì câu Phật hiệu sẽ khiến cho hành giả tiêu trừ tội chướng, lần lần đi
sâu vào cảnh giới giác ngộ, chứng lên Thánh Quả. Tiến trình chứng ngộ phước và
huệ thấp hoặc cao ấy, duy đương nhơn tự biết; như người uống nước lạnh, nóng
chỉ mình hay, không thể diễn tả ra được!
57) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Kinh Pháp Hoa có thí
dụ: "Như người đào giếng, trước tiên duy thấy đất cát khô ráo, biết mực
nước hãy còn xa. Lần lần thấy đất ướt và bùn, biết đã gần tới mực nước. Người
tu Phật cũng thế, khi chưa nghe hiểu kinh Pháp Hoa, kẻ ấy hãy còn xa đạo Vô
Thượng Bồ Ðề. Lúc đã nghe hiểu kinh này, tất biết người ấy đối với đạo Vô
Thượng Bồ Ðề không còn xa nữa...".
Với môn Tịnh Ðộ cũng lại như thế, người nào đã biết và tu pháp Niệm Phật, tất
kẻ đó đã gần đạo Vô Thượng Bồ Ðề. Chẳng những ngần ấy mà thôi, với pháp môn này
chỉ cần dụng công trong một đời, khi được vãng sanh, tức đã bước lên ngôi Bất
Thối Chuyển, không còn bị lui sụt nơi Phật quả nữa. Sự dùng công phu ít nhưng
thành đạo quả cao như thế, há chẳng giống kẻ đào giếng với giá hời, hoặc may
mắn ra công sức chưa bao lâu mà đã thấy lộ bùn gần mực nước đó ư!
58) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Thời xưa ở Ấn Ðộ, khi muốn lấy lửa người ta cọ hai thanh gỗ khô
vào nhau. Cọ đến khi nào gỗ nóng phát sanh ra khói, mới để đồ dẫn hỏa vào, tự
nhiên lửa bắt phừng cháy. Nếu cọ nửa chừng, hoặc đến lúc đã nổi khói mà bỏ dở
tạm dừng, thì gỗ sẽ lần lần nguội đi không phát ra lửa được.
Sự hành trì câu A Di Ðà cũng như thế. Khi chúng sanh ở Ta Bà phát tâm niệm Phật
cầu về Cực Lạc, thì nơi ao báu ở Tây phương đã nở hiện một búp sen. Nếu hành
giả mỗi ngày đều tinh tấn trì niệm, hoa sen ấy sẽ lần lần to lớn. Như nửa chừng
bỏ dở, hoa sen cũng lần khô héo rồi tàn. Bởi đóa sen chín phẩm nơi liên trì,
đều do công đức của hành giả mà thành tựu. Ngày kia công hạnh thành, báo thân
mãn, thần thức của đương nhơn sẽ gởi vào thai sen đó mà hóa sanh. Cho nên người
tu tịnh nghiệp chớ nên niệm Phật nửa chừng rồi bỏ dở, hoặc biếng trễ lần lựa
tạm dừng. Vì trễ sót như thế tất nhiên thai sen sẽ hỏng.
Viết đến đây, bút giả nhớ lại độ trước có được cô Diệu Thuần ở quận Ba Tri tỉnh
Bến Tre, thuật lại cho nghe điềm mộng như sau:
- Bạch thầy! con nằm mơ thấy đến một ngôi chùa, trước chùa có ao to rộng, nước
trong suốt, các đóa hoa sen nhiều sắc, hoặc lớn hoặc nhỏ đua nhau tươi nở. Gần
bờ ao có một hoa sen to lớn độ bằng chiếc mâm thau tròn. Nhưng đóa hoa ấy lại
bị cái chụp úp lên. Con lại gần dở cái chụp thì hoa sen tan rã từng cánh rồi
tàn rụng. Lúc ấy, giữa hư không bỗng có tiếng nói: "Hoa sen đó là của liên
hữu Minh Phúc!". Sau khi tỉnh giấc, sáng ra con đem điềm mộng thuật lại
cho đạo hữu Minh Phúc ở tiệm vàng tại bản quận nghe. Ðạo hữu tỏ sắc lo sợ bảo:
"Chết nỗi! Thầy dặn tôi mỗi ngày niệm Phật tối thiểu phải một ngàn câu.
Tôi tinh tấn đã được vài năm, nhưng gần đây vì công việc quá bề bộn, nên suốt
ba tháng nay biếng trễ không niệm một câu nào. Bây giờ chị thấy hoa sen héo
rụng, và chư vị đã mách bảo như thế, tôi phải sám hối gắng tinh tấn lại mới
được!". Thưa thầy! Con đã biết hoa héo rụng là do Minh Phúc giải đãi,
nhưng chưa rõ tại sao lại có cái chụp ấy?
Bút giả đáp: - Chiếc chụp tượng
trưng cho Ngũ Cái nói về phương diện chung, hoặc Ngũ Dục về phương diện riêng.
Ngũ Cái là: tham, sân, si, nghi, hối. Ngũ dục là: sắc đẹp, tiền của, danh vọng,
ăn uống, ngủ nghỉ. Chúng sanh thường bị những điều trên che đậy, làm cho tham
đắm si mê, không biết tỉnh ngộ tu hành. Minh Phúc tất bị một hoặc nhiều phần
trong các điều ấy che mờ, nên mới biếng trễ không niệm Phật, khiến cho hoa sen
công đức phải héo tàn. Nhưng từ đây biết giác ngộ gắng tu thì đóa hoa sen khác
sẽ tiếp tục mọc lên, thay cho đóa hoa trước. Ðừng nên e ngại rằng nó tàn rồi
mất hẳn, mà phế bỏ sự tu trì. Khi xưa cô thị nữ của bà Kinh Dương phu nhơn,
trước tiên cũng giải đãi nên hoa sen héo tàn, sau giác ngộ tinh tấn, hoa lại
mọc lên tươi tốt. Kết cuộc cô được vãng sanh Cực Lạc, cô trở về báo mộng cho
phu nhơn biết.
59) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Cổ nhơn đã bảo: Trên đường tiến tu đạo giải thoát, có bốn điều khó:
-Ðiều thứ nhất là: thân người rất khó được. Khi xưa đức Phật đã nói với ngài A
Nan: "Chúng sanh được thân trời, người ít như đất nơi móng tay. Ðọa bốn ác
thú nhiều như đất miền đại địa". Ðọa vào các nẻo như: Tu La, bàng sanh,
ngạ quỉ, địa ngục, bị nhiều nỗi thống khổ và nghiệp ác làm chướng ngại đường tu
đã đành, nhưng sanh lên cõi trời cũng bị sự vui khiến cho mê đắm khó tu nữa!
Thế nên duy có thân người mới dễ tiến tu đạo giải thoát mà thôi. Người xưa đã
từng diễn tả sự khó được của thân người qua mấy câu thi như:
Ngàn năm cây sắt đơm hoa
dễ
Một mất thân người khó lại sanh!
(Thiên
niên thiết thọ khai hoa dị
Nhứt thất nhơn thân tái phục nan!)
Hoặc:
Tam đồ một đọa trăm ngàn
kiếp
Lại cõi nhơn thiên chẳng hẹn ngày!
(Tam đồ nhứt đọa bá thiên kiếp
Tái xuất đầu lai hữu kỷ thời!)
Thân người đã khó được như thế, nhưng làm thân người
mà không tàn tật, không sanh nơi Biên Ðịa, được ở nơi trung tâm văn hóa đạo đức
cũng là điều khó. Và đây là cái khó thứ hai.
Dù được ở miền trung quốc có văn hóa đạo đức, nhưng không dễ gì được gặp và
nghe hiểu Phật pháp. Bởi chánh pháp như hoa Ưu-đàm-bát-la, rất lâu mới nở hiện
nơi cõi đời. Ðây là điều khó thứ ba.
Lại tuy được gặp và nghe hiểu Phật pháp để tu hành, nhưng còn điều thứ tư rất
khó là không dễ gì thoát khỏi tam giới, dứt hẳn nổi khổ sống chết luân hồi. Bởi
nhân loại phần đông nghiệp nặng căn tối, chướng duyên rất nhiều, kiếp sống lại
vô thường ngắn ngủi, mới vừa thấy đó, bỗng lại mất đi.
Nay chúng ta hân hạnh được thân người, lại rất may mắn gặp môn Tịnh Ðộ là pháp
cực nhiệm mầu, một đời có thể đới nghiệp vãng sanh thoát vòng sống chết, thì
phải đem toàn thân mà gánh vác thọ trì, đừng nên lần lựa hẹn chờ, hoặc thờ ơ
biếng trễ. Tại sao thế. Vì bóng quang âm thấp thoáng như thoi đưa, tuổi xuân
không trở lại, mạng người thoạt còn thoạt mất không biết đâu mà lường. Khi xưa
có thiền sinh hỏi một vị tôn đức: "Bạch ngài! thế nào là sự tiến tu của
hành giả?" Vị tôn đức đáp:
"Thấy nói Kinh Kha xưa dõng mãnh.
Một đi thà chết chẳng quay về!"
(Kiến thuyết Kinh Kha lữ.
Nhứt hành cánh bất hồi).
Hành giả đem toàn thân trải đội một câu A Di Ðà, cũng phải như thế.
60) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Hành nhơn khi xưa đã
cho biết: "Học đạo như dong thuyền nước ngược, không tiến nổi trôi
lui" (Học đạo như nghịch thủy
hành chu, bất tiến tắc thối). Bởi trên đường tu, hành giả gặp nhiều
chướng duyên trong và ngoài, nếu không mạnh mẽ cố gắng tự chủ trương, tất không
làm sao tiến triển nổi. Mà muốn làm chủ thân tâm cùng ngoại cảnh, thắng dẹp
muôn duyên để tiến đạo, phải dùng hết mười phần năng lực mới mong đạt được kết
quả. Về môn Tịnh Ðộ, nếu muốn cầu phẩm sen bậc thượng, dĩ nhiên cũng phải như
thế. Trong bức thơ gởi cho một Phật tử hỏi đạo, Ấn Quang pháp sư nói:
"Theo kinh nghiệm xưa nay, nhiều hành giả chỉ mong cầu bậc thượng, nhưng phần nhiều chỉ được trung, cầu bậc trung lại rớt xuống bậc hạ. Nếu ngươi không phát tâm thẳng tiến, tu hành lơ là, hy vọng mình dự vào Hạ Hạ phẩm cũng tốt, thì làm sao bảo đảm sự vãng sanh?
Trên đây cũng là điểm suy nghĩ chung cho hàng liên hữu vậy.
61) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Người mới tu lúc niệm Phật lắng nghe vào trong, dứt các tạp vọng,
gọi là Chỉ. Khi phát khởi trì câu hồng danh với các tâm trạng khác nhau tạm gọi
là Quán. Những tâm trạng khác nhau ấy như thế nào? Có lúc trì câu hồng danh với
ý tha thiết, như con nhớ mẹ, như lữ khách lâu năm hoài vọng cố hương. Ðây gọi
là “chí thiết niệm”. Có lúc trì câu hồng danh với ý sám hối, bởi nghĩ mình từ
vô thỉ kiếp đến giờ vì mê lầm tạo nhiều tội chướng, nay hết sức hổ thẹn ăn năn.
Ðây gọi là Sám Hối niệm. Có lúc trì câu hồng danh với ý thương cảm, vì nghĩ
mình nghiệp chướng sâu dày chìm đắm trong vũng bùn lầy ngũ dục ác nhơ, nay cầu
mong sự cứu vớt nơi đấng đại từ bi. Ðây gọi là Bi Cảm Niệm. Có lúc trì câu hồng
danh với ý lo sợ, bởi nếu rời Phật lực tức sớm muộn cũng sẽ bị đọa vào ba đường
ác, chịu vô lượng nỗi khổ sống chết luân hồi. Ðây gọi Bố Tâm Niệm. Có lúc trì
câu hồng danh với ý phẫn phát, tự trách hờn, như một nho sinh sẵn đủ trí huệ
tài ba, thi văn mẫn tiệp, bởi cậy tài nên khinh suất mãi thi rớt, cam chịu cảnh
nghèo hèn. Ðây gọi là Phát Phẫn niệm. Có lúc trì câu hồng danh với ý nhàm chán
lẻ loi, như bậc cao sĩ sống giữa cảnh xung quanh các đồng nhơn tranh đua sắc
tài danh lợi, phi thị hơn thua, gièm pha phỉ báng giết hại lẫn nhau, riêng mình
chỉ còn biết nương gần với Phật, bởi cõi trần man mác, ấy ai là bạn tri âm? Ðây
gọi là Cô Tịch Niệm.
Niệm Phật với các tâm cảnh như trên, tuy tạm gọi là có Chỉ, có Quán, nhưng chưa
được xưng là Diệu Viên bởi chưa đến mức tròn trặn nhiệm mầu. Hành giả dụng công
lâu ngày, tâm niệm vắng lặng dứt hết muôn duyên, nơi câu Phật hiệu gồm đủ
phước, huệ, hạnh, nguyện, giải thoát, sáu ba la mật, không và sắc dung thông,
mới gọi là Diệu. Trong bặt thân tâm, ngoài dứt trần giới, chẳng thấy mình là kẻ
hay niệm, Phật là vị được niệm, không còn lằn mức cách biệt giữa chúng sanh và
phật, giữa cảnh cùng người, tất cả đều dung hợp rộng rãi, bao la, mới gọi là
Viên. Nơi tâm cảnh ấy, điểm thanh tịnh lặng lặng không tán loạn là Chỉ, điểm sáng
suốt tĩnh tĩnh không hôn trầm là Quán. Niệm như thế không xen tạp, hằng nối
tiếp nhau, gọi là Diệu Viên Chỉ Quán.
62) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Trong kinh Pháp Hoa, nơi phẩm Hoá Thành Dụ, đức Thế Tôn có nói
đại khái như sau:
"Một vị đạo sư hướng dẫn đoàn người vượt qua đoạn đường hiểm trở xa độ năm
trăm do tuần, để đến nơi bảo sở là chỗ có nhiều châu báu. Nhưng giữa đường đoàn
người ấy mỏi mệt thối tâm, xin muốn lui bước trở về. Ðạo sư nghe nói thương
xót, dùng phương tiện biến ra một hóa thành cách đó ba trăm do tuần và bảo:
"Các ông hãy cố gắng đến thành ấy tạm nghỉ sẽ hết nhọc mệt!". Ðoàn
người vui mừng tiến tới hóa thành, cho rằng mình đã đến nơi, đã được chỗ an ổn.
Khi đạo sư thấy họ đã nghỉ ngơi xong, liền diệt mất hóa thành và bảo: "Vừa
rồi là hóa thành không phải cảnh thật. Ta vì thấy các ông mỏi mệt bỏ dở công
khó muốn lui trở về, nên thương xót phương tiện hóa hiện ra. Nay đã sắp gần tới
bảo sở các ông nên cố gắng gia công tiến bước..."
Theo thí dụ trên, Ðạo Sư chỉ cho đức Như lai. Ðoàn người chỉ cho hành giả tiến
tu theo chánh pháp. Ðường năm trăm do tuần, chỉ cho sự hiểm nguy khổ nạn trong
Ngũ thú luân hồi là: Thiên, nhơn, bàng sanh, ngạ quỉ, địa ngục. Trông đây không
kể A tu la và thần tiên, vì hai đạo này nhiếp vào các nẻo kia. Như A-tu-la thì
có thiên A-tu-la, nhơn A-tu-la, quỉ A- tu-la, súc A–tu-la. Tiên thì có thiên
tiên, quỉ tiên cho đến súc tiên, chẳng hạn như hồ tiên cho đến long tiên v.v...
Nếu phối hợp với các thừa, thì năm trăm do tuần là sự trải vượt qua năm thừa
gồm: Nhơn thừa, Thiên thừa, Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, Bồ Tát thừa. Thanh
Văn, Duyên Giác, Bồ Tát còn kể trong giai đoạn hiểm nguy, vì nếu không nhờ sức
Phật gia bị, tất bị u trệ, khó nỗi tiến lên Phật quả. Nhưng đây là luận rộng
thêm đó thôi, thật ra đường hiểm năm trăm do tuần chỉ cho Ngũ Thú thì thiết cận
hơn.
Tiếp tục theo lời dụ, Bảo Sở chỉ cho Phật Quả Vô Thượng Ðẳng Giác. Cách ba trăm
do tuần, chỉ cho sự vượt khỏi Tam Giới. Hóa thành chỉ cho quả vị giải thoát
phiền hoặc ba cõi của hàng Nhị Thừa Thanh Văn, Duyên Giác. Tổng kết đại ý, đức
Thế Tôn muốn nói trong giáo pháp của Ngài, chỉ duy một Phật Thừa, không có sự
chia riêng hai thừa như Tiểu Thừa và Ðại Thừa, hoặc ba thừa như Thanh
Văn, Duyên Giác, Bồ Tát Thừa. Những thừa trên đều toàn giả lập, quả vị Thanh
Văn, Duyên Giác, chỉ là Hóa Thành huyễn tạm mà thôi.
Ðối với pháp Tịnh Ðộ, có người không hiểu rõ môn này, lầm cho Cực Lạc là Hóa
Thành, chẳng phải Bảo Sở. Thật ra Hóa Thành cùng Bảo Sở là cảnh giới tu chứng
của tự tâm, không cuộc hạn nơi quốc độ. Xin nói rõ lại, Hóa Thành là cảnh giới
Thanh Văn, Duyên Giác; Bảo Sở là cảnh giới Phật. Môn Niệm Phật đưa chúng sanh
về Cực Lạc, để mau tiến lên cảnh giới Phật, chứng thành Phật quả. Ðó là đường
lối thẳng tắt tiến về Bảo Sở; chớ đâu phải trụ nơi Hóa Thành. Ðúng ra Ta Bà và
Cực Lạc đều là huyễn cảnh, nhưng Ta Bà có vô lượng khổ nạn chướng duyên, Cực
Lạc đủ vô lượng duyên lành tiến đạo. Bởi thế chư Phật đều khuyên nên cầu vãng
sanh để dễ tiến tu, không còn thuộc giới phàm phu đầy đủ nghiệp lực mà cho Cực
Lạc là Hóa Thành, cam ở cảnh Ta Bà vô lượng chướng duyên hiểm nạn, rất khó được
giải thoát, đó là Bảo Sở đấy ư? Thật là lầm lạc và đáng buồn cười lắm vậy!
Câu "Lối hiểm đều san bằng" hàm ý nghĩa: Khi công phu niệm Phật thuần
thục, về cõi Phàm Thánh Ðồng Cư nơi Cực Lạc thì đã thoát khỏi sự luân hồi trong
đường hiểm Ngũ Thú thuộc Tam Giới, lại thường được gần gũi Phật cùng chư Bồ
Tát, không còn bị chướng ngại và bị thối chuyển trên đường Vô Thượng Bồ Ðề. Tóm
lại một câu niệm Phật có công năng mầu nhiệm san bằng tất cả hiểm nạn trên
đường tu, đưa hành giả tiến mau về Bảo Sở, nên Triệt Ngộ thiền sư mới tỏ bày
khen ngợi!
63) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Hạt châu Thủy Thanh có công năng lóng nước đục thành trong. Câu
niệm Phật cũng thế, không luận vọng niệm nhiều ít, hành giả cứ chuyên chú giữ
chắc sáu chữ hồng danh lâu ngày, tạp niệm tự nhiên tan mất. Ðiểm đáng lưu ý
trong đây là không nên khởi tâm dứt trừ vọng niệm. Vì vọng niệm vốn như huyễn,
cố tình muốn dẹp, nó lại càng tăng. Một nhà hiền triết đã nói kinh nghiệm này
qua câu: "Càng muốn đè nén, chính là cố tâm làm cho nó thêm phát khởi."
(Tương dục án chi, tất cố hưng chi).
Khi xưa có một Tú Tài đến phỏng đạo nơi bậc cao đức, vị Thiền sư này hỏi: “Cư
sĩ tên họ chi?" Tú Tài đáp: "Thưa, đệ tử nhũ danh Trương
Chuyết". Chữ Chuyết có nghĩa là vụng về. Thiền Sư nghe xong bảo: “Với đạo
khéo còn chẳng có, huống chi đến vụng!" Tú Tài nghe qua liền ngộ vào Bất
Nhị pháp môn, làm kệ trình lên rằng:
Ánh linh lặng chiếu khắp
hằng sa
Phàm thánh nguyên lai bản tánh ta
Một niệm chẳng sanh toàn thể hiện
Sáu căn vừa động bị mây lòa
Dứt trừ phiền não càng thêm bịnh
Tìm tới Chân Như cũng vẫn tà
Tùy thuận các duyên không trở ngại
Niết bàn sanh tử tợ không hoa.
Theo ý hai câu luận bài kệ trên, phiền não vốn là
không, là huyễn, cứ mặc nhiên giữ chánh niệm, nó sẽ tự tiêu tan. Nếu khởi ý dứt
trừ thì phiền vọng lại hóa thành có. Chân Như là thể tánh tự nhiên, biết lặng
lẽ dung hợp với tự nhiên, tánh Chân Như sẽ hiển lộ. Nếu khởi tâm tìm tòi xu
hướng, tức có niệm phân biệt, trái với thể bản nhiên, đó chính là tà vọng. Ðể
bổ túc ý trên, xin ghi thêm lời của Ðàm Hư đại sư, một bậc cao tăng cận đại
thuộc giáo phái Thiên Thai bên Trung Quốc.
Ðây Phật Tổ quê hương
Xứ xứ hiện phong quang
Nước non miền đất rộng
Ưng tự có biên cương
Ðộng vật tùy sanh trưởng
Thực vật tự phô trương
Nắng mưa tùy đổi tiết
Tháng năm tự đoản trường
Vinh hư muôn tượng hiện
Là tự thể chân thường
Nếu cố ý cầu toàn
Trở lại bị tổn thương!
64) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Trong kinh Khởi Thế Nhân Bản có đoạn nói:
"Ðại bàng kim xí điểu là giống chim ăn thịt loài rồng. Khi muốn thọ thực,
chim này tùy theo khả năng của loại thai, noãn, thấp, hóa, dùng cánh quạt nước
biển sâu nhiều ngàn do tuần, bắt lấy các loài rồng thuộc thai, noãn, thấp, hóa
mà ăn thịt. Kim xí là loại chim cao nhứt trong hàng phi cầm, có sức thần thông
biến hóa. Rồng là sanh vật tối linh trong biển cả, cũng có nhiều uy lực thần
thông".
Trên đây ví hiệu năng môn Niệm Phật như thần thông của kim xí điểu. Các công
đức mà môn này thu được như thủ đắc loài rồng là sinh vật tối linh. Kinh Hoa
Nghiêm có nói đến môn tam muội gọi là Vô Biên Hải Tạng Môn. Liên Trì đại sư đã
so sánh bảo: "Niệm Phật tam muội cũng thế, ngộ vào môn này tức sẽ đắc vô
lượng Vô Biên Hải Tạng Môn, sẽ thủ đắc vô lượng tam muội". Vì thế Tổ Triệt
Ngộ mới trình thuật lại ý nghĩa ấy qua bài kệ trên.
65) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Chúng sanh từ vô thỉ kiếp đến nay, vì mê Chân Tánh khởi tham sân
si, đắm sâu trong vũng bùn lầy duyên phiền não, kết thành sức nghiệp tự ràng
buộc lấy mình. Một hiền giả đã than: "Tâm đắm nhiễm của con người như vực
sâu không đáy, như biển rộng mênh mông. Ðem dâng hết sắc đẹp trong thiên hạ
cũng không vừa đủ lòng dục. Hiến khắp hết tiền của trong thiên hạ cũng không
vừa đủ lòng tham!". Bởi thế, tuy gặp thắng duyên bước lên đường tu, nhưng
nghiệp tham sân si trong muôn kiếp không dễ gì trừ dứt. Nhưng nếu hành giả chí
tâm giữ một câu Phật hiệu, dù chẳng khởi niệm dứt trừ nghiệp hoặc, trần duyên
phiền não cũng sẽ tự tiêu trừ.
Tại sao thế? Bởi phiền não là vọng niệm hư huyễn, Phật hiệu là chánh niệm chân
thật. Vọng niệm như chồn cáo, chánh niệm như sư tử. Chánh niệm khởi lên, vọng
niệm tự diệt, như sư tử ra khỏi hang, các loài chồn cáo đều kinh hãi tan rã bỏ
chạy. Vọng niệm như nhà tối muôn năm, chánh niệm như ngọn đèn to sáng, diệt
ngay tất cả sự tăm tối. Cho nên nếu nhiếp tâm nơi chánh niệm, tất vọng niệm tự
trừ. Ngoài điều ấy ra, sáu chữ hồng danh là kết tinh công đức phước huệ của
Phật A Di Ðà đã tu từ vô lượng a tăng kỳ kiếp. Cho nên, Phật hiệu có công năng
diệt nghiệp rất mau chóng.
Trong Trí Ðộ Luận, Long Thọ Bồ Tát đã khai thị: "Môn Niệm Phật tam muội
hay dứt trừ tất cả phiền não nghiệp chướng đời này cùng đời trước. Các tam muội
khác, có môn trừ được nghiệp dâm mà không thể trừ nghiệp sân. Có môn trừ được
nghiệp sân, si mà không thể trừ nghiệp tham, dâm. Có môn trừ được tham, sân, si,
nhưng chẳng thể trừ những tội nghiệp đời trước. Niệm Phật tam muội có thể trừ
sạch nghiệp tham, sân, si, cùng tất cả trần duyên phiền não và tội chướng đời
trước.
Lại nữa, Niệm Phật tam muội hay sanh trí huệ phước đức rộng lớn, có thể độ
chúng sanh. Chư Bồ Tát nếu muốn độ sanh mà tu các môn tam muội khác, tất kết
quả rất chậm kém. Bởi các môn tam muội khác phước đức không bằng Niệm Phật tam
muội. Tại sao thế? Vì Phật là đấng Pháp Vương, phước huệ đều viên mãn, nên vô
lượng phước đức trí huệ của hành giả, tất phải từ nơi Phật mà tăng trưởng và
thành tựu mau chóng.
Lại nữa, do vì niệm Phật luôn, tâm không rời Phật, nên hành giả thường được gặp
chư Phật...".
Những lời khuyên dạy trên, chứng tỏ niệm Phật hay trừ sạch trần duyên phiền
não.
66) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Trong kinh, đức Phật có thí dụ một đoạn như sau:
"Do chỗ bị động, nên bầy dã thú tìm đoạn sông cạn để lội sang khu rừng
khác. Khi vượt sông, các loài thú nhỏ như chồn thỏ chỉ bơi khơi khơi trên mặt
nước. Những thứ bậc trung như hươu, nai lúc lội sang, chân đạp được nửa chừng
mực nước. Còn loài voi cao lớn là hương tượng thì chân bước đạp tận đáy để vượt
qua sông. Chúng sanh tu theo ba thừa của ta hóa đạo cũng lại như thế, tùy theo
căn cơ của mình mà vượt biển sanh tử sang đến bờ Niết-bàn. Hành giả tu theo
pháp Tiểu thừa như loài thú nhỏ. Tu theo pháp Trung thừa như loài bậc trung. Tu
theo pháp Ðại thừa như loài thú cao lớn là hương tượng đạp tận đáy sông, nghĩa
là đạp thấu suốt chiều sâu của Lý Tánh mà vượt qua biển luân hồi sống
chết...".
Dẫn thí dụ trên để so sánh, Tổ Triệt Ngộ cho môn Niệm Phật là pháp Ðại thừa.
Nếu hành giả trì câu hồng danh một cách thẳng chắc, dứt tất cả phiền não, không
còn phân biệt năng sở trong ngoài, tức sẽ khế hợp với lý tánh, đi sâu vào Thật
Tướng Niệm Phật. Kẻ ấy như con hương tượng chân đạp tận đáy, vượt sông một cách
vững vàng chắc chắn.
67) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Hành giả tu Tịnh Ðộ do chuyên trì câu hồng danh, lâu ngày nghiệp
chướng tiêu trừ, sẽ chứng vào Niệm Phật tam muội. Ðây là cảnh Vô tướng tâm
Phật. Vô Tướng không phải trống rỗng, chẳng hàm tướng trạng chi, mà chính vì
các tướng sanh diệt như huyễn không có tự thể chắc thật, nên gọi là Vô. Tâm
Kinh nói: "Huyễn sắc tức chân không, chân không tức huyễn sắc", chính
là ý này. Tâm Phật có nghĩa: Tâm tức Phật, Phật tức Tâm, chân tâm là Phật cảnh,
Phật cảnh là chân tâm.
Thế thì cảnh chánh báo, y báo trang nghiêm ở cõi Cực Lạc, cùng tất cả quốc độ
khắp mười phương đều chính là cảnh giới của chân tâm, của tâm mình, không phải
vật chi ngoài khác. Cho nên những kẻ bảo: "Niệm A Di Ðà, nguyện sang Cực
Lạc là tìm cầu bên ngoài, chẳng hướng về tự tâm", đó là quan niệm sai lầm,
chưa hiểu rõ chân tâm, cũng như pháp môn Tịnh Ðộ.
68) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Trong danh từ Vô Vi, chữ Vi có nghĩa: khởi làm hay tác động. Vì các tướng động chuyển trong mười phương thế giới đều sanh diệt như mộng huyễn, như bọt bóng, không có thật thể, nên gọi Vô Vi. Ðừng lầm hiểu Vô Vi là rỗng không, chẳng có tướng trạng hay tác động chi cả mà sai lạc. Cho nên trong kinh nói: "Bồ-tát tuy thị hiện vô biên quyến thuộc, mà tâm hằng không quyến thuộc. Tuy thật hành sáu độ cùng tất cả việc lành, mà không thấy mình hay làm và có các pháp để tu. Tuy độ vộ lượng chúng sanh, mà không thấy mình là người hóa độ và những chúng sanh được độ". Ðó là hạnh Vô Vi. Hạnh Vô Vi như thế mới gọi là đại pháp lớn rộng và quí báu.
Nơi đây Triệt Ngộ đại sư dạy: "Người tu Tịnh Ðộ khi niệm Phật không thấy
mình là kẻ hay niệm, Phật là vị được niệm, câu hồng danh là pháp tu niệm; dứt
tất cả phiền não vọng tưởng, trong quên thân tâm, ngoài tan ngoại cảnh. Hằng
ngày đề khởi chuyên niệm như thế, sử dụng câu hồng danh như bậc kiếm sĩ rút
gươm thiêng sắc bén ra khỏi vỏ hộp báu, vật chi xúc phạm dến đều bị chém đứt
tan. Hành trì như thế tất sẽ chứng vào pháp giới Vô Vi rộng lớn, nhập Không Huệ
đà ra ni vậy".
69) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Kinh nói: "Trong dãy Tuyết sơn có cây thuốc tên là Dược
Vương. Người đau bịnh ôm thân cây liền lành mạnh. Nếu uống được chút ít chất
nhựa cây thì trọn đời không bịnh". Lại ở Tuyết sơn có nhiều thứ thuốc quí
lạ. Theo kinh Hiền Ngu, khi xưa đức Thế Tôn đã dùng gió thổi đưa chất thuốc
tiên nơi non Tuyết vào mắt của năm trăm người mù, khiến cho họ đều được sáng
tỏ. Trong quyển Lục Ðạo Luân Hồi Tập có dẫn sự việc một người đi ngang qua núi
Tuyết, nhân đói ăn thứ dược thảo lạ, bỗng nói và hiểu được sáu môn thổ ngữ của
dân chúng và các xứ quanh vùng. Chẳng riêng gì núi Tuyết, mà ở các danh sơn khác
cũng có nhiều thứ thuốc tiên. Một độ, bút giả đọc quyển Nam Nhạc Ký, thấy nói
một đạo sĩ vào núi này hái thuốc, chợt thấy một bàn tay trắng đẹp sáng mịn mọc
ra từ vách đá. Biết đó là thứ tiên dược, đạo sĩ liền cắt lấy để vào giỏ. Ði một
đoạn, ông ta bỗng nghĩ: "Loại thuốc tiên này biến hóa, nếu không ăn liền
nó sẽ ẩn mất!". Quả nhiên khi xem lại thì bàn tay ấy đã không còn.
Trong đây, Tổ Triệt Ngộ so sánh sáu chữ hồng danh như thuốc tiên ở Tuyết sơn,
như ngọn đèn sáng nơi khoảng đường tối tăm nguy hiểm. Thuốc tiên ngoài công
năng trị lành các bịnh, còn có thể khiến cho người đổi xác phàm phu thăng thành
tiên thánh. Ngọn đèn sáng nơi đường hiểm, ngoài công dụng soi tỏ để hành khách
khỏi lạc lối, còn có thể khiến cho họ khỏi sa hầm sụp hố, tránh những tai nạn
chết người. Câu Phật hiệu lại cao siêu hơn, có thể khiến cho hành giả trở thành
bậc chân Tăng vô lậu, thoát vòng luân hồi, chứng ngôi Vô Thượng Ðẳng Giác. Chữ
"Lậu" có nghĩa: sa lọt, là biệt danh của nghiệp vào vòng sống chết
luân hồi trong ba cõi. Vô Lậu chỉ cho thể tánh sáng suốt, dứt hết phiền não,
không hệ lụy vào nẻo luân hồi. Chứng được thể tánh này mới gọi là bậc chân
Tăng. Mà muốn chóng thành bậc Vô Lậu Chân Tăng tất phải niệm Phật.
70) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Chúng sanh sở dĩ không bố thí được để tạo duyên phước, là vì còn
nghiệp bỏn sẻn tham lam. Khi chuyên niệm Phật, nghiệp ấy sẽ tiêu trừ, hành nhơn
được tròn đầy hạnh thí xả, cả bên trong lẫn bên ngoài. Bên ngoài là thí xả mọi
thứ tiền bạc của cải, lần lượt cho đến đầu, mắt, tay, chân, như đức Thích Tôn
khi còn tu Bồ Tát hạnh. Bố thí như thế mới tròn đủ Ðàn ba la mật.
71) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Cổ đức bảo: "Phật chế tất cả giới để trị tất cả tâm. Nếu
không tất cả tâm, cần chi tất cả giới?". Qua lời trên, giới luật chỉ là
phương tiện để ngăn trừ nghiệp hạnh xấu ác của chúng sanh. Mà sở dĩ có nghiệp
hạnh xấu ác là do còn tâm phiền não nhiễm ô. Nếu nhiếp cả sáu căn chuyên trì
Phật hiệu thì nghiệp chướng bên trong sẽ lần lần tiêu tan, hạnh xấu ác bên
ngoài lần lần được dứt. Và hành giả cũng sẽ lần lần được trong sạch thân tâm,
tròn đầy cả Tam Tụ Tịnh Giới. Tam Tụ Tịnh Giới là: Nhiếp Luật Nghi Giới, Nhiếp
Thiện Pháp Giới và Nhiêu Ích Hữu Tình Giới. Nhiếp Luật Nghi Giới có công năng
đưa người tu vào khuôn mẫu luật hạnh, trừ những điều lỗi lầm tội ác của ba
nghiệp thân, khẩu, ý. Nhiếp Thiện Pháp Giới khuyến tấn hành giả làm tất cả điều
lành. Nhiêu Ích Hữu Tình Giới khiến cho người con Phật được tròn đủ hạnh nguyện
cứu độ chúng sanh. Ðủ ba tụ trên, Thi ba la mật mới được viên mãn. Môn Niệm
Phật là nhân nhiệm mầu để mau thành tựu Giới độ ấy.
72) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Sở dĩ hạnh Nhẫn Nhục khó được thành tựu, vì chúng sanh còn có
tướng Nhị Ngã. Nhị Ngã tướng là Nhơn Ngã tướng và Pháp Ngã tướng, tức mối chấp
có Ta và Pháp. Nếu chuyên niệm Phật, nghiệp chướng mau tiêu trừ, lần lần hành
giả sẽ được tâm không, thấy Ta, Người và Pháp đều như huyễn, chẳng thật có. Khi
ấy đâu còn chấp có người cùng pháp là nguyên nhân gây nên sự bức não, và ta là
kẻ hay nhẫn, bởi hành giả đã thoát khởi ranh giới của Ngã, Pháp; chân tâm dung
hợp khắp mọi nơi. Chừng ấy đương nhơn sẽ chứng ngộ vào Vô Sanh Pháp Nhẫn, tròn
đầy Sằn-đề ba la mật.
73) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Khi tu hành mà còn thấy mình có tinh tấn, tức chưa đạt đến mức cứu cánh của tinh tấn, vì còn chấp Ngã và Pháp. Muốn tròn đầy Tỳ-lê-da ba la mật, phải thoát ly quan niệm đó, tuy hằng tinh tấn không gián đoạn mà chẳng thấy mình có tinh tấn. Hai vị đại sĩ đã đạt đến cảnh giới này nên được tôn hiệu là Thường Tinh Tấn và Bất Hưu Tức Bồ tát.
Khi hành giả niệm Phật đến mức tâm trong sạch rỗng rang, không còn nhiễm một
mảy trần, tức đã đặt bước lên con đường huyền vi, vào cảnh giới cứu cánh của
Tinh Tấn độ vậy.
74) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Liên Trì đại sư đã bảo: "Niệm Phật và tham thiền chỉ là một,
không khác nhau!". Tại sao thế? Bởi Thiền Na có nghĩa: Tĩnh Lự.
"Tĩnh" thuộc về Ðịnh, về Chỉ, về Tịch, thể hiện công đức vắng lặng.
"Lự" thuộc về Huệ, về Quán, về Chiếu, thể hiện công đức sáng soi. Khi
hành giả niệm Phật đến mức dứt bặt muôn duyên, tâm yên lặng sáng suốt, thể hiện
công năng tịch chiếu, trong ấy đã bao gồm Thiền Ðịnh rồi. Ðó cũng gọi thật hành
Thiền-na ba la mật, nghĩa là đương nhơn đã tiến bước vào cảnh giới chân thật
của Thiền Ðịnh.
Thuở xưa đã có bà lão cất ngôi tịnh thất cho một nhà sư ở để tham thiền, thường
cung cấp cho bốn sự cúng dường đầy đủ. Sau hai mươi năm, muốn thử xem trình độ
sự tu hành đã đến mức nào, bà lão dặn cô con gái lúc đem cơm nước đến dâng, hãy
thình lình ôm lấy vị sư và hỏi: "Hiện thời tâm của thầy ra sao?". Cô
gái thật hành y như lời mẹ dặn, được nhà sư đáp: "Tâm của tôi lúc này như
cây khô nương gộp đá lạnh trong ba tháng mùa đông, không một chút hơi nóng động
nào cả!". (Khô mộc ỷ hàn nham. Tam đông vô noãn khí). Bà lão nghe cô gái
thuật lại lời ấy liền than: "Uổng công ta khó nhọc trong hai mươi năm, kết
cuộc chỉ cúng dường cho một kẻ phàm phu!". Rồi đốt thất, đuổi nhà sư đi.
Trong bài kệ trên ý Tổ Sư muốn nói: "Lúc tu Tịnh Ðộ đến mức tâm yên lặng
sáng suốt thì dù khi hiện các oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi, ăn cơm, mặc áo,
niệm Phật, tụng kinh; trong ấy đã đầy đủ Thiền Ðịnh độ. Như thế còn hơn hạng
Khô Thiền bám chặt lấy cảnh giới Thiên Không như cây chết khô chẳng có chi là
siêu xuất cả!".
75) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Ấn Quang pháp sư nói: "Với câu niệm Phật, nếu có một phần kính thành thì tiêu một phần tội nghiệp, sanh một phần phước huệ". Ðược mười phần kính thành, sẽ tiêu mười phần tội nghiệp, sanh mười phần phước huệ. Cho nên khi niệm Phật, hành giả sẽ tùy tâm mà được tiêu trừ nghiệp chướng, phát huy trí huệ của công đức Bát-nhã. Hành trì lâu ngày, người ấy sẽ tiến đến mức tâm cảnh rỗng không sáng lặng, và sẽ lần lần đầy đủ Bát-nhã độ. Hiện tượng ấy ví như mây tan hiện ra vầng trăng trong sáng chiếu rạng khắp nơi, cảnh và ánh trăng đều lặng lẽ trong trạng thái dung hàm không còn phân biệt.
76) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Bài kệ trên, hai câu trước ý nghĩa đã rõ ràng, duy hai câu sau, riêng một số độc giả chưa khỏi có điều nghi vấn. Theo Ấn Quang pháp sư, tác dụng nghiệp thức của chúng sanh không thể nghĩ bàn! Có người tuy còn ở Ta Bà, mà một phần thần thức đã hiện thân ngồi nơi hoa sen cõi Tịnh Ðộ. Có người đang còn sống mà nghiệp thức đã hiện thân thọ tội nơi địa ngục dưới Âm Ty. Chuyện Cửu Pháp Hoa và Kinh Dương phu nhơn trong Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục, thân chơi Cực Lạc, thấy trước Dương Kiệt, Từ đạo cô, Tôn Trung đã ngồi nơi hoa sen, là điều chứng minh cho hai câu: "Tuy chưa lìa Nhẫn độ. Ðã ngồi tọa bảo liên" vậy. Nhẫn độ chính là cõi Ta Bà, vì Ta Bà có nghĩa "Kham Nhẫn". Chúng sanh ở cõi này phải có sức nhẫn nại mới chịu đựng nổi với những cảnh chướng ác xung quanh.
77) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Câu hồng danh mà
chúng ta đang hành trì là kết tinh công đức của Phất A Di Ðà đã tu từ vô lượng
vô biên kiếp về trước. Cho nên khi chúng sanh khởi tâm niệm một câu Phật hiệu,
theo nhân quả của lý "các pháp do tâm tạo", trong vô hình tự nhiên có
ánh sáng và hoa sen phát hiện mà mắt phàm thường không thể nhìn thấy. Tuy nhiên
cũng có vài trường hợp do tâm chí thành nên hoa sen hiện rõ, có thể mục kích
được với đôi mắt thường. Bởi thế hành giả mới chứng biết được lý ấy.
Nhắc tới điều này, bút giả bỗng nhớ lại chuyện thầy Thiện Lộc, thân phụ sư cô
Diệu Châu, ở ngôi am sau chùa Vạn Ðức tại Thủ Ðức, đã thuật lại cho các liên
lữu biết. Một đêm nọ vào khoảng tám giờ tối, thầy đang quì chí tâm niệm Phật
theo thời khóa đầu hôm, bỗng thấy từ cạnh bàn Phật ở ngay trước mặt mọc ra một
búp hoa sen đỏ to bằng cái tách. Vừa trì niệm vừa nhìn kỹ từng chi tiết, thầy
thấy cuống hoa uốn lượn cong, búp sen ngửa lên, rồi lần lần theo tiếng Phật
hiệu nở to ra bằng đĩa bàn. Ðộ mười lăm phút sau, đóa hoa ấy biến mất. Ðây là
một trong nhiều chuyện hiện thật mà chư liên hữu ở khắp mọi nơi đã mục kích và
trần thuật lại.
Ðể nói rộng thêm, câu niệm Phật chẳng những có công đức hiện ra tướng hoa sen,
mà còn hiện đủ các tướng thuộc chánh báo, y báo ở Cực Lạc. Trong các truyện
vãng sanh, có vị trước giờ phút thọ chung, đại chúng bỗng thây mặt đất xung
quanh bỗng hóa thành ra vàng ròng. Có vị đang nằm bịnh, tràng phan, lầu các
hiện trong tảng băng để gần bên giường. Có vị đang niệm Phật, thân tướng trang nghiêm
của đức A Di Ðà hoặc chư Bồ tát hiện giữa hư không, bay trên ngọn đèn lưu ly.
Có vị trong khi trì niệm, chợt nghe mùi hương lạ bay thơm cùng khắp. Công đức
trang nghiêm thanh tịnh của câu niệm Phật tùy tâm hiển hiện, đại khái là như
thế.
78) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Như trên đã nói: Do công đức của câu Phật hiệu, theo lý duy tâm
tạo, tự nhiên có hoa sen, ánh sáng hoặc các tướng đẹp lạ khác phát hiện. Nhưng
các điều ấy tiếc thay, phần đông phàm phu không tin hiểu và công nhận. Sở dĩ
như thế là vì sự thấy biết của họ còn thuộc hạn trong tâm lượng cạn hẹp của
phàm tình. Âu đó cũng là lẽ tất nhiên.
79) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Trong các kinh luận về Tịnh Ðộ, nhiều nơi Phật và chư Tổ đã nói công đức niệm Phật hay trừ tội chướng, sanh phước huệ, hiện ra hoa sen, ánh sáng. Từ xưa đến nay các hành giả tu Tịnh nghiệp, lúc thức tỉnh hay trong giấc mơ, đã thấy hiển hiện điều này, và cũng đã thuật lại rất nhiều. Ðó là lý chiêu cảm của nhân lành quả lành, kẻ chưa tin phải theo lời giải thích và điều minh chứng mà phát lòng tin. Nếu còn quyết định không tin nhận, thì thật đáng thương kẻ ấy quá nông cạn, nhiều nghiệp chướng, kém phước duyên, cam chịu khổ mãi trong vòng luân hồi sáu nẻo.
80) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Tiếp theo ý trên, dù
cho những kẻ chưa hiểu biết, hoặc đã nghe giải thích và chứng minh rõ ràng về
công đức niệm Phật mà còn cố chấp không tin nhận thì câu Phật hiệu cũng đã ghi
vào ruộng Tàng thức của kẻ ấy rồi! Khi hạt giống câu hồng danh đã nhiễm vào Hàm
Tàng thức, ngày kia trong một hoàn cảnh nào đó nó sẽ phát hiện. Và nhân đó
đương nhơn sẽ được độ thoát, bất quá phải chịu khổ luân chuyển trong thời kiếp
lâu xa mà thôi. Về điểm này, một bậc tôn đức đã bảo:
"Khen, chê cũng nhờ độ thoát.
Tin, nghi đều đến Liên bang"
(Tán, báng câu mông giải thoát.
Nghi, tín cộng nhập Liên bang).
Thuở Phật còn tại thế, có ông lão đúng trăm tuổi mới
đến chư Tăng xin xuất gia. Các hàng Trưởng Lão từ ngài Ca Diếp, Xá Lợi Phất,
đến chư Ðại Ðức khác đều không thâu nhận, vì các vị nhận định xét thấy ông
không có căn lành. Khi đức Thế Tôn đi khất thực trở về thấy ông lão khóc, Ngài
quán biết liền chấp thuận cho xuất gia. Chư tỳ kheo hỏi duyên cớ, Phật đáp:
"Ðạo nhãn bậc A-la-hán của các ông chỉ thấy biết sự việc trong vòng tám
muôn bốn ngàn kiếp về trước và về sau mà thôi. Nhưng trước khoảng thời gian đó
lâu xa, ông lão này là kẻ tiều phu đi đốn củi, bị cọp rượt, sợ hãi leo lên cây
phát thanh niệm một câu "Nam mô Phật". Do chủng tử nhân lành đó, ngày
nay ông mới gặp ta hóa độ và sẽ được giải thoát". Ông lão là Phước Tăng tỳ
kheo, Phật giao cho ngài Mục Kiền Liên thâu làm đệ tử, không bao lâu chứng được
quả A-la-hán.
Tóm lại, ảnh hưởng của câu Phật hiệu rất nhiệm mầu sâu rộng, chẳng những kẻ
nghe danh hiệu Phật sanh lòng vui mừng, tin nhận, khen ngợi và thật hành đều
được giải thoát, mà người nghi ngờ kinh báng nhái giọng niệm theo để chê bai,
khi thọ ác báo rồi cũng nhờ chủng tử công đức ấy gây nhân duyên đắc độ về sau.
Cho nên bài kệ:
"Thà ở cõi Ðịa Ngục.
Ðược nghe hồng danh Phật.
Không mong sanh Thiên giới.
Chẳng biết hiệu Như Lai"
như trong kinh nói rất là xác đáng.
81) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Trong kinh Pháp Hoa,
đức Thế Tôn đã từng khuyên các học nhơn: "Nếu muốn kham sống trong cõi đời
ngũ trược để độ mình cùng độ sanh, thì phải mặc áo giáp Nhẫn Nhục, vào nhà Ðại
Bi, và ngồi tòa Pháp Không".
Tại sao thế? Bởi nơi cõi Ta Bà những nghiệp tham, sân, si, khinh mạn, nghi ngờ
cùng ác kiến của chúng sanh tất mạnh mẽ lẫy lừng. Các phiền nghiệp ấy ví như
những mũi tên lửa, dễ làm tổn não người, nếu không mặc áo giáp Nhẫn Nhục nhu
hoà, tất khó thể chịu đựng nổi. Song như thế cũng chưa đủ, vì nếu nhẫn nhục mà
không có lòng đại bi thương xót tha thứ sự mê lầm tội lỗi của chúng sanh, thì
chẳng thể hoằng pháp độ người. Cho nên hành giả phải nối gót Như Lai vào nhà
đại Từ Bi của Phật. Tuy nhiên, như thế vẫn chưa được trọn vẹn. Bởi dù có tâm Từ
Bi, Nhẫn Nhục, nhưng nếu chưa thấu suốt tất cả pháp đều không, mà vào nơi Vô Sở
Trụ như kinh Kim Cang đã chỉ dạy, tức nhiên tướng Nhơn Ngã chấp và Pháp Ngã
chấp hãy còn. Ðã còn tác tướng ấy thì dù có nhẫn nhục cũng chưa dứt hết gốc
giận hờn, dù có niệm từ bi cũng chưa tuyệt lòng ái luyến. Cho nên hành giả lại
phải cần an trụ nơi tòa Nhứt Thiết Pháp Không. Ðạo lý này rất uyên thâm, như
diễn rộng ra sáu trăm quyển Ðại Bát Nhã cũng nói chưa cùng tận. Song nếu tóm
tắt lại, có thể gồm trong một lời kệ của kinh Hoa Nhgiêm: "Vô trước, vô y
trí huệ lực", nghĩa là sức trí huệ không nương tựa dính mắc vào đâu.
Ðại ý bài kệ trên, ngài Triệt Ngộ muốn nói: "Chư Như Lai từ trong nhân
hạnh cho đến khi đắc quả, vì bi nguyện độ sanh nên đã mặc áo giáp nhu hòa nhẫn
nhục, vào nhà đại Từ Bi, ngồi tòa Nhứt Thiết Pháp Không mà tu học cùng nói ra
pháp môn niệm Phật này". Các hành giả muốn độ mình một cách chắc chắn và
rộng độ chúng sanh, cần phải siêng năng noi theo gương ấy.
82) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Tám chữ trên đây, là
"Ðại từ đại bi A Di Ðà Phật". Trong Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục có thuật
chuyện một hành giả niệm Phật, khi lâm chung thấy tám chữ ấy hiện ra giữa hư
không to lớn, sắc như vàng ròng. Tám chữ ấy hàm ý tiêu biểu cho bốn mươi tám bi
nguyện độ sanh rộng lớn của đức A Di Ðà Thế Tôn. Song về sự trì niệm thì yếu
ước lại chỉ có sáu chữ "Nam mô A Di Ðà Phật". Sao gọi là tám chữ, hay
sáu chữ mở kho báu vô tận?
Theo Hiển Giáo, sáu chữ ấy tiêu biểu cho sự nương về kho vô lượng thọ mạng, vô
lượng quang minh, vô lượng công đức.
Theo Mật giáo, về quyển Thánh Tài Tập, sáu chữ đó là chủng tử của năm đức Phật.
Hai chữ Nam Mô có nghĩa là quy mạng. Mạng là Thọ Thường Trú, tức chỉ cho đức Tỳ
Lô Giá Na Như lai. Còn bốn chữ kia, theo thứ tự là chủng tử của năm đức Phật.
Hai chữ Nam Mô có nghĩa là quy mạng. Mạng là Thọ thường trú, tức chỉ cho đức Tỳ
Lô Giá Na Như Lai. Còn bốn chữ kia, theo thứ tự là chủng tử của bốn đức Phật: A
Súc Bệ, Bảo Sanh, A Di Ðà, và Bất Không Thành Tựu. Cho nên sáu chữ hồng danh là
kho bí mật, gồm thâu tất cả chánh báo, y báo khắp mười phương.
Theo Tâm giáo, sáu chữ này là kho chân tâm, gồm nhiếp tất cả nhân quả, tánh
tướng, phước huệ, sự lý. Vì thế nên gọi: "Một câu A Di Ðà là kho báu vô
tận".
Về điểm dùng tám chữ hay yếu ước lại sáu chữ, để mở kho báu vô tận, cổ nhơn đã
có câu:
"Lục tự đả
khai vô tận tạng.
Thâu lai phóng khứ
chỉ như nhiên".
Hai câu này có ý
nghĩa:
Niệm sáu chữ hồng danh có thể mở toang kho báu vô tận như trên đã nói. Và khi đã thể nhập vào kho chân tâm, thì niệm tức là vô niệm, vô niệm tức là niệm, buông ra thâu vào đều ở trong trạng thái như như.
Chư Phật Thế Tôn, chư Bồ Tát, chư Tổ, vì lòng bi nguyện, đã đem tám chữ hay sáu
chữ nầy mà phổ thí cúng dường khắp tất cả loài hữu tình, để cho chúng sanh mở
được cửa và thọ dụng kho báu vô tận ấy.
83) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Ý nghĩa bài kệ trên
rất hàm súc, muốn hiểu thấu đáo, chỉ nên dùng hạnh thể nhập hơn là theo phần lý
giải. Tuy nhiên, để tùy thuận sở cầu cho người mới học đạo, xin tạm giải thích
như sau:
Lúc hành giả chuyên tâm niệm Phật thì nghiệp tham, sân, si cùng tất cả phiền
não đều dừng lặng. Khi công phu lâu năm trì niệm chuyên thành như thế đến mức
cùng tận, ngày kia đương nhơn chợt thấy tâm niệm rỗng rang như chiếc thùng lọt
đáy, ngộ được tánh bản lai của mình. Chừng ấy toàn câu niệm Phật, toàn thể đức
A Di Ðà cùng chánh báo, y báo thế giới Cực Lạc của Ngài chính là toàn thể chân
tâm diệu cảnh. Và các pháp không ngoài tâm đã ngộ được nhứt chân tâm, tất rõ
được tất cả trăm ngàn muôn pháp.
84) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Trong kinh có lời
dạy: "Chí thành xưng một câu A Di Ðà, diệt được tội nặng trong tám mươi ức
kiếp sống chết, xung quanh hành nhơn mỗi bề ánh sáng phát ra rộng đến bốn mươi
dặm”.
Chí tâm xưng một câu hồng danh, ảnh hưởng còn được như thế huống chi chuyên
thành niệm Phật nhiều năm thì định nghiệp nào mà không dứt trừ? Công năng diệt
nghiệp của sự Trì Danh ví như vầng nhật chói rạng phá tan mau màn sương thưa,
như lò lửa to dễ làm tiêu mảnh tuyết. Tổ sư đã mượn hai thí dụ trên để nêu rõ
công đức niệm Phật, và khuyến tấn hành giả gắng sức tu trì.
85) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Các sự khổ đều do
sức nghiệp làm chủ động, niệm Phật đã có công năng diệt nghiệp, tất nỗi khổ
cũng lần lần tiêu trừ. Nhưng "một câu Di Ðà làm cho khổ báo trở thành
không", hàm ý nói về phần tánh nhiều hơn phần tướng. Bởi tất cả sự khổ từ
lớn đến nhỏ, đều do tâm ta bị căn thân bên trong và thế giới bên ngoài chi
phối. Nếu hành nhơn ngộ lý các pháp đều như huyễn, biết an trụ nơi tự tánh Di
Ðà mà niệm Phật thì tâm trở nên vắng lặng, thoát khỏi sự chi phối của thân và
cảnh. Như thế dù thời tiết nóng lạnh, cảnh ngộ an nguy, sự đói khát cùng mỏi
mệt yếu đau cũng không làm cho đương nhơn cảm thấy khổ? Tại sao? Vì hành nhơn
đã an trụ nơi định tâm, thoát ly cả hai sự chi phối trong và ngoài ấy.
Khi xưa, một thiền sư tu ở sơn tự bị chứng thương hàn, do thiếu thuốc thang
điều dưỡng nên bịnh càng trở nặng sắp lâm nguy. Một vài đệ tử thấy thế, xin
phép đi xuống núi để rước y sư và tìm thuốc đem lên. Thiền sư ngăn lại bảo:
"Căn bịnh đã nhập lý, chỉ nên dùng đạo pháp để điều trị, chớ không thể
dùng thuốc cứu chữa kịp thời được!". Thế rồi ông xả hết muôn duyên, ngồi
trụ tâm vào tịnh cảnh không ăn uống luôn trong bảy ngày. Ðến khi xuất định,
bịnh chứng tiêu tan, sức khoẻ lần lần bình phục.
Lại một vị Tăng tu
Tịnh Ðộ, lúc sắp vãng sanh, túc nghiệp phát hiện làm cho cả thân mình đều phù
thũng, còn thêm nhiều chứng bịnh khác. Ông nói với hàng đệ tử: "Nếu thầy
không nhờ mấy mươi năm công phu niệm Phật, tất không thể chịu nổi sự mỏi mệt
nhức đau". Cho nên một bậc tôn túc đã nói câu:
"Lão tăng có pháp an nhàn.
Dù cho tám khổ cháy lan ngại gì!"
(Lão tăng tự hữu an nhàn pháp.
Bát khổ giao tiên tổng bất phòng)
Về ý nghĩa hai câu sau của bài kệ, có thể dẫn giải
tóm tắt: thế giới, căn thân đều như huyễn. Nếu tâm chúng sanh còn đầy nghiệp
chướng phiền não, dù sống nơi cảnh mầu đẹp ở thiên đường cũng cảm thấy buồn
khổ. Với bậc hành giả đã đắc định thì riêng có một thiên đường, tuy ở cảnh ác
trược, cũng thấy mầu nhiệm an vui. Kinh Duy Ma bảo: "Tùy nơi tâm thanh
tịnh, tức cõi Phật thanh tịnh". Kinh Viên Giác nói: "Ðịa ngục, thiên
cung đều là Tịnh Ðộ". Ý nghĩa của hai câu kinh ấy, đều chỉ cho cảnh giới
trên.
86) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Ba chướng chỉ cho:
Hoặc, Nghiệp, Khổ. "Hoặc" thuộc về phiền não chướng. "Nghiệp"
thuộc về nghiệp chướng. "Khổ" thuộc về báo chướng. Ba chướng này như
chùm trái Ác-xoa, có liên quan tương thông lẫn nhau, một tức là ba, ba tức là
một.
Ðại ý của bài kệ sau này cũng tương tự như bài kệ trước, nếu suy ra sẽ tự hiểu.
Như các lượn sóng ở đại dương là biến tướng của nước, cho nên toàn thể sóng là
nước. Cũng như thế, vọng giác từ nơi chánh giác mà thiên lưu, cho nên đi sâu
vào, toàn thể vô minh vọng giác tức là chánh giác viên minh. Hành giả nếu đi
sâu vào Niệm Phật tam muội sẽ ngộ được Hoặc, Nghiệp, Khổ chính là Bí Mật tạng
vậy.
87) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Bài kệ trên đều là
những lời nói trắng rõ ràng, không có ẩn ý sâu kín nào khác. Công đức niệm Phật
có thể tiêu trừ nghiệp chướng, tai nạn, tà ma, giải những oan trái đời này cùng
đời trước. Công đức ấy cũng khiến cho sanh phước đức trí huệ, độ thoát chính
mình cho đến kẻ oan người thân. Các điểm vừa nói đã thể hiện rất nhiều đối với
những hành giả niệm Phật từ xưa đến nay. Trong Mấy Ðiệu Sen Thanh đã có nhiều
sự tích trần thuật, độc giả duyệt kỹ sẽ tự thấy, khỏi phiền dẫn chứng thêm
nhiều.
Hành giả tu môn niệm Phật đều thọ hưởng được sự lợi ích an vui của pháp này,
nên gọi là pháp hỷ. Bởi thế, chẳng những riêng nơi cõi Ta Bà, mà ở khắp hằng hà
sa quốc độ trong mười phương, vô số chúng sanh cũng tu môn Niệm Phật và đều
cùng hướng về ánh sáng từ bi của đức Giáo chủ Tây phương Cực Lạc thế giới.
88) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Người học đạo có bốn trọng ân là: 1. Ân chư Phật, chư Bồ Tát. 2.
Ân thầy lành bạn tốt và các thiện tri thức. 3. Ân cha mẹ cùng thân quyến phù
trợ. 4. Ân đàn na tín cúng và tất cả chúng sanh. Chúng ta nếu có đền trả bốn ân
thì cũng chỉ một phần nào thôi, chớ thật sự chưa làm tròn, đại khái có thể gọi
là chưa báo đáp. Muốn mau tròn bổn phận đền trả tứ ân, phải tu môn Niệm Phật để
sớm thành đạo quả, tế độ khắp kẻ oán thân cùng tất cả loài hàm thức.
Lại nữa, chúng ta sống trong lưới nghiệp dây dưa, nợ này chưa xong đã vay mối
khác, nhứt là các nghiệp oan cừu, ân ái. Lưới nghiệp ấy vây quần kéo dài mãi
không dứt, nên gọi là “triền miên võng”. Chư Bồ Tát đã do tu pháp Niệm Phật, mà
cắt được lưới triền miên võng của nghiệp lực, chứng vào vô lượng giải thoát
môn. chẳng hạn như: Không Huệ Tam Muội Giải thoát Môn, thần Thông Du Hý Tam
Muội Giải Thoát Môn, Giải Nhứt Thiết Chúng Sanh Ngữ Ngôn Tam Muội Giải Thoát
Môn, Sư Tử Phấn Tấn Tam Muội Giải Thoát Môn v.v... Tổ Triệt Ngộ khuyên chúng ta
nên đi theo con đường ấy.
89) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Trong Tam Bảo Cảm Ứng Yếu Lược Lục có ghi một sự tích công đức
Niệm Phật. Xin mượn nêu ra để giải thích bài kệ trên với tánh cách chứng thật.
Một vị Bà-la-môn ở nước A Du Sa xứ Thiên Trúc có cô vợ rất đẹp. Vì tình si mê
ái nhiễm sâu nặng, ông ta gần gũi mãi cũng không thấy chán đủ. Người vợ lại là
một tín đồ Phật giáo; muốn nhân cơ hội đó hóa độ chồng, mới đặt điều kiện:
"Nếu khi sắp gần gũi, phải gõ chiếc trống đồng, cả hai cùng niệm hồng danh
A Di Ðà một lúc lâu cô mới chấp thuận". Ông chồng bất đắc dĩ phải tuân
theo.
Ba năm sau, vị Bà-la-môn bị bạo bịnh tắt hơi, chỉ nơi ngực mãi còn nóng ấm, nên
người nhà chưa dám thiêu hóa. Trải qua năm ngày, ông chợt sống lại, gọi vợ khóc
bảo rằng: "Tôi chết do nghiệp nặng bị đọa vào địa ngục Phất Thang. Khi quỉ
tốt dùng đinh ba vích tội nhơn vào vạc dầu sôi, chĩa sắt đụng thành vạc đánh
keng một tiếng. Lúc ấy tôi đang kinh hồn lạc phách, chợt nhớ tới việc bà bảo gõ
trống đồng niệm Phật, nên bất giác lớn tiếng niệm Nam Mô A Di Ðà Phật. Lạ thay,
ngay lúc ấy vạc dầu sôi liền biến thành ao sen nước trong mát, các tội nhơn đều
hiện tướng tốt ngồi trên đài sen, rồi cùng bay về Tịnh Ðộ. Diêm Vương nghe báo
sanh lòng hoan hỷ, thả cho tôi trở về!".
Truyện ký trên, chứng minh công năng niệm Phật có thể làm tiêu tan trống không
cảnh Ðịa Ngục. Lẽ dĩ nhiên, đối với các ác đạo khác như Ngạ-quỉ, Súc-sanh,
Tu-la cũng lại như thế. Câu Nam Mô A Di Ðà Phật là kết tinh phước huệ của vô
lượng công đức lành khi Phật còn tu Bồ Tát đạo nên mới gọi Vạn Ðức Hồng Danh.
Bởi thế, hồng danh này có công năng rộng lớn kỳ diệu chẳng thể nghĩ bàn! Trong
kinh gọi đó là vô tác thần lực, nghĩa là sức thần thông đương nhiên, không phải
do Phật tác ý khởi niệm xui khiến nên. Ðại khái, bài kệ trên tán dương và nêu
rõ công đức của câu hồng danh khiến cho hành giả tăng thêm phần tín, hạnh,
nguyện.
90) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
"Tam bối" trong bài kệ là chỉ cho ba hạng người: thượng căn,
trung căn, hạ căn. "Cửu liên" tức chín phẩm sen, cũng phân ra ba cấp
thượng trung hạ, mỗi cấp lại có ba bậc thượng trung hạ nữa, nên thành ra chín.
Ðó là các phẩm: Thượng thượng, Thượng trung, Thượng hạ; Trung thượng, Trung
trung, Trung hạ; Hạ thượng, Hạ trung, Hạ hạ.
Ấn Quang đại sư nói: "Phật pháp tùy cơ, có khó dễ thấp cao. Ðối với pháp
cao khó thì bậc hạ căn không kham tu. Với pháp thấp dễ bậc thượng căn lại chẳng
cần tu. Riêng môn Tịnh Ðộ có đặc điểm rất mực nhiệm mầu, vừa cao siêu vừa thuận
dễ thích ứng cả ba căn, hạng nào cũng thấy cần thiết và có thể tu tập được. Nói
về phần cao siêu thì nơi hội Hoa Nghiêm, mười phương hải hội Bồ Tát trong năm
mươi mốt vị: Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hướng, Thập Ðịa và Ðẳng Giác,
đều theo lời khuyên của Phổ Hiền đại sĩ tu tập môn này. Bàn đến chỗ thuận dễ
thì những chúng sanh nhiều tội chướng, cho đến tạo nghiệp Ngũ Nghịch, Thập Ác
cũng có thể niệm Phật sanh về cực lạc. Cho nên kẻ chê pháp Tịnh Ðộ là thấp kém
tức chưa hiểu chi về môn này và cũng phạm lỗi khinh báng các bậc Bồ Tát như Văn
Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ đó!"
Ðiều dẫn giải trên cho ta thấy, pháp môn Tịnh Ðộ thích hợp với tất cả căn tánh
thượng trung hạ của hàng nhơn thiên. Ba căn tánh ấy tuy có cao thấp so le, song
nếu tu môn niệm Phật, tất sẽ tùy theo công hạnh, đều được nêu danh nơi chín
phẩm sen sáng đẹp rạng ngời ở cõi Tây phương Cực Lạc.
91) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Tiểu thánh tức là
các quả Thanh Văn, Duyên Giác gồm: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán,
Bích Chi Phật. Hàng tiểu thừa lấy cảnh Sanh Không Niết-bàn làm quả vị cứu cánh,
chỉ cầu mong cho mau thoát ly nỗi khổ sống chết luân hồi trong ba cõi. Các vị
này không phát thệ nguyện rộng lớn, trên cầu Phật quả vô thượng dưới độ tất cả
chúng sanh, như những bậc Bồ Tát, cho nên đức Thế Tôn chê là tâm nhỏ hẹp.
Môn Niệm Phật là pháp Ðại thừa, nên có thể chuyển tâm nhỏ hẹp của hàng Tiểu
thừa, đưa các quả vị Thanh Văn, Duyên Giác hướng về Vô Thượng của Phật đạo.
92) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Môn niệm Phật đi sâu vào bốn pháp giới, cùng tột là Sự Sự Vô Ngại
pháp giới. Cổ đức cũng nói: "Niệm Phật có thể khiến cho hành nhơn vào cảnh
giới Vô Ngại Giải Thoát".
Trên đây, Triệt Ngộ đại sư muốn nói: "Niệm Phật không phải pháp thấp kém
tầm thường mà chính là cảnh giới của các bậc Bồ Tát đại nhơn như Văn Thù, Phổ
Hiền vậy".
93) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Trên đã nói Niệm
Phật tam muội là cảnh giới của bậc đại Bồ Tát, nơi đây Tổ Triệt Ngộ lại nhắn rõ
thêm: Niệm Phật tam muội tuy chư đại Bồ Tát cũng thâm nhập, nhưng thật ra chưa
được cùng tận. Duy có Phật với Phật mới rõ biết được hết, vì đó là Phật tam
muội, là cảnh giới của chư phật.
Ðiều này càng khẳng định rõ ràng hơn tánh cách cao thâm của pháp môn Tịnh Ðộ.
94) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Môn Niệm Phật vì là
pháp môn tối thượng thừa cao siêu, nên chư Tổ đều phụng hành, bằng cách hoặc
viết luận khen ngợi khuyên tu, hoặc niệm Phật cầu về Cực Lạc. Chẳng hạn như hai
vị Bồ Tát Mã Minh, Thế Thân đã viết Ðại Thừa Khởi Tín Luận và Vãng Sanh Luận để
xưng tán, chỉ đường Tịnh Ðộ. Và Long Thọ Bồ Tát chứng Sơ Hoan Hỷ Ðịa đã niệm
Phật vãng sanh về An Dưỡng. Các vị Bồ Tát trên đều là chư tổ bên Thiền tông.
Nơi đây Triệt Ngộ đại sư lại nêu ra một chứng liệu để minh xác điểm cao siêu
của pháp môn Niệm Phật. Ðiều này, Ðại Sư muốn cảnh tỉnh phá tan sự nhận thức
sai lầm của một số người từ trước đến nay nghĩ rằng: "Môn Tịnh Ðộ là pháp
thấp kém, chỉ dành cho hạng ông già bà cả quê dốt tu hành".
95) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Pháp môn Tịnh Ðộ sở
sĩ càng lúc càng được thạnh hành, bởi có nhiều lý do:
Về phần nhân duyên: Ðiều thứ nhứt đức A Di Ðà có pháp duyên rất lớn với chúng
sanh ở Ta Bà, bằng chứng là các chùa đều có thời khóa Tịnh Ðộ, và hàng Phật tử
khi gặp nhau thường chào với câu "A Di Ðà Phật". Ðiều thứ hai, đức Di
Ðà Thế Tôn có bốn mươi tám bi nguyện độ sanh rộng lớn, rất thích ứng với cảnh
ngộ cần cứu cấp nơi cõi ngũ trược này.
Về phần thời tiết, như lời Phật đã huyền
ký. Bắt đầu từ thời mạt pháp trở về sau, muốn chắc chắn được giải thoát,
chỉ có pháp môn Niệm Phật.
Bởi những nguyên nhân ấy, nên chư thiện tri thức xưa nay đã sáng lập ra Liên Xã
khắp nơi để hướng dẫn người tu hành. Và các hành giả niệm Phật cũng cảm được
nhiều điềm thoại ứng như: thấy sen lành, nghe hương lạ.
96) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Long, tượng là rồng và voi. Hai loại này là hạng cao quí trong
loài thú. Ðại long, tượng tức rồng cùng voi lớn, lại còn cao quí hơn. Người xưa
đã đem biểu tướng rồng, voi mà thí dụ cho những bậc cao siêu kiệt xuất trong
hàng Tăng Ni. Vì thế mới có danh từ “Pháp môn long tượng”, nghĩa là hạng rồng
voi trong cửa chánh pháp.
Môn Niệm Phật chẳng những nhiếp hóa lớp trung, hạ căn, mà còn làm lợi ích luôn
cho cả bậc thượng thượng căn nữa. Như Vĩnh Minh đại sư, một bậc thiền bá trong
Tông môn, ngộ suốt huyền cơ, viết một trăm quyển Tông Cảnh Lục để xương minh
Thiền đạo, nhưng cũng niệm mười muôn câu Phật hiệu mỗi ngày. Và Trí Giả đại sư,
bậc Giáo tông sáng lập ra Thiên Thai giáo, bình thời vẫn niệm Phật, khi lâm
chung khen ngợi kinh Pháp Hoa cùng Vô Lượng thọ, bảo với đại chúng rằng Tây
phương Tam Thánh với các đồng bạn của ngài đã sanh về Tây phương, nay hiện thân
đến tiếp dẫn.
Sự kiện này, người học đạo nên để tâm suy nghĩ.
97) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Thiếu Khang đại sư
niệm một câu hồng danh, trong miệng bay ra một vị hóa Phật. Thiện Ðạo Hòa
thượng niệm mỗi câu Phật hiệu, nơi miệng phóng ra một đạo quang minh. Hai điều
trên chứng minh cho công đức niệm câu hồng danh A Di Ðà thật lớn lao, và sự cảm
ứng cưa Phật hiệu như thế đã đến mức cùng diệu. Và điều trên đây cũng nhắc cho
người học đạo nên thức ngộ, đừng xem môn Niệm Phật là dung thường.
Trong mấy bài kệ liên tiếp, Triệt Ngộ đại sư đã dẫn chứng trên từ chư Phật Thế
Tôn, nói rộng ra là các đức Như Lai ở sáu phương như kinh A Di Ðà đã thuyết
minh, đều khen ngợi khuyên tu Tịnh Ðộ, và chỉ riêng các ngài mới biết cùng tận
pháp này. Kế đến chư đại Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, các bậc đại Tổ Sư như Mã
Minh, Long Thọ; những vị đại long tượng về bên Tông như ngài Vĩnh Minh, về bên
Giáo như ngài Trí Giả và sau cùng chính chư Tổ bên Tịnh Ðộ như Thiện Ðạo, Thiếu
Khang. Những vị trên tuy cũng suốt thông các pháp môn khác, song vẫn quy hướng
về Tịnh Ðộ. Tại sao Tổ Triệt Ngộ lại nhiều phen dẫn chứng như thế? Trong đây có
hai nguyên nhân rất quan trọng.
Ðiều thứ nhứt: Các vị học thức xưa nay (bút giả dùng danh từ “học thức” chớ
không nói trí thức, vì học thức là một việc, trí thức lại là việc khác) khi mới
tìm đạo, đều ưa thích những lý luận cao siêu huyền diệu. Sự ưa thích đó không
phải là điều lỗi. Nhưng phần nhiều họ lầm lạc chấp theo Thiên Không, chưa dung
hội được giữa Không và Có, bài bác nhân quả sự tướng, nên hầu như thành một căn
bịnh trong khi học đạo. Ðối với môn Tịnh Ðộ, họ chưa thấu đáo được sự cao diệu
của pháp này nên khi thấy những kẻ tối dốt, hạng bình dân cũng tu hành được,
lại xem thường cho là pháp thấp kém. Chư đại thiện tri thức thấy sự lầm lạc tà
kiến đó mới thẳng thắn bác phá, chỉ bày. Vì thế Tổ Triệt Ngộ đã dẫn những chứng
minh trên để cảnh giác, ngụ ý bảo: "Nếu Tịnh Ðộ là thấp kém, tại sao từ
chư Phật, Bồ Tát, cho đến chư Tổ, các bậc đại long tượng bên Tông lẫn bên Giáo
đều ngợi khen khuyến khích, hoặc thân thiết phụng hành?"
Ðiều thứ hai: Các vị thông minh kiến thức trên, khi luận đạo thường nói
những lý luận siêu huyền, để tỏ ra mình là những người hiểu rộng tu cao. Nhưng
họ lại không tự xét rằng: Về phần thật hành, mình có làm được một phần nào đối
với những lời nói đó chăng? Nhứt là buổi đi sâu vào thời mạt pháp này, người tu
căn cơ non kém, nghiệp chướng nặng nề, dùng những hình thức dễ làm như niệm
Phật tụng kinh, mà kẻ hành đạo tại gia lẫn xuất gia còn vọng niệm rối ren, nay
chầy mai trễ, huống chi là sự nhiếp tâm nơi định trong tất cả thời, tất cả hành
động nói năng? Bút giả từng nghe một vài vị tu học về Thiền khi luận đến sự
hành trì, thường dẫn lời của những chư Tổ hoặc các bậc tôn túc thời xưa mà
trạng huống cho lối tu của mình và còn ra vẻ đắc ý. Chẳng hạn như câu:
"Viên bão tử quy thanh chướng lý.
Ðiểu hàm hoa lạc bích nham thiền!"
(Vượn ôm con chuyền
về rặng núi xanh.
Chim ngậm hoa sa
trước gộp đá biếc).
Hoặc như:
"Nhập lâm bất động thảo.
Nhập thủy bất đạp ba".
(Vào rừng mà không
làm động đến ngọn cỏ.
Xuống nước nhưng
chẳng đạp sóng nước).
Các vị đó không xét lại hai câu trước là tâm cảnh của ngài Giáp Sơn, chớ chẳng phải cảnh giới của mình. Thỉnh thoảng có việc chi xúc động thì các vị liền tỏ vẻ phiền hà, tức giận. Thế là cỏ cây đã động, chân đã đạp sóng nước rồi đấy! Trước tệ trạng lạc lầm lạc rộng đó, chư thiện tri thức vì xót thương, vì muốn cứu vãn đạo pháp nên mới thẳng lời phê trích, cho hành động ấy là Cuồng Thiền. Và các ngài còn nói đến hạng Cuồng Mật nữa mà nếu có dịp, sau này bút giả sẽ dẫn giải.
Ðể kết luận, cần nhấn rõ thêm là những điều nói trên tuyệt không có ý bài bác
Thiền, Mật. Thiền và Mật là hai pháp môn cao siêu, và thật ra Thiền, Mật, Tịnh
cả ba đều có đặc điểm riêng, cần tu học để hỗ trợ cho nhau. Chẳng hạn như khi
trì chú theo của chân ngôn, Phật hiệu huân sâu vào tạng thức, kích động cho phiền
não nổi dậy, phương pháp làm lắng động hữu hiệu nhứt không chi hơn Thiền. Trong
lúc tham thiền hoặc niệm Phật, ma chướng trong ngoài khuấy rối, cách hàng phục
kiến hiệu mau lẹ nhứt, không chi hơn Mật. Và muốn giải quyết việc lớn là sống
chết luân hồi một cách thẳng tắt chắc chắn nhứt, lại không chi hơn Tịnh. Luận
cho cùng mỗi môn tự hàm đủ công năng của ba, song đó là ứng dụng của bậc trình
độ cao siêu. Còn với bậc sơ cơ non kém, thật ra vẫn có sự sai biệt. Ví như bậc
Tổ Sư về võ, dù sử dụng côn, chùy, kiếm, sự lợi hại vẫn đồng như nhau. Nhưng với
hạng võ nghệ thông thường thì tác dụng của ba môn binh khí kia lại có sai biệt.
Nếu chẳng thế, trong võ lâm cần chi bày ra ba môn ấy cho thêm phiền!
Cho nên trong thời mạt pháp, theo thiển ý nên lấy Tịnh Ðộ làm chánh yếu, Thiền,
Mật làm phụ trợ. Hoặc nếu có tu Thiền hay Mật cũng nên niệm Phật nhiều ít hồi
hướng về cõi Cực Lạc ở Tây phương.
98) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Môn niệm Phật chẳng những làm lợi ích cho các bậc Thượng Thượng căn như trên, lại còn hóa độ đến cả hàng vô loại như Hùng Tuấn, Duy Cung mà trong Mấy Ðiệu Sen Thanh đã trích dẫn.
Bài kệ trên đại ý chỉ rõ: Pháp Tịnh Ðộ gồm thâu lợi độn, giúp ích khắp ba căn.
99) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Triệt
Ngộ đại sư tuy được đời sau tôn làm vị tổ hoằng dương Tịnh Ðộ, nhưng thuở đương
thời ngài chính thật là một thiền bá. Bởi duyên Ðại Sư đã tham thiền chứng ngộ
và viết ra quyển Triệt Ngộ Ngữ Lục để xương minh Thiền đạo. Một bậc đại triệt đại
ngộ về Thiền, mà nói Niệm Phật là môn thiền vô thượng, đó là điều chứng minh
xác đáng rồi, không cần phải bàn luận chi thêm nữa.
Việc lớn một đời của người tu Phật, là phải làm thế nào để giải quyết sự sống
chết luân hồi ngay trong kiếp hiện tại. Bởi nếu còn luân hồi, tất đời sau dễ bị
mê lạc rồi sẽ sa đọa nữa. Khi đã thoát khỏi sự sống chết luân hồi, lại còn phải
hiện thân tu Bồ Tát hạnh trong vô số kiếp, công đức viên mãn, mới thành đạo Vô
Thượng Chánh Giác. Pháp môn Niệm Phật có thể giải thoát luân hồi ngay trong hiện
đời và khi được sanh về Tây Phương thì sự tiến tu để thành Phật không còn bị thối
chuyển, kể như đã nắm chắc trong tầm tay rồi.
100) | Nhứt cú Di Ðà | Một câu A Di Ðà |
Từ
lúc sơ khởi đến đây, Triệt Ngộ đại sư đã viết ra một trăm bài kệ để tuyên dương
Tịnh Ðộ. Song Ðại Sư vẫn tự thấy còn chưa nói ra hết điểm huyền diệu của pháp
môn này vì như chư cổ đức đã nói: "Lý Tịnh Ðộ là bí mật tạng. Sự Tịnh Ðộ
là đại nhân duyên" thì người học Phật dễ gì thấu đáo?
Tuy nhiên, Ðại Sư cũng nguyện cầu Tam Bảo gia bị cho lời mình trên hợp ý Phật,
dưới lợi quần sanh, khiến người đọc được thấu hiểu phần nào để tiến tu trên đường
giải thoát. Và ngài cũng cảm ân Tam Bảo thầm gia bị khiến cho tâm địa linh
thông nên trong thoáng chốc đã viết xong một trăm bài kệ này.
Liên Tông Thập Nhị Tổ
TẾ TỈNH ĐẠI SƯ
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường, người đời Thanh, con nhà họ Mã ở huyện Phong Nhuận.
Thuở bé ngài đã thông thuộc kinh sử. Sau khi xuất gia, lại đi tham học các nơi, rộng suốt cả hai tông: Tánh và Tướng. Chỗ tâm đắc nhất cúa ngài là chỉ thú Thập Thừa Tam Quán của Kinh Pháp Hoa. Kế đó, ngài lại tham phỏng với Tụy Như Thuần thiền sư ở Quảng Thông, tỏ ngộ thấu suốt, được truyền tâm ấn. Sau Thuần công về an dưỡng ở chùa Vạn Thọ, Đại sư kế nhiệm tại Quảng Thông, sách tiến hàng hậu lai, tông phong rất thạnh.
Bình nhật, Đại sư thường bảo: “Ngài Vĩnh Minh nguyên là bậc tông trượng trong thiền môn, mà còn quy tâm về Tịnh Độ. Huống nay là thời mạt pháp, chúng ta cũng phải tuân theo”. Do đó, ngài chuyên tu tịnh nghiệp, chủ trương Liên tông. Mỗi ngày hạn thời giờ dạy chúng hoặc tiếp khách nội một cây hương. Ngoài ra chỉ chuyên lễ sám niệm Phật mà thôi.
Không bao lâu, Đại sư sang trụ trì chùa Giác Sanh. Kế đó lại lui về ngụ chùa Tư Phước ở Hồng Loa Sơn. Tăng chúng các nơi mến đức nương về ngày càng đông, khiến chỗ ấy trở thành đại tòng lâm. Đại sư vì pháp lợi sanh lòng không chán mỏi, tất cả đều dùng Tịnh độ làm chỗ quy thú. Mỗi khi giảng đến ân cứu khổ ban vui của Như Lai, thường lệ rơi theo tiếng. Thính chúng ngồi nghe đều cảm động sa nước mắt. Trong hai quyển Ngữ Lục của ngài, lời khuyến hóa lại càng chí thiết. Đại lược như sau:
-“Đầu mối quan hệ trong vòng sống chết của chúng ta, duy có hai thức: Tâm lực và Nghiệp lực. Tâm lực là tâm niệm có nhiều mối, khi lâm chung đi theo mối nặng nhất. Nghiệp lực ví như người mang nợ, chủ nợ mạnh lôi kéo trước tiên. Nghiệp lực tuy lớn, nhưng tâm lực lại càng lớn hơn. Bởi nghiệp không tự tánh, hoàn toàn nương nơi tâm, nên khi tâm chú trọng thì làm cho nghiệp thêm mạnh. Nếu ta dùng trọng tâm mà tu Tịnh độ, tất tịnh nghiệp mạnh, khi lâm chung quyết định sanh về Tây phương. Ví như cây to tường cao, nghiêng hướng về Tây, ngày kia khi đã đổ tất cũng hướng về Tây vậy.
Thế nào trọng tâm? Chúng ta tu Tịnh độ, lòng tin qúi ở nơi sâu, chí nguyện qúi ở nơi thiết. Do tín nguyện sâu thiết, nên tất cả tà thuyết không thể lay động, tất cả cảnh duyên không thể lay động, tất cả cảnh duyên không thể kéo lôi. Giả sử đang khi ta niệm Phật, bỗng tổ Đạt Ma hiện ra, bảo phải bỏ Tịnh tu Thiền có thể liền giác ngộ, thì cũng từ tạ không dám tuân lời. Hay dù đức Thích Ca hiện thân, bảo có pháp môn khác hơn Tịnh độ, dạy ta phải bỏ niệm Phật để tu môn kia, ta cũng đảnh lễ mà từ khước. Giữ vững như vậy, mới gọi là lòng tin sâu sắc.
Về phần nguyện, ví như có vòng sắt nóng đỏ xoay vần trên đầu, ta cũng không vì sự khổ ấy mà thối thất chí vãng sanh. Lại như có cảnh dục lạc mầu nhiệm nhất của Chuyển luân vương hiện đến, ta cũng không vì sự vui sướng đó mà quên tạm niệm cầu về Cực Lạc. Gặp những cảnh duyên nghịch thuận cùng cực như thế, mà vẫn không đổi lòng, mới gọi là chí nguyện tha thiết.
Lòng tin sâu, chí nguyện thiết ấy, gọi là trọng tâm. Dùng tâm này mà niệm Phật thì tịnh nghiệp mạnh và lần lần thành thục. Khi nghiệp thanh tịnh Cực Lạc thành thục, tất duyên nhiễm Ta bà phải dứt. Như thế, lúc lâm chung dù có muốn cảnh luân hồi hiện ra, cảnh Tịnh độ cùng đức Di Đà chẳng hiện tiền, cũng không thể được. Nhưng tín nguyện sâu thiết ấy lúc bình thời phải rèn luyện cho thành, khi lâm chung mới khỏi lạc vào nẻo khác. Như cổ đức lúc sắp mạng chung, chư Thiên ở sáu cõi trời trổi nhạc cầm tràng phan, kế tiếp đến rước, mà vẫn cố từ, một lòng chờ Phật, đợi khi Phật hiện đến mới chịu đi. Lâm chung là cảnh tứ đại sắp phân tán, chư Thiên đến rước là cảnh tốt đẹp tuyệt vời! Nếu bình thời tâm tín nguyện chưa được mười phần vững chắc, thì khi lâm chung gặp phải cảnh ấy, làm sao tự chủ được!”
Có nhà tu thiền hỏi: “Tất cả các pháp, đều như mộng huyễn. Cõi Ta bà cố nhiên vẫn huyễn, song cảnh Cực Lạc cũng lại là mộng. Như thế, niệm Phật cầu về Cực Lạc nào có ích chi ?
Đại sư đáp: – Không phải thế đâu! Các bậc Bồ Tát từ đệ Thất địa trở về trước, đều tu hành trong huyễn mộng. Đến như bậc Đẳng Giác vẫn còn ở trong mộng lớn vô minh. Duy có Phật mới là bậc Đại Giác, hoàn toàn thức tỉnh. Đang lúc còn trong mộng, thì cảnh vui cùng khổ vẫn uyển nhiên! Như thế, cam chịu cảnh mộng khổ ở Ta bà, sao bằng về hưởng cảnh mộng vui nơi Cực Lạc? Phương chi, mộng ở Ta Bà là từ mộng vào mộng. Mộng ở Cực Lạc là từ mộng ra khỏi mê, lần lướt đến ngôi Đại Giác. Cho nên mộng cảnh tuy vẫn đồng, mà kết qủa ở đôi nơi rất khác xa, vì thế phải niệm Phật cầu về Cực Lạc!
Niên hiệu Gia Khánh thứ mười lăm, vào tháng hai, Đại sư dự biết ngày lâm chung, chẳng còn bao xa, đi từ giã những người ngoại hộ, dặn rằng: “Duyên hư huyễn chẳng bền lâu, giờ sống thừa nên qúi tiếc. Các vị hãy cố gắng niệm Phật, ngày kia sẽ cùng gặp nhau nơi cõi Liên bang!”. Đến ngày mùng hai tháng chạp, Đại sư cảm bịnh nhẹ, đang chí tâm niệm Phật, bỗng thấy có vô số tràng phan từ phương Tây bay đến, liền nhìn môn đồ nói: “Cảnh Tịnh độ đã hiện, ta sắp về Tây phương!. Rồi bảo đại chúng, luân phiên trợ niệm. Sang ngày 17, vào giờ Thân, ngài nói với chúng rằng: “Hôm qua tôi thấy ba vị đại sĩ: Văn Thù, Quán Âm, và Thế Chí. Hiện giờ lại được đức Phật tự thân đến tiếp dẫn. Tôi đi đây!”. Đại chúng nghe nói, niệm Phật càng chí thiết, Đại sư ngồi thẳng, chắp tây hướng về Tây, bảo: “Xưng một cầu hồng danh, thấy một phần tướng hảo”! Dứt lời, liền kiết ấn mà tịch.
Lúc ấy, tất cả chúng đều nghe mùi hương lạ ngào ngạt. Để lộ khám bảy ngày, dung sắc Đại sư tươi như sống, tóc bạc biến thành đen. Lúc trà tỳ, được hơn một trăm hạt xá lợi lóng lánh. Đại sư thọ được bảy mươi, tăng lạp bốn mươi chín.
TRIỆT NGỘ ĐẠI SƯ
(Đại Sư là vị Tổ thứ 12 trong Liên Tông, họ Mã, húy Tế Tỉnh, người đất Phong Nhuận, 22 tuổi xuất gia, thông suốt cả thiền, giáo. Ban sơ, ngài chủ trì chùa Vạn Thọ ở Bắc Kinh, danh đồn khắp Nam, Bắc, hằng đề xướng pháp môn Tịnh Độ khuyên chúng tinh tu. Kế đó Ðại Sư lại trụ trì chùa Giác Sanh, tiếng tăm cũng lừng lẫy như trước. Sau, ngài về ở non Hồng Loa, đại chúng quy hướng càng đông, bèn thành ra đạo tràng Tịnh Độ. Đời nhà Thanh,
niên hiệu Gia Khánh
thứ 15, vào mùa
Xuân, Ðại Sư nói trước ngày về Tây và bảo: “Thân huyễn không bền, đừng để một đời luống qua, mọi người nên cố gắng niệm Phật”. Quả nhiên, tới ngày kỳ hẹn, Ðại Sư thấy Phật đến tiếp dẫn, liền chánh niệm mà tọa hóa. Lúc ấy đại chúng nghe mùi hương thơm lạ ngào ngạt, khi trà tỳ được xá lợi hơn trăm hột).
Đại Sư nói: “ Thật vì sanh tử, phát lòng Bồ Ðề, dùng tín nguyện sâu, trì danh hiệu Phật”, mười sáu chữ này là cương tông của môn
Niệm Phật. Nếu không phát lòng chơn thiết vì việc sanh tử, thì tất cả lời khai
thị đều là phù phiếm. Bởi tất cả sự khổ trong đời này không chi hơn việc sanh tử,
chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay, sống chết, chết sống, ra khỏi bào thai này kế
vào bào thai kia, bỏ lớp da này lại mang lớp da khác, khổ não đã không kham, huống
chi tự mình chưa thoát luân hồi, làm sao tránh khỏi đọa lạc? Ôi! Khi một niệm
sai lầm, liền sa vào ác đạo, tam đồ dễ tới mà khó lui, địa ngục ngày dài mà khổ
nặng! Cho nên đại chúng vẫn đau đớn nghĩ vấn đề sanh tử, như chịu tang cha mẹ,
như cứu lửa đốt đầu, gắng chuyên tinh tu tập. Nhưng ta đã khổ vì sự sống chết
mà cầu thoát ly, nên liên tưởng đến tất cả muôn loài cũng như vậy. Chúng sanh
cùng ta đồng một bản thể, là cha mẹ của ta trong nhiều kiếp, là chư Phật đời vị
lai, nếu chẳng phát tâm cứu độ, chỉ cầu giải thoát riêng mình, thì đối với tình
có chỗ chưa an, với lý có điều sơ sót. Huống chi chẳng phát đại tâm thì ngoài
không thể cảm thông với Phật, trong không thể khế hợp với tánh chơn, trên không
thể tròn quả Bồ Ðề, dưới không thể độ khắp muôn loài. Như thế, làm sao báo bổ
người ân nhiều kiếp, làm sao giải thích oan gia nhiều đời, làm sao thành tựu
căn lành đã gieo trồng tư xưa, làm sao sám trừ tội nghiệp đã tạo ra về trước?
Và như thế thì tu hành chỗ nào cũng gặp chướng duyên, dù có thành tựu cũng là
quả thấp, cho nên phải xưng tánh phát lòng Bồ Ðề vậy.
Những đã phát đại tâm, phải tu đạt hạnh, mà trong tất cả hành môn, tìm
phương pháp dễ dụng công, mau thành tựu, rất yên ổn, rất viên đốn, thì không
chi hơn dùng tín nguyện sâu, trì danh hiệu Phật. Nói chấp trì danh hiệu, tức là
giữ chắc hiệu Phật nơi lòng không tạm quên. Nếu có một niệm gián đoạn hoặc một
niệm xen tạp, thì không gọi là chấp trì. Giữ được một niệm nối nhau không xen
không tạp, đó là chơn tinh tấn, tinh tấn mãi không thôi, sẽ lần vào cảnh nhất
tâm bất loạn và viên thành tịnh nghiệp. Nhất tâm bất loạn là chỗ quy túc của tịnh
nghiệp, là đại môn của Tịnh Độ, chưa vào môn này, tất chưa yên ổn, học giả há
chẳng nên cố gắng ư?
Tâm đã hay tạo nghiệp thì cũng có thể chuyển nghiệp, và nghiệp đã do tâm
tạo, tất cũng tùy theo tâm mà chuyển. Nếu tâm mình không chuyển được nghiệp, tức bị nghiệp trói buộc, nghiệp
không chuyển theo tâm thì có thể buộc tâm. Nhưng dùng tâm thế nào mới chuyển được nghiệp? Ấy là giữ tâm hợp với đạo
đức, hợp với Phật. Và nghiệp làm sao buộc được tâm? Ấy là để tâm y theo đường lối
cũ, buông lung theo cảnh trần.
Tất cả cảnh giới hiện nay, tất cả quả báo về sau, đều do nghiệp cảm, do
tâm hiện. Vì do nghiệp cảm nên quả báo sẽ đến đều nhất định, bởi nghiệp buộc
tâm. Vì do
tâm hiện, nên quả báo sẽ đến đều không nhất định bởi tâm chuyển được nghiệp. Như có người đương lúc nghiệp buộc được
tâm, quả báo sẽ đến theo chiều nhất định, mà bỗng phát tâm rộng, tu hạnh chân
thật, thì tâm chuyển được nghiệp, cảnh sẽ đến tuy định mà thành bất định. Nếu
người ấy nửa chừng bỗng thối lui đại tâm, thật hạnh kém sút, thì nghiệp trở lại
buộc tâm, cảnh sẽ đến bất định mà định.
Nhưng nghiệp tạo ra từ trước, đành đã lỡ rồi, chỉ trông mong có phát đại tâm để biến chuyển, mà nắm giữ cơ quan ấy chính là ta chớ không ai khác. Nếu hôm nay ta phát tâm niệm Phật cầu sanh Cực Lạc để mau chứng quả, độ chúng sanh, giữ niệm hiệu Phật nối nhau không dứt, lâu ngày tâm sẽ hiệp với đạo, thì chuyển được quả báo Ta Bà thành Cực Lạc, đổi nhục thai thành liên thai, không bao lâu, chính mình sẽ là một bậc thượng thiện, tướng tốt trang nghiêm, an vui tự tại nơi cõi liên hoa thất bảo. Như ta tu hành nửa chừng bỗng lần lần biếng trễ thối lui, tất bị nghiệp lực mạnh mẽ từ kiếp trước sai sử, rồi vẫn y nhiên là một kẻ chịu chịu vô lượng sự thống khổ về thân tâm, ngạ qủy súc sanh vậy. Những ai có chí thoát ly, cầu về Tịnh Độ há không nên sợ hãi tỉnh ngộ, phát tâm phấn chấn tu hành ư?
Có tám điều cốt yếu, người tu tịnh nghiệp nên ghi nhớ:
1.
Vì sự sanh tử, phát lòng Bồ Ðề, đây là đường lối chung của người học đạo.
2.
Dùng tín nguyện sâu, trì danh hiệu Phật, đây là chánh tông của môn Tịnh Độ.
3.
Lấy sự nhiếp tâm chuyên chú mà niệm, làm phương tiện dụng công.
4.
Lấy sự chiết phục phiền não hiện hạnh làm việc yếu tu tâm.
5.
Lấy sự giữ chắc bốn trọng giới làm căn bản vào đạo.
6.
Dùng các thứ khổ hạnh làm trợ duyên tu hành.
7.
Lấy nhất tâm bất loạn làm chỗ qui tức của môn Tịnh Độ.
8.
Lấy các điềm lành làm chứng nghiệm cho sự vãng sanh.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt
Ngộ, hiệu Nạp Đường
1) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
2) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
3) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
4) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
5) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
6) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
7) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
8) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
9) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
10) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
11) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
12) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
13) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
14) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
15) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
16) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
17) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
18) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
19) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
20) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
21) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
22) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
23) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
24) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
25) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
26) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
27) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
28) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
29) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
30) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
31) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
32) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
33) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
34) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
35) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
36) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
37) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
38) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
39) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
40) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
41) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
42) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
43) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
44) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
45) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
46) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
47) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
48) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
49) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
50) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
51) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
52) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
53) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
54) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
55) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
56) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
57) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
58) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
59) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
60) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
61) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
62) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
63) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
64) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
65) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
66) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
67) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
68) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
69) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
70) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
71) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
72) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
73) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
74) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
75) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
76) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
77) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
78) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
79) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
80) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
81) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
82) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
83) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
84) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
85) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
86) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
87) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
88) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
89) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
90) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
91) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
92) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
93) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
94) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
95) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
96) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
97) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
98) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
99) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
100) |
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Comments
Post a Comment