HOẰNG NGUYỆN VÀ ĐẠI HẠNH
Thuật theo Kinh : Vô Lượng Thọ
Trong thời kỳ tu nhơn, Đức Từ Phụ ta
vì lòng từ bi quá thiết đối với tất cả chúng sanh, chẳng những
muốn sao cho mọi loài đều khỏi tất cả sự khổ, mà còn nặng trĩu lấy quan
niệm : Để tất cả chúng sanh ở vĩnh viễn trong
sự an vui hoàn toàn và bảo đảm chắc chắn trên con
đường đi đến quả Phật.
Vì quan niệm đại từ này, nên lúc còn là
một vị Bồ Tát, Đức Từ Phụ ta luôn canh cánh bên lòng một tâm
chí bất di dịch : Tạo một thế giới vô cùng trang
nghiêm thanh tịnh thuần vui, để làm gia hương của muôn loài, của tất
cả chúng sanh mười phương.
Tâm trí cao thượng đại từ đại bi ấy đã
làm cho vua Vô Tránh Niệm (tiền thân của Từ Phụ) lập nguyện
nơi Đức Bảo Tạng Như Lai, và cũng đã làm cho Sa
môn Pháp Tạng tha thiết thỉnh cầu Đức Thế Tự Tại
Vương Như Lai hiện hai trăm mười ức thế giới của thập
phương chư Phật cho người được thấy được nghe, rồi người lọc lựa lấy thuần
những sự trang nghiêm thanh tịnh nhứt trong những thế giới ấy,
để hiệp thành một Tịnh Độ của người sau này. Và liền đó trong thời
gian năm kiếp, người đã chuyên cần suy gẫm những công
hạnh phải tu để thực hiện Tịnh Độ ấy.
Việc lọc lựa và suy gẫm này đã kết thành 48
điều hoằng nguyện, mà người đã trịnh trọng tuyên ra, dưới sự chứng
minh của Đức Thế Tự Tại Vương Như Lai.
HOẰNG NGUYỆN
Do 48 điều nguyện này nên Đức Từ Phụ có những thiện
duyên với chúng sanh trong mười phương nhứt là cõi trược
uế khổ não. Đọc và suy gẫm kỹ ta sẽ được nhiều lợi
ích lớn :
1. Lòng tín nhiệm nơi Đức Từ Phụ càng sâu.
2. Tăng trưởng Bồ-đề tâm
3. Rõ được cảnh giới trang nghiêm ở cõi Cực Lạc.
4. Hiểu được đặc điểm cao quý của người Cực Lạc.
5. Ham mộ về Cực Lạc và phấn chí tu hành.
Vì có nhiều lợi ích lớn ấy, nên Cổ đức rất
trọng 48 đại nguyện này. Người thời thuộc nằm lòng, vị thời
siêng lễ lạy. Mong chư độc giả cố gắng lướt qua quan
niệm nhàm phiền.
Điều nguyện thứ 1.- Lúc tôi thành Phật, nếu trong cõi nước tôi
có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, thời tôi không ở ngôi Chánh
giác.
Điều nguyện thứ 2.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên
trong cõi nước tôi sau khi thọ chung còn lại sa vào ba ác đạo,
thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 3.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên
trong cõi nước tôi thân chẳng màu vàng ròng tất cả, thời tôi không ở
ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 4.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên
trong cõi nước tôi thân hình có kẻ tốt người xấu chẳng đồng nhau, thời
tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 5.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên
trong cõi nước tôi chẳng có Túc mạng thông, ít nhứt là biết rõ những việc
trong trăm nghìn ức na-do-tha kiếp, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 6.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên
trong cõi nước tôi chẳng được thiên nhãn, ít nhứt là thấy rõ trăm nghìn ức
na-do-tha thế giới của chư Phật, thời tôi không ở ngôi Chánh
giác.
Điều nguyện thứ 7.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên
trong cõi nước tôi chẳng được thiên nhĩ, ít nhứt là nghe và thọ
trì tất cả lời thuyết pháp của trăm nghìn ức na-do-tha Đức
Phật, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 8.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên
trong cõi nước tôi chẳng được tha tâm trí, ít nhứt là biết rõ những tâm
niệm của tất cả chúng sanh trong trăm nghìn ức na-do-tha thế
giới, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 9.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên
trong cõi nước tôi chẳng được thần túc, khoảng một niệm, ít nhứt
là lướt qua khỏi trăm nghìn ức na-do-tha thế giới, thời tôi
không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 10.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên
trong cõi nước tôi còn có quan niệm tham chấp lấy thân, thời tôi
không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 11.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên
trong cõi nước tôi chẳng trụ Chánh định tụ, nhẫn đến trọn diệt độ, thời
tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 12.- Lúc tôi thành Phật, nếu quang
minh còn hữu hạn, ít nhứt chẳng chiếu thấu trăm nghìn ức na-do-tha thế
giới, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 13.- Lúc tôi thành Phật, nếu thọ mạng còn
hữu hạn, ít nhứt chẳng đến trăm nghìn ức na-do-tha kiếp, thời tôi không ở
ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 14.- Lúc tôi thành Phật, chúng Thanh
Văn trong cõi nước tôi, nếu có ai tính đếm biết được số bao nhiêu, dầu đó
là vô lượng Bích Chi Phật đồng tính đếm trong trăm nghìn kiếp,
thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 15.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong
cõi nước tôi thọ mạng còn hữu hạn, trừ người có bổn nguyện riêng, thời
tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 16.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên
trong cõi nước tôi còn có người nghe danh từ bất thiện, thời tôi không ở
ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 17.- Lúc tôi thành Phật, nếu vô lượng chư
Phật trong thập phương thế giới chẳng đều ngợi khen xưng
danh hiệu của tôi, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 18.- Lúc tôi thành Phật, thập
phương chúng sanh chí tâm tin mộ muốn sanh về cõi nước tôi nhẫn
đến mười niệm, nếu không được sanh, thời tôi không ở ngôi Chánh
giác, trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch cùng hủy báng Chánh pháp.
Điều nguyện thứ 19.- Lúc tôi thành Phật, thập
phương chúng sanh phát Bồ-đề tâm tu các công đức nguyện
sanh về cõi nước tôi, đến lúc lâm chung, nếu tôi chẳng cùng đại
chúng hiện thân trước người đó, thời tôi không ở ngôi Chánh
giác.
Điều nguyện thứ 20.- Lúc tôi thành Phật, thập
phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi, chuyên nhớ cõi nước
tôi và tu các công đức chí tâm hồi hướng muốn sanh về cõi nước
tôi, nếu chẳng được toại nguyện, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 21.- Lúc tôi thành Phật, nếu như hàng nhơn thiên
trong cõi nước tôi, tất cả chẳng đều đầy đủ ba mươi hai đại nhơn tướng, thời
tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 22.- Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở
cõi khác sanh về nước tôi, cứu cánh quyết đều đến bậc Nhứt
sanh bổ xứ, trừ người có bổn nguyện riêng tự tại hóa hiện,
vì chúng sanh mà phát hoằng thệ tu các công đức độ
thoát mọi loài, đi khắp các thế giới tu Bồ Tát hạnh, cúng
dường thập phương chư Phật, khai hóa vô lượng chúng sanh,
làm cho tất cả đều đứng vững nơi đạo Vô thượng Chánh giác, siêu xuất công
hạnh của các bậc thông thường, hiện tiền tu tập đức của Phổ
Hiền, nếu chẳng như thế thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 23.- Lúc tôi thành Phật, các Bồ
Tát trong cõi nước tôi, thừa thần lực của Phật mà đi cúng
dường thập phương chư Phật, trong khoảng thời gian một bữa
ăn, nếu không đến khắp vô lượng vô số ức
na-do-tha thế giới, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 24.- Lúc tôi thành Phật, các Bồ Tát ở
trong cõi nước tôi, khi ở trước thập phương chư Phật hiện công
đức của mình muốn có những vật cúng dường, nếu không được
đúng như ý muốn, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 25.- Lúc tôi thành Phật, nếu chúng Bồ
Tát trong cõi nước tôi không diễn thuyết được Nhứt thiết
trí, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 26.- Lúc tôi thành Phật, nếu các Bồ
Tát trong cõi nước tôi chẳng đều được thân kim cương na la diên,
thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 27.- Lúc tôi thành Phật, trong cõi nước tôi, tất
cả đồ dùng của nhơn thiên, hình sắc đều sáng đẹp sạch sẽ rất tột vi
diệu, không có thể tính biết, dầu là người được thiên nhãn. Nếu
có người biện danh số các đồ ấy được rõ ràng, thời tôi không ở
ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 28.- Lúc tôi thành Phật, nếu Bồ
Tát trong cõi nước tôi, dầu là người ít công đức nhứt, chẳng thấy
biết được cội cây đạo tràng cao bốn trăm muôn do tuần, vô
lượng quang sắc, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 29.- Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát trong
cõi nước tôi nếu thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết Kinh pháp,
mà chẳng được trí huệ biện tài, thời tôi không ở ngôi Chánh
giác.
Điều nguyện thứ 30.- Lúc tôi thành Phật, nếu có ai hạn lượng được trí
huệ biện tài của Bồ Tát trong cõi nước tôi, thời tôi không ở
ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 31.- Lúc tôi thành Phật, cõi nước tôi thanh
tịnh, nơi nơi đều soi thấy tất cả vô lượng vô số bất tư nghị thế
giới ở mười phương, như là thấy mặt mình trong gương sáng. Nếu
chẳng được như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 32.- Lúc tôi thành Phật, trong cõi nước tôi từ mặt
đất vàng lên đến hư không, lầu nhà cung điện, ao nước hoa cây, tất cả vạn
vật đều là vô lượng chất báu và trăm nghìn thứ hương hiệp chung
lại mà thành. Vạn vật đều xinh đẹp kỳ diệu, mùi
thơm xông khắp thập phương thế giới, Bồ Tát các nơi ngửi đến mùi
thơm ấy thời đều tu hạnh của Phật. Nếu chẳng như vậy, tôi không ở
ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 33.- Lúc tôi thành Phật, các loài chúng
sanh trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười
phương, được quang minh của tôi chạm đến thân, thời thân
tâm nhu nhuyến nhẹ nhàng hơn thiên nhơn. Nếu chẳng như vậy, thời tôi
không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 34.- Lúc tôi thành Phật, các loài chúng
sanh trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười
phương nghe danh hiệu của tôi mà không được Vô sanh Pháp nhẫn cùng
các môn thâm tổng trì, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 35.- Lúc tôi thành Phật, các người nữ
trong vô lượng bất tư nghị ở mười phương vui mừng tin
mến phát Bồ-đề tâm, nhàm ghét thân gái. Nếu sau khi mạng
chung mà còn làm thân người nữ nữa, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 36.- Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ
Tát trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười
phương nghe danh hiệu tôi, vẫn thường tu phạm hạnh mãi
đến thành Phật. Nếu chẳng đặng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh
giác.
Điều nguyện thứ 37.- Lúc tôi thành Phật, hàng nhơn thiên
trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười
phương nghe danh hiệu tôi, cúi đầu đảnh lễ, năm
vóc gieo xuống đất, vui mừng tin mến tu Bồ Tát hạnh, thời chư
Thiên và người đời đều kính trọng người đó. Nếu chẳng như vậy,
thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 38.- Lúc tôi thành Phật, hàng nhơn thiên trong
cõi nước tôi muốn có y phục, thời y phục tốt đúng pháp liền
theo tâm niệm của người đó mà tự nhiên đến trên thân. Nếu
còn phải cắt may nhuộm giặt, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 39.- Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên
trong cõi nước tôi hưởng thọ sự vui sướng không như vị lậu
tận Tỳ kheo, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 40.- Lúc tôi thành Phật, các Bồ
Tát trong cõi nước tôi tùy ý muốn thấy vô lượng thế giới nghiêm
tịnh của chư Phật ở mười phương, thời liền được thấy rõ cả nơi trong
cây báu đúng theo ý muốn như thấy mặt mình trong gương sáng. Nếu
chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 41.- Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở thế
giới phương khác nghe danh hiệu tôi, từ đó nhẫn đến
lúc thành Phật mà các sắc căn còn thiếu xấu, thời tôi không
ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 42.- Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở thế
giới phương khác nghe danh hiệu tôi, thảy đều được giải
thoát Tam muội. Trụ Tam muội đó, trong khoảng thời
gian một niệm, cúng dường vô lượng bất tư nghị chư Phật
Thế Tôn, mà vẫn không mất chánh định. Nếu chẳng như vậy thời tôi không ở
ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 43.- Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở
phương khác nghe danh hiệu tôi, sau khi mạng chung thác
sanh nhà tôn quý, nếu chẳng như vậy thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 44.- Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở
phương khác nghe danh hiệu tôi vui mừng hớn hở, tu Bồ
Tát hạnh vẹn đủ công đức, nếu chẳng như vậy thời tôi không ở
ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 45.- Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở
phương khác nghe danh hiệu tôi đều đặng Phổ đẳng Tam muội, trụ Tam
muội này mãi đến lúc thành Phật, thường được thấy vô lượng bất
tư nghị tất cả chư Phật. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở
ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 46.- Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ
Tát trong cõi nước tôi muốn nghe pháp gì, thời liền tự
nhiên đặng nghe pháp ấy. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở
ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 47.- Lúc tôi thành Phật, nếu chúng Bồ
Tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi mà chẳng
được đến bậc bất thoái chuyển, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ 48.- Lúc tôi thành Phật, nếu chúng Bồ
Tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi, mà chẳng
liền được đệ nhứt Âm hưởng nhẫn, đệ nhị Nhu thuận nhẫn, đệ
tam Vô sanh Pháp nhẫn, ở nơi Phật pháp chẳng liền được bậc bất
thoái chuyển, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
ĐẠI HẠNH
Trong Vô Lượng Thọ Kinh, sau lúc tường thuật 48
điều hoằng nguyện của Pháp Tạng Bồ Tát xong, Đức Bổn Sư
phán tiếp :
Sau khi lập hoằng nguyện này rồi, Pháp Tạng Bồ
Tát chuyên chí trang nghiêm tịnh độ. Cõi nước của người tu tạo rất rộng
lớn tốt đẹp, siêu thắng hơn tất cả, y nhiên thường lập, không hư, không đổi.
Trong thời gian vô lượng bất tư nghị triệu tải kiếp, người
gây trồng vô lượng đức hạnh Đại thừa. Không có tưởng niệm : dục,
sân, hại. Chẳng hề ham mê cảnh lục trần : sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp. Người thành tựu nhẫn lực không kể đến sự khổ nhọc. Lúc nào
người cũng thiểu dục tri túc : không tham, không sân, không si. Tâm
người thường yên lặng nơi chánh định, trí huệ vô ngại. Người
không bao giờ có lòng dua dối. Nét mặt người luôn luôn vui vẻ, lời
nói dịu dàng, niềm nở hỏi han. Chí nguyện luôn tinh
tấn dũng mãnh không hề nhàm mỏi : Người chuyên cần cầu
lấy pháp trọn lành để lợi ích quần sanh. Với Tam Bảo thời
người cung kính. Với Sư trưởng thời người phụng thờ. Người
dùng công hạnh đại trang nghiêm hoàn mãn của người mà làm
cho chúng sanh thành tựu công đức. Người quan sát các pháp
đều như huyễn, như hóa, không tạo tác, không sanh khởi, luôn trụ
trong môn giải thoát : không, vô tướng, vô nguyện. Người xa
hẳn lời nói thô cộc : hại mình, hại người, mình người đồng hại. Người tu
tập trọn nên lời nói hiền lành : lợi mình, lợi người, mình
người đồng lợi. Người vất bỏ sự giàu sang, xa tránh những tài sắc.
Người thực hành sáu pháp Ba-la-mật : bố thí, trì giới, nhẫn
nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, và dạy mọi người cùng thực
hành. Người giáo hóa an lập vô số chúng sanh làm cho đều đứng
vững nơi đạo Vô thượng Chánh giác. Vì độ chúng sanh mà người hiện
thân trong mọi loài, cùng đồng hình thể, cùng đồng ngôn ngữ, để tùy
cơ tùy thời mà dìu dắt...
Pháp Tạng Bồ Tát có vô lượng công
đức như vậy không thể kể hết. Người thực hiện hoàn thành những
hoằng nguyện của người đã lập : Người đã thành Phật hiệu là A Di
Đà tại Cực Lạc thế giới, cách đây mười muôn ức cõi về hướng Tây,
và hiện tại đang thuyết pháp nơi ấy...
LỜI PHỤ.- Trong 48 điều hoằng nguyện, nguyện nào cũng đồng một mục đích đại từ bi :
Làm cho chúng sanh ở vĩnh viễn trong cảnh an vui hoàn toàn và bảo đảm chắc chắn trên con đường thành Phật.
Đến đại hạnh độ mình độ người để thực hiện bốn nguyện trên, trong ấy, bao nhiêu là sự dũng mãnh tinh tấn, bao nhiêu là sự kiên nhẫn cần lao. Kể sao xiết nơi hạnh thanh tịnh ! Kể sao xiết nơi trí cao thượng ! Không nệ khó, không nệ nhọc. Thật là làm những điều khó làm, nhẫn những điều khó nhẫn.
Vì ai mà trong lúc tu nhơn, Đức Từ Phụ ta phải trải qua thời gian vô lượng số kiếp cần khổ thực hành Bồ Tát hạnh như thế ? Chỉ vì chúng sanh ! Vì để cứu khổ ban vui cho mọi loài, cho chúng ta thôi !
Nhơn hạnh của Đức Từ Phụ chúng ta đã được biết. Giờ đây chúng ta nên đọc đến những trang Kinh, mà nơi ấy, Đức Bổn Sư của chúng ta giảng về quả địa của Từ Phụ.
Thân tướng thù thắng của A Di Đà Phật và hai vị Bồ Tát phụ bật.
Cảnh Tịnh Độ trang nghiêm : “Cực Lạc thế giới”.
Comments
Post a Comment