ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
Lời Nói Ðầu Của Dịch Giả
Khảo cứu theo truyền sử trong đại-tạng, khi thành đạo
Vô-thượng Chánh-giác, chưa vội rời đạo-tràng Bồ-Ðề, đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật
với pháp-thân Tỳ-Lô-Giá-Na, cùng chư đại Bồ-Tát chứng giải-thoát-môn, tuyên
thuyết Kinh Hoa-Nghiêm.
Sau khi đức Phật nhập diệt lối sáu trăm năm, do Long-Thọ
Bồ-Tát, Kinh Hoa-Nghiêm này mới được lưu truyền bằng phạn-văn. Toàn bộ Kinh chữ
Phạn có một trăm ngàn bài kệ, chia làm bốn mươi tám phẩm.
Ðến nhà Ðường, Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà từ
nước Vu-Ðiền mang bổn Kinh chữ Phạn này sang Trung-Quốc dịch ra Hán văn. Nhưng
Ðại-Sư chỉ dịch ra được ba mươi chín phẩm, từ phẩm 'Thế-Chủ Diệu-Nghiêm' đến
phẩm 'Nhập-Pháp-Giới', cộng có ba mươi sáu ngàn bài kệ theo Phạn-văn, còn lại
chín phẩm sáu mươi bốn ngàn bài kệ Phạn-văn chưa được dịch ra Hán-văn.
Kế đó, Pháp-Sư Bác-Nhã, người Kế-Tân dịch thêm
phẩm Phổ-Hiền-Hạnh-Nguyện ra Hán-văn, thành phẩm thứ bốn mươi của bộ Kinh
Hoa-Nghiêm này.
Nguyên bổn chữ Hán chia ra làm tám mươi mốt quyển. Vì xét
thấy chia quyển ra như thế, có nhiều phẩm bị cắt ra làm hai ba quyển hoặc nhiều
hơn, thành thử mạch văn bị gián đoạn, nên khi phiên dịch ra Việt-văn, tôi chỉ
lấy phẩm mà không theo quyển của bổn chữ Hán. Tuy nhiên, tôi vẫn chia số quyển
của bổn chữ Hán trong bổn Việt-văn này, để tiện sự so cứu cho người đọc.
Kinh này gọi đủ là 'Ðại-Phương-Quảng
Phật Hoa-Nghiêm', ta quen gọi là Kinh Hoa-Nghiêm.
Nội dung của Kinh này đứng trên cảnh-giới bất-tư-nghì
giải-thoát, chư pháp-thân Ðại-Sĩ thừa oai thần của đức Phật tuyên dương
công-đức cùng cảnh-giới của chư Phật và xương minh nhơn hạnh xứng tánh
bất-tư-nghì của chư đại Bồ-Tát.
Kinh Hoa-Nghiêm này đã hoàn toàn ở trong lãnh vực xứng tánh
bất-tư-nghì giải-thoát mà xương minh, nên mỗi lời mỗi câu trong Kinh này đều
lấy toàn thể pháp-giới tánh làm lượng. Ðã là toàn thể pháp-giới tánh nên tất cả
Giáo, Lý, Hạnh, Quả nơi đây đều dung thông vô-ngại, nên cũng gọi là vô-ngại
pháp-giới.
Từng bực cứu cánh của vô-ngại pháp-giới là Sự-sự vô-ngại
pháp-giới, chỗ chứng nhập hoàn toàn của chư Phật mà chư pháp-thân Bồ-Tát thời
được từng phần.
Muốn hiểu thấu phần nào cảnh-giới trên đây, người học đạo
cần phải biết rõ bốn pháp-giới, bốn cấp bực mà chư đại-thừa Bồ-Tát tuần tự tu
chứng :
1. Lý vô-ngại pháp-giới
2. Sự vô-ngại pháp-giới
3. Lý sự vô-ngại pháp-giới
4. Sự-sự vô-ngại pháp-giới
'Lý' tức là chơn-lý thật-tánh, là thể tánh chơn thật của tất
cả pháp, nên cũng gọi là pháp-tánh hay pháp-giới-tánh, chơn-như-tánh. Tất cả
pháp trong vũ trụ đều đồng một thể tánh chơn thật ấy. Thể-tánh ấy dung thông
vô-ngại, nên gọi là 'Lý vô-ngại pháp-giới'. Người chứng được lý vô-ngại này
chính là bực thành-tựu căn-bổn-trí, mà bắt đầu dự vào hàng pháp-thân Bồ-Tát.
Tất cả pháp 'Sự' đều đồng một thể-tánh chơn-thật, tức là
đồng lấy pháp-tánh làm tự thể. Toàn-thể 'Sự' là pháp-tánh, mà pháp-tánh đã
viên-dung vô-ngại, thời toàn sự cũng vô-ngại, nên gọi là 'Sự vô-ngại
pháp-giới'. Người chứng được pháp-giới này chính là bực pháp-thân Bồ-Tát
thành-tựu sai-biệt-trí (cũng gọi là quyền-trí, tục-trí, hậu-đắc-trí).
Lý là thể-tánh của 'Sự' (tất cả pháp), 'Sự' là hiện-tượng
của 'Lý-tánh'. Vậy thời lý-tánh tức là lý-tánh của sự, còn sự lại là sự-tướng
của lý-tánh. Chính Lý-tánh là toàn-sự, mà tất cả sự là toàn Lý-tánh, nên gọi là
'Lý-sự vô-ngại pháp-giới'. Người chứng được lý-sự pháp-giới này thời là bậc
pháp-thân Bồ-Tát đồng thời hiển phát cả hai trí (căn-bổn-trí và sai-biệt-trí).
Tất cả sự đã toàn đồng một thể-tánh mà thể-tánh thời dung
thông không phân chia riêng khác, nên bất luận là một sự nào cũng đều dung
nhiếp tất cả sự, và cũng đều tức là tất cả sự, một sự nhiếp và tức tất cả sự,
tất cả sự nhiếp và tức một sự. Thế là sự-sự vô-ngại tự-tại, nên gọi là 'Sự-sự
vô-ngại pháp-giới'. Người chứng được Sự-sự pháp-giới này là bực pháp-thân
Bồ-Tát thành-tựu nhứt-thiết chủng-trí. Viên-mãn trí này chính là Ðấng
Vô-Thượng-Giác (Phật Thế-Tôn ).
Sự-sự vô-ngại pháp-giới dung thông tự-tại, nội dung của toàn
bộ Kinh Hoa-Nghiêm, được chứng minh trên toàn thể văn Kinh này. Nay xin lược
dẫn một vài đoạn văn rõ nhứt để chư học-giả tiện tham cứu :
Sự-sự là tất cả sự hoặc là tất cả pháp, tức là toàn thể
không-gian và thời-gian.
Về không-gian dung thông vô-ngại văn Kinh nói :
Bao nhiêu vi-trần trong thế-giới
Trong mỗi vi-trần thấy các cõi
Bửu quang hiện Phật vô lượng số
Cảnh-giới tự-tại của Như-Lai ...
Vô-lượng vô-số núi Tu-Di
Ðều đem để vào một sợi lông,
Một thế-giới để vào tất cả
Tất cả thế-giới để vào một,
Thể tướng thế-giới vẫn như cũ
Vô-đẳng vô-lượng đều cùng khắp ...
Trong một chân lông đều thấy rõ
Vô-số vô-lượng chư Như-Lai
Tất cả chân lông đều thế cả
Tôi nay kính lạy tất cả Phật ...
Về thời-gian dung-thông vô-ngại văn Kinh nói :
Kiếp quá-khứ để hiện, vị-lai,
Kiếp vị-lai để quá, hiện-tại,
Ba đời nhiều kiếp là một niệm
Chẳng phải dài vắn : hạnh giải-thoát ...
Tôi hay thâm nhập đời vị-lai
Tất cả kiếp thâu làm một niệm,
Hết thảy những kiếp trong ba đời
Làm khoảng một niệm tôi đều nhập ...
Về không-gian và thời-gian dung thông vô-ngại nhau, văn Kinh
nói :
Khắp hết mười phương các cõi nước
Mỗi đầu lông đủ có ba đời
Phật cùng quốc-độ số vô-lượng
Tôi khắp tu hành trải trần kiếp.
Trong một niệm tôi thấy ba đời
Tất cả các đấng Nhơn-Sư-Tử
Cũng thường vào trong cảnh-giới Phật
Như-huyễn, giải-thoát và oai-lực ...
Tất cả sự không ngoài thời-gian và không-gian. Thời-gian dung
thông thời-gian, không-gian dung thông không-gian, thời-gian dung thông
không-gian, không-gian dung thông thời-gian. Một không-gian dung thông tất cả
không-gian, một thời-gian dung thông tất cả thời-gian, tất cả dung thông với
một, thời-gian với không-gian, một cùng tất cả cũng đều dung thông như vậy. Ðây
chính là Sự-sự vô-ngại pháp-giới, mà cũng chính là cảnh-giới giải-thoát
bất-tư-nghì mà Kinh Hoa-Nghiêm này lấy đó làm nội-dung như đã nói ở trên ...
Lược giải một vài điều, để giúp phần nào cho học-giả khi cần
thấy phải thấu triệt nội-dung của Kinh này. Vị nào muốn nghiên cứu đầy đủ xin
xem bộ Hoa-Nghiêm đại-sớ của Tổ Thanh-Lương và Thập-huyền-môn của
Tổ Hiền Thủ.
Tôi thành kính đem công-đức phiên dịch Việt-văn này hồi
hướng cho tất cả chúng-sanh đồng về Tịnh-Ðộ, đồng sớm thành Phật.
Viết tại chùa Vạn Ðức
Thủ Ðức ngày Phật nhập Niết-Bàn
Rằm tháng Hai 2508
Dịch-Giả
Hân-Tịnh Tỳ-Kheo
Thích Trí Tịnh
Diễn Giảng
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
(Thích Ca Mâu Ni là tiếng Phạn, dịch: Năng Nhân-Tịch-Mặc, Thích Ca là họ, Mâu Ni là tên; Phật có nghĩa là: đấng giác ngộ, Đức Bổn Sư khi xưa là Thái Tử Tất Đạt Đa, ở xứ Trung Ấn Độ, nước Ca Tỳ La Vệ, cha là Vua Tịnh Phạn, mẹ là Ma Da Hoàng Hậu, Thái Tử xuất gia lúc 19 tuổi, đến 30 tuổi thành đạo, thuyết pháp 50 năm trụ đời 80 tuổi. Đức Phật ra đời độ vô lượng chúng sanh, hiện nay đạo pháp của Ngài được khắp giới Á, Âu tôn trọng).
Kinh Phật Thuyết A Di Đà nói: “Từ đây thẳng về phương Tây, trải qua mười muôn ức cõi Phật, có thế
giới tên là Cực Lạc. Cõi ấy có đức Phật hiệu là A Di Đà, hiện nay đương thuyết
pháp. – Tại sao cõi kia gọi là Cực Lạc? Vì chúng sanh ở cõi ấy không có các sự
khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên gọi là Cực Lạc. — Đức Phật ấy vì sao hiệu là
A Di Đà? Bởi ánh sáng của đức Phật này không lường, soi khắp mười phương quốc độ,
không chỗ nào chướng ngại, nên hiệu là A Di Đà. Lại nữa, đức Phật kia cùng với
nhân dân của ngài sống lâu đến không lường, không ngằn A Tăng Kỳ kiếp, nên gọi
là A Di Đà. –Chúng sanh, sanh về cõi Cực Lạc, đều là bậc A Bệ Bạt Trí, trong ấy
hàng Nhứt Sanh Bổ Xứ rất nhiều, không thể dùng toán số tính biết được, chỉ có
thể dùng số vô lượng vô biên a tăng kỳ để nói mà thôi. –Chúng sanh nào nghe
kinh này, nên phát nguyện sanh về nước kia.–Tại sao thế? Vì được cùng các bậc
người thượng thiện ở chung một chỗ. –Nếu có người thiện nam thiện nữ nào nghe
nói đến Phật A Di Đà, giữ niệm danh hiệu, hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày cho
đến bảy ngày, một lòng không loạn, khi người ấy mạng chung, Phật A Di Đà cùng
các Thánh Chúng hiện ở trước. Bấy giờ kẻ ấy lòng không điên đảo, liền được sanh
về cõi Cực Lạc. –Chúng sanh các ngươi! Nên tin kinh “Xưng Tán Bất Khả Tư Nghì
Công Đức, Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm” này.
Kinh Đại Tập nói: “Hành giả ngồi ngay thẳng, chuyên tâm tưởng đức Phật A Di Đà, tướng
đẹp như thế, oai nghi như thế, đại chúng như thế, thuyết pháp như thế, tưởng niệm
như vậy, tâm tâm nối nhau, thứ lớp không loạn, sẽ thấy được Đức Phật kia. Ví
như trong đời có người nam hay nữ đi xa ở xứ khác, trong giấc mơ thấy nhà cửa của
mình. Lúc bấy giờ, thật ra người ấy chẳng biết là đêm hay ngày, là ngoài hay
trong, tường vách núi đá không thể che ngăn, cho đến sự tối tăm mù mịt không
làm chướng ngại. Hành giả mỗi niệm cứ huân tu như thế, lâu ngày sự quán tưởng sẽ
sáng suốt lanh lẹ, kết quả thấy được đức Phật Di Đà”.
Kinh Thập Lục Quán nói: –Muốn sanh về Cực Lạc, phải tu ba thứ phước: 1) Hiếu dưỡng cha mẹ,
phụng thờ sư trưởng, tâm từ bi không giết hại, tu mười nghiệp lành. 2) Thọ trì
Tam Quy, giữ trọn các giới, đừng phạm oai nghi. 3) Phát lòng Bồ Ðề, tin sâu lý
nhân quả, đọc tụng kinh Đại thừa, khuyến tấn người tu hành. Ba điều trên đây gọi
là tịnh nghiệp.
Kinh Bảo Tích nói: — Bấy giờ Di Lặc Bồ Tát bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Như Thế
Tôn đã nói những công đức lợi ích của Phật A Di Đà và thế giới Cực Lạc. Lại bảo:
Nếu có chúng sanh nào phát mười thứ tâm, một lòng chuyên niệm hướng về Phật A
Di Đà, khi người ấy mạng chung sẽ được sanh về thế giới của đức Phật kia. Bạch
đức Thế Tôn! Thế nào là phát mười thứ tâm, và do tâm này sanh về Cực Lạc?” –Phật
bảo: “Này Di Lặc! Mười thứ tâm ấy không phải hạng người phàm phu, bất thiện có
thể phát được. Những gì là mười tâm:
1.- Đối với chúng sanh khởi lòng đại từ không làm tổn hại.
2.- Đối với chúng sanh khởi lòng đại bi không làm bức não.
3.- Với chánh pháp của Phật khởi lòng hộ trì không tiếc thân mạng.
4.- Với tất cả pháp lành sanh lòng thắng nhẫn, không chấp trước.
5.- Tâm an vui trong sạch, tôn trọng, không tham lợi dưỡng, sự cung kính.
6.- Tâm cầu chứng trí của Phật, trong tất cả thời không xao lãng.
7.- Đối với tất cả chúng sanh hằng tôn trọng cung kính, không khinh rẻ là hèn thấp.
8.- Không say đắm theo thế luận, đối với phần Bồ Ðề sanh lòng quyết định.
9.- Tâm thanh tịnh tu các căn lành, không hề tạp nhiễm.
10.- Đối với các đức Như Lai, xả lìa các tướng, lòng tùy niệm.
Di Lặc! Đó là mười thứ phát tâm của Bồ Tát, do tâm nào sẽ được sanh về cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà. Di Lặc! Nếu có người nào trong mười tâm này, tùy ý thành tựu được một tâm, ưa thích muốn về Cực Lạc, quyết không lẽ nào không được vãng sanh.
ĐỨC TỪ THỊ VÀ HỘI
LONG HOA
Gần đây, có nhiều thuyết tuyên
truyền nói không bao lâu hội Long-Hoa sẽ mở, Ðức Di-Lặc sẽ ra đời giáo hóa
chúng-sanh. Có người lại quả quyết rằng: độ chừng 40 năm nữa, sẽ có hội
Long-Hoa mở ra tại núi Cấm. Chẳng những ở Việt-Nam, mà thời gian trước tại Trung-Hoa
cũng có thuyết ấy. Đó là do những người của các giáo phái khác không tham khảo
chính xác về đạo Phật, nghe nói hội Long-Hoa rồi phụ họa theo mà tuyên truyền,
nếu có người thử hỏi ý nghĩa của hai chữ Long-Hoa, không chừng họ chẳng hiểu
nữa là khác! Cũng có giáo phái cố ý đem hội Long-Hoa của đạo Phật làm của mình,
nên mới sanh ra sự đồn đãi như trên. Xét ra họ được điểm tốt là khuyên mọi
người cố gắng làm lành “để rồi gần đây sẽ gặp Di-Lặc”. Nhưng cũng có điều lỗi
lầm là đã vô tình hoặc cố ý làm sai lạc giáo thuyết trong kinh Phật.
Theo Phật-giáo, Ðức Thích-Ca ra
đời lúc nhơn thọ còn 100 tuổi. Qua mỗi trăm năm thọ số con người bớt xuống 1
tuổi, giảm đến khi nhơn thọ còn 10 tuổi rồi lại tăng lần đến lúc 84.000 tuổi là
mãn tiểu-kiếp thứ chín của trụ kiếp. Sang tiểu-kiếp thứ mười, lúc nhơn thọ từ
84.000 tuổi giảm còn 80.000 tuổi, Ðức Di-Lặc mới ra đời. Từ khi Phật Thích-Ca
niết-bàn đến nay đã được 2.508, ta tạm kể chẵn là 2.500 năm, mức sống con người
hiện thời 75 tuổi là thượng thọ. Lấy mức nhơn thọ 75 tuổi kể theo số niên kiếp
tăng giảm, thì từ đây đến lúc Ðức Di-Lặc ra đời còn 8.805.500 năm nữa. Lúc Ðức
Di-Lặc thành chánh giác, Ngài ngồi nơi một gốc đại thọ, cành cây như mình rồng,
hoa nở tủa ra bốn bên như những đầu rồng, nên gọi cây nầy là Long-Hoa-bồ-đề.
Sau khi thành đạo quả, Phật Di-Lặc cũng ngồi nơi đây mà thuyết pháp, nên lại có
danh từ Long-Hoa-pháp-hội.
Theo kinh Di-Lặc-Hạ-Sanh và
Trường-A-Hàm, thì khi Ðức Di-Lặc giáng sinh, nhơn thọ được tám muôn tuổi. Bấy
giờ mực nước biển giảm xuống để lộ thêm 3.300 du-thiện-na đất liền, châu
Nam-Thiệm-Bộ chu vi rộng được một vạn du-thiện-na. Dưới đây là một đoạn kinh tả
cảnh tượng vui đẹp thanh bình trong lúc đó:
Thuở ấy nước giàu
thạnh
Dân không bị hình
phạt
Khỏi tất cả tai ách
Chúng nam nữ trong
xứ
Đều do thiện nghiệp
sanh.
Đất khắp nơi bằng
phẳng
Không có những
chông gai
Cỏ xanh tốt dịu mềm
Đi êm như bông nệm
Ngoài nội mọc lúa
thơm
Đủ hương vị ngon
lạ.
Các cây sanh y phục
Mọi vẻ đều tươi
sáng
Cây cao ba câu-xá
Hoa trái thường
sung mãn.
Bấy giờ người trong
nước
Đều sống tám muôn
tuổi
Không có các tật
bịnh
Tướng mạo rất xinh
đẹp
Sắc lực đều đầy đủ
Tâm hằng được an
vui
Khi biết mình mệnh
chung
Đến Thi-lâm xả thọ.
Chỗ Luân-vương đóng
đô
Là thành
Diệu-Tràng-Tướng
Dọc mười hai
do-tuần
Bảy do-tuần ngang
rộng.
Những kẻ ở trong đó
Ðều đã chủng nhân
mầu
Đây là nơi phước
địa
Người hưởng cảnh
nhàn vui
Lâu đài để trấn
quốc
Bằng bảy báu nguy
nga
Các cửa ngõ trong
ngoài
Đều trang nghiêm mỹ
lệ
Những hào lũy quanh
thành
Cũng xây bằng chất
báu
Hoa tươi khắp bốn
bề
Chim lành bay đậu
hót
Ngoài thành cây
Đa-la
Đủ bảy vòng bao bọc
Lưới đẹp cùng linh
ngọc
Giăng nối các hàng
cây.
Mỗi cơn gió thoảng
qua
Tiếng linh khua
thanh diệu
Dường như nhạc bát
âm
Khiến lòng người
vui vẻ.
Trong ngoài nhiều
ao hồ
Trong hồ nhiều sen
lạ
Vườn hoa cùng hương
lâm
Trang nghiêm cảnh
thành ấy...
Đại khái, nhơn loại thời đó đều
xinh đẹp sống lâu, trai gái 500 tuổi mới có vợ chồng. Cảnh vật trong nước sáng
sủa tốt tươi, không có các loài ruồi muỗi rắn rết độc trùng; gạch ngói sạn đều
biến thành lưu ly. Con người thuở ấy không bị khổ vì chiến tranh, khỏi lo nhọc
về sự ăn mặc. Tất cả đều hiền lành, tu mười nghiệp thiện, sau khi chết phần
nhiều được sanh lên cõi trời. Nhưng phước đức chưa được đầy đủ, nên bấy giờ
loài người còn có những nghiệp tướng như: nóng, lạnh, đói, khát, tiểu tiện, đại
tiện, tham dục, thích ăn uống, suy già. Tuy nhiên, do phước nghiệp, khi đại
tiểu tiện xong, đất chỗ ấy nứt ra rồi khép lại che dấu uế vật, hoa sen đỏ liền
ló lên tuôn ra mùi thơm đánh tan xú khí.
Vị Luân-vương thời đó tên là
Hướng-Khê. Vua cai trị bốn châu, có bảy báu, một ngàn người con và đủ cả bốn
binh. Trong nước có bốn kho tàng lớn; mỗi kho chứa trăm vạn ức châu báu. Vị
Quốc-sư cũng chính phụ tướng đại-thần đương triều là Thiện-Tịnh Bà-La-Môn, ông
nầy có bà phu-nhơn xinh đẹp tên là Tịnh-Diệu. Di-Lặc Bồ-Tát từ cõi trời
Đâu-Suất giáng sinh làm con trai của vợ chồng Quốc-sư. Bồ-Tát lúc sanh ra, có
đủ 32 tướng tốt, thân hình đầy đặn, khuôn mặt đoan trang tươi sáng như trăng
rằm, đôi mắt trong đẹp như cánh hoa sen xanh. Khi Bồ-Tát lớn lên, ngài thông
thuộc các nghề, kẻ tùy học được 84.000 người. Một năm nọ, vua Hướng-Khê làm
tràng Diệu-bảo để mở hội Thí-vô-giá, các phạm-chí vì giành giựt châu báu làm
gãy nát bảo tràng. Bồ-Tát thấy thế ngộ lý vô thường, xuất-gia tu thành Phật,
hiệu là Từ-Thị Như-Lai. Trong hội thuyết pháp đầu tiên, Ðức Từ-Tôn độ được 96
ức người thành đạo quả; hội thứ hai độ được 94 ức người và hội thứ ba độ được
92 ức người. Nơi thiền-môn, vào kỷ niệm Ðức Di-Lặc, chư tăng ni thường đọc bài
tán, trong ấy có câu: “Long-Hoa tam hội nguyện tương phùng” (Ba hội Long-Hoa
nguyền được gặp). Câu nầy là chỉ cho ba pháp hội đã nói trên. Nhưng thật ra,
Ðức Từ-Thị Như-Lai thuyết pháp rất nhiều hội, chớ không phải chỉ có ba hội ấy.
Sở dĩ trong kinh nói có ba là muốn nêu ra tánh cách quan trọng và lớn lao nhất
của ba hội trong nhiều pháp hội đó thôi. Người nào muốn dự ba hội Long-Hoa, nên
thực hành đúng ba điều kiện, theo lời nguyện của Ðức Di-Lặc như sau:
1. Những vị tăng ni
xuất-gia trong giáo pháp của Phật Thích-Ca-Mâu-Ni, nếu có thể giữ gìn giới hạnh
trang nghiêm, tương lai sẽ được tham dự và độ thoát trong pháp hội đầu tiên của
ta.
2. Hàng Phật-tử
tại-gia, nếu giữ đúng Ngũ-giới, Bát-quan-trai-giới, phụng thờ và cung kính cúng
dường ngôi Tam-bảo, sẽ được độ thoát trong pháp hội thứ hai của ta.
3. Những kẻ tuy
chưa giữ giới, nhưng có lòng chánh tín đối với ngôi Tam-bảo biết kính lễ Phật
và đem tâm thành cúng dường Phật, Pháp, Tăng, sẽ được độ thoát trong pháp hội
thứ ba của ta.
Trên đây là đại lược về thời kỳ giáng sinh thành Phật của Ðức Di-Lặc ở tương lai. Nếu vị nào muốn nghe pháp và được hóa độ trong ba hội Long-Hoa, cần nên chú ý.
Phật
Học Tinh Yếu
Hòa Thượng
Thích Thiền Tâm
51.- DI LẶC BỒ TÁT
Nầy Thiện-nam-tử! Như ngươi hỏi Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo?
Ngươi nên “VÀO TRONG LÂU CÁC TỲ LÔ GIÁ NA ÐẠI TRANG NGHIÊM” nầy, ngươi quán-sát khắp nơi thời có thể biết rõ học bồ-tát-hạnh, học rồi thời thành-tựu vô-lượng công-đức.
Nầy Thiện-nam-tử! Môn giải-thoát nầy tên là
“TẠNG TRÍ TRANG NGHIÊM NHẬP TẤT CẢ CẢNH GIỚI BA ĐỜI CHẲNG QUÊN MẤT.
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
Ngày 5 tháng 8 năm 1990
Kính thưa Thượng Tọa trụ
trì cùng chư vị đạo hữu…
Hôm nay là buổi thuyết
giảng thứ 114 về kinh Hoa Nghiêm tại chùa này. Trong lần trước, chúng ta đã
chớm đến vị thiện tri thức thứ 51, tức là ngài Di Lặc. Đây, xin quí vị hãy lắng
nghe những câu kinh nói về ngài Di Lặc.
KINH: Này thiện nam tử,
phương nam đây có nước Hải Ngạn…
GIẢNG: Nước Hải Ngạn là
chỗ tột bờ mé của biển diệu tâm.
KINH: Trong nước ấy có
khu vườn đại trang nghiêm.
GIẢNG: Bao giờ chúng ta
cũng phải nên hiểu hai nghĩa, nghĩa trong và nghĩa ngoài. Khu vườn đại trang
nghiêm là một khu vườn rất đẹp, nhưng nghĩa trong là Tàng thức, là khu vườn tâm
của vị thiện tri thức.
KINH: Trong vườn có một
tòa lâu các rộng lớn tên là Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng.
GIẢNG: Trong khu vườn
tâm ấy hiện lên một tòa lâu các, rất trang nghiêm, mà nó cũng là tượng trưng
cho Bạch Tịnh Thức. Vì khi tâm khởi tướng thì nó bắt đầu chuyển thành thức,
nhưng cái thức này hết sức tế vi, hết sức thanh tịnh, vì vậy mới gọi là “trang
nghiêm tạng.” Khi một hành giả tu hành đến mức độ vào được đến Bạch tịnh thức
rồi, bấy giờ, tâm hành giả ấy chứa toàn những bửu trang nghiêm hết sức thanh
tịnh, và tâm ấy ánh ra ngoài thành cảnh y báo. Nên chánh báo và y báo luôn luôn
tương ưng chặt chẽ với nhau, mà không bao giờ rời nhau. Không bao giờ có tâm
tưởng mà không có cảnh giới y báo bên ngoài, hoặc ngược lại. Sở dĩ chúng ta
sanh vào cảnh giới trần gian thô kệch này, là vì tâm chúng ta còn nhiều những
chủng tử uế về tham, sân, si v.v… và tâm chúng ta chưa đủ trang nghiêm.
Nên nếu chúng ta muốn
tránh khỏi những tai nạn, những khổ ải của cõi đời này, chúng ta chỉ cần chuyển
những chủng tử trong tâm thì tự nhiên cái y báo của chúng ta sẽ chuyển. Điều
này, riêng tôi, tôi tin chắc chắn lắm, vì tất cả những việc xảy ra trong thế
gian này, trên bình diện thô kệch của thể chất này, đều được an bài ở một bình
diện cao hơn rồi. Nên câu của ngài Quán Thế Âm nói: “độ nhứt thiết khổ
ách” là rất đúng, Vì sao? Vì khi tâm chúng ta thanh tịnh, thì dù có
mưa súng, mưa dao cũng qua được một cách dễ dàng. Nhưng chủng tử trong tâm
chúng ta còn quá thô kệch, vướng mắc quá nhiều nên chúng ta khó quà được khổ
ách là vậy.
KINH: Lâu các nậy có ra
là do Bồ Tát thiện căn quả báo, do Bồ Tát niệm lực, tự tại lực, thần thông lực,
do Bồ Tát thiện xảo phương tiện, do Bồ Tát phước đức trí tuệ.
GIẢNG: Tất cả những
chủng tử niệm, nguyện, thần thông, trí huệ v.v… huân tập trong tàng thức của
Ngài, rồi hiện hành, ánh ra thành y báo bên ngoài. Sở dĩ ngài Di Lặc ở trong
lâu các trang nghiêm dường ấy là vì ngài tu về duy thức, ngài biết hóa giải tất
cả những tập khí phiền não, thì tàng thức sơ năng biến ấy trở thành bạch tịnh
thức, nên bên trong trang nghiêm ra sao, thì lóe ra bên ngoài tương Ưng như
vậy. Nên trong kinh nói rõ là “lâu các này có ra là do thiện căn quả
báo…”
KINH: Này thiện nam tử,
Bồ Tát trụ bất tư nghì giải thoát.
GIẢNG: “Bất tư
nghì giải thoát,” là sự giải thoát đến chỗ mịt mùng, đến chỗ ngằn mé,
tột bờ mé, không thể dùng ngôn từ để nói hay nghĩ bàn được.
KINH: Dùng tâm đại bi vì
các chúng sanh mà hiện cảnh giới như vậy, chứa họp những trang nghiêm như vậy.
GIẢNG: Càng vào sâu bao
nhiêu thì lâu các hiện ra càng trang nghiêm bấy nhiêu.
KINH: Di Lặc Bồ Tát ở
trong lâu các ấy để nhiếp thọ phụ mẫu quyến thuộc và nhơn dân làm cho họ được
thành thục. Lại muốn cho nhữhg chúng sanh đồng thọ sanh, đồng tu hành ở trong
đại thừa kiên cố. Lại muốn cho tất cả chúng sanh ấy, tùy bậc, tùy thiện căn,
đều được thành tựu.
GIẢNG: Ngài ở trong lâu
các ấy, tức trong cõi ấy, cũng chính là thân của ngài. Trong lâu các ấy, (cõi),
có phụ mẫu, quyến thuộc và vô lượng nhân dân ngài độ trì tất cả, nhất là cho
những người hồi hướng đại thừa.
KINH: Lại cũng muốn vì
ngươi mà hiển thị môn bồ tát giải thoát, hiển thị bồ tát khắp tất cả chỗ thọ
sanh tự tại.
GIẢNG: Đối với một vị Bồ
Tát thì thần lực của các ngài rất ghê gớm, làm đủ những việc thọ sanh, đi thọ
sanh tất cả các nơi. Còn chúng ta, thường mang một thân chấp ngã, đầy đủ phiền
não, nên chỉ có thể thọ sanh một chỗ thôi, phần nhiều là phải chịu thai sanh,
nhơ nhớp đầy máu mủ, mà phải qua thân xác một người đàn bà, sanh ra tùy theo
nghiệp của mình. Trái lại, bậc Bồ Tát cao, phần nhiều các ngài sanh trong hào
quang nên ngài thọ sanh chỗ nào cũng được, vào vô lượng chỗ, các ngài thọ sanh
để độ những người khác.
KINH: Hiển thị Bồ Tát
dùng nhiều thân hiện khắp nơi thường giáo hóa chúng sanh. Hiển thị Bồ Tát dùng
sức đại bi nhiếp tất cả tài sản thế gian mà chẳng nhàm.
GIẢNG: “Chẳng
nhàm” là hạnh làm hoài hoài mà không cảm thấy nhàm, chán, vì tâm các
ngài vô ngã. Ngược lại, chúng ta khi thích thì làm, khi chán thì thôi vì tâm
chúng ta còn có ngã, còn mong cầu nhiều thứ.
KINH: Ngươi đến đó hỏi
Bồ Tát thế nào thật hành Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo, thế nào học Bồ Tát
giới, thế nào tịnh Bồ Tát tâm, thế nào phát Bồ Tát nguyện, thế nào chứa nhóm Bồ
Tát trợ đạo, thế nào nhập bậc Bồ Tát, thế nào thành mãn Bồ Tát ba la mật, thế
nào được Bồ Tát,vô sanh nhẫn, thế nào đủ Bổ Tát công đức, thế nào thòTBồ Tát
thiện tri thức?
Này thiện nam tử, Di Lặc
Bồ Tát thông đạt tất cả Bồ Tát hạnh, biết rõ tâm chúng sanh, thường hiện thân
trước họ để giáo hóa điều phục.
GIẢNG: Đại khái đoạn này
ngài dặn dò Thiện Tài thế thôi.
KINH: Này thiện nam tử,
ngươi chẳng nên tu một điều lành, chiếu một pháp, hành một hạnh, phát một
nguyện, được một thọ ký, trụ một nhẫn mà cho là rốt ráo.
GIẢNG: Khi tu được một
vài điều lành, bắt đầu chứng được một vài pháp, hành một, hai hạnh, phát một
vài nguyện, hay nhẫn được một vài điều, ngay cả được một thọ ký thì cũng đừng
nên cho là đủ, phải hành vô lượng, phát nguyện vô lượng, thì tâm mới đến được
mức vô lượng tuyệt vời. Ở đây, chúng tôi cũng xin nhắc lại sơ qua trên con
đường Bồ tát đạo, ban đầu có tín nhẫn, sau qua phục nhẫn, đến tùy thuận nhẫn,
rồi dần dần lên đến tịch diệt nhẫn, tất cả những thứ đó đều là những mức độ đi
lên của tâm thức. Mức độ tâm thức càng sâu bao nhiêu thì nhẫn các pháp càng dễ
bấy nhiêu, vì càng vào sâu bao nhiêu thì càng rời bỏ những thô kệch của căn
thân này bấy nhiêu, nên những pháp ngoại duyên bên ngoài tới như chuyện nóng
lạnh, đói rét, chửi bới, hoặc có người đến xin chân, tay, đầu, mắt, tủy, não
v.v… cũng không lay động được tâm vị hành giả ấy, vì ngài đã đi vào hạnh nhẫn
rất sầu rồi, không còn bị thân căn chi phối nữa.
KINH: Ngươi chớ đem tâm
có hạn lượng mà thật hành lục độ, trụ nơi thập địa, tịnh Phật độ, thờ thiện tri
thức.
GIẢNG: Vì vậy, không bao
giờ được đem tâm có hạn lượng có bờ mé (bờ mé đó dựng lên bởi cái ngã)
mà thật hành lục độ. Người tu hành bồ tát đạo không bao giờ khởi tâm có hạn
lượng, vì như vậy sẽ không đi được đến chỗ tuyệt vời, vô hạn lượng. Mục đích
của kinh Hoa Nghiêm là dạy chúng ta tu tập một tâm không bờ mé, không hạn
lượng, vì như vậy mới có thể hóa giải được không gian và thời gian thể nhập pháp
giới trọn vẹn được.
KINH: Tại sao vậy? Này
thiện nam tử, vì Bồ Tát phải gieo vô lượng thiện căn, phải chứa vô lượng Bồ Đề
cụ…
GIẢNG: Bồ đề cụ là dụng
cụ đi đến bồ đề tâm, như tu niệm lực, tín lực, định lực v.v. . đều là bồ đề cụ
cả. Trong đoạn kinh dài khoảng hai, ba trang này toàn nói đến chữ vô lượng cả,
chúng ta cứ thong dong đọc từng chữ để hiểu từng câu một.
KINH: Phải tu vô lượng
bồ đề nhơn, phải học vô lượng xảo hồi hướng…
GIẢNG: Xảo hồi hướng là
hồi hướng khéo. Như một người làm một việc thiện to lớn, nhưng người ấy chỉ hồi
hướng cho riêng mình, hay cùng lắm cho cha, mẹ, con cái mình thì đó gọi
là “hồi đại, hướng tiểu,” làm việc thiện lớn, nhưng chỉ được
công đức nhỏ. Trái lại, nếu làm một việc thiện nhỏ, như cho một con chó đói ăn,
hay cứu một con chim bị rơi từ trên cây xuống, nhưng lại dùng cái tâm vô Ịượng
hồi hướng, thì đó gọi là “hồi tiểu, hướng đại,” làm việc ấy
tuy căn lành nhỏ, nhưng công đức lại vô lượng. Như vậy có nghĩa rằng, đạo Phật
dạy chúng ta cách thăng hoa các công đức, do từ tâm vô lượng ấy.
KINH: Phải giáo hóa vô
lượng chúng sanh giới, phải biết vô lượng chúng sanh tâm, phải biết vô lượng
chúng sanh căn…
GIẢNG: Tâm và căn cơ của
chúng sanh thế nào Bồ Tát cũng phải biết.
KINH: Phải rõ vô lượng
chúng sanh giải.
GIẢNG: “Chúng
sanh giải” là lối nhìn của chúng sanh, tùy theo mức độ nhãn lực và trí
hiểu biết của chúng sanh. Bồ Tát phải biết tất cả những chúng sanh giải ấy, để
dễ độ sanh. Ngược lại, chúng ta thì khác, khi đến một đám đông nào, tranh luận
về một vấn đề gì đó, chúng ta thường chỉ chú trọng đến “kiến giải” (hiểu
biết) của mình thôi, khư khư cho là đúng, ít khi mở tâm rộng thêm để nghe
những kiến giải của người khác. Vì thế nên tâm mới hạn hẹp, không có được trí
sáng suốt. Còn như một người trí, khi nói đến kiến giải của mình, biết nói,
đồng thời cũng biết nghe, nên ít có sự tranh chấp, cãi nhau, có được tâm hồn
cởi mở để thu tiếp được những cái hay của người khác. Lên cao hơn ở bậc Bồ Tát
thì phải biết tất cả những chúng sanh giải là vì vậy, để tùy duyên độ sanh.
KINH: Phải quán vô lượng
chúng sanh hạnh, phải diều phục vô lượng chúng sanh, phải đoạn vô lượng phiền
não, phải tịnh vô lượng nghiệp tập, phải diệt vô lượng tà kiến, phải trừ vô
lượng tâm tạp nhiễm.
GIẢNG: Tâm như biển lớn,
tất cả nghiệp như những con sóng vì thế nó vô lượng, tà kiến cũng vậy, cũng vô
lượng.
KINH: Phải phát vô lượng
tâm thanh tịnh, phải nhổ vô lượng tên độc khổ.
GIẢNG: Tất cả khổ não
như những tên độc cắm vào chúng sanh, từ một cơn sân nổi lên, cũng khổ, si mê
ái kiến cũng khổ, tâm tham đắm tìm cầu cũng khổ v.v…
KINH: Phải cạn vô lượng
biển ái dục.
GIẢNG: Tham dục của
chúng sanh không cùng tận, được cái này thì lại muốn có cái khác, không bao giờ
dừng.
KINH: Phải phá vô lượng
tối vô minh, phải xô vô lượng núi ngã mạn.
GIẢNG: Ngã mạn của chúng
sanh như núi tu di, bời bời không dứt, mỗi một địa vị sinh ra một thứ ngã mạn.
Như một người muốn tu hành, đọc kinh kệ, thân tâm thanh tịnh được đôi chút, lúc
đó hành giả mới chỉ bỏ được ngã mạn thô thôi, lúc đó lại có thể khởi lên một
thứ ngã mạn tế vi khác, cho rằng ta thanh tịnh lắm rồi, không ai hơn ta cả.
Hoặc giả lại âm thầm so sánh mình với vị tu hành khác, rồi cho rằng mình hơn
người, giỏi hơn người v.v… Vì vậy, các tà niệm cứ bời bời như những đợt sóng
nhấp nhô, khi thô, khi tế, nó xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, mỗi đợt
sóng lại có một thứ ngã mạn riêng. Vì vậy, ngày xưa, các vị tu thiền như ngài
Huệ Khả là một vị đã đắc đạo rồi lại đem thân làm tôi tớ cho nhà người, cho
người ta sai phái, chửi bới, mắng mỏ, phần để trả bớt nghiệp, phần để dẹp trừ
bớt ngã mạn.
KINH: Phải dứt vô lượng
dây sanh tử.
GIẢNG: Dây nào cũng là
dây sanh tử, khởi một tâm niệm tham cũng là một sợi dây sanh tử, cột chúng ta
như những tờ giấy nợ ở bên Mỹ này. Khởi một tâm niệm sân cũng là một sợi dây
sanh tử, một tâm niệm ngã mạn v.v… ngay cả đến sự suy tư đắm pháp cũng là sợi
dây sanh tử cột chúng sanh lại chằng chịt như một cuộn chỉ rối.
KINH: Phải qua khỏi vô
lượng dòng hữu lậu.
GIẢNG: Tất cả những gì
cột chúng ta vào trong tam giới (dục giới, sắc giới, vô sắc giới) đều
là hữu lậu cả và khó nhất là vượt cái dục giới, rồi mới đến sắc giới và vô sắc
giới.
KINH: Phải khô vô lượng
biển thọ sanh.
GIẢNG: Tức là phải dứt
tất cả những sinh tử. Kinh cứ phải nhắc đi nhắc lại cho chúng ta nhớ. Biển thọ
sanh của chúng sanh trùng trùng điệp điệp, chúng sanh cứ lên xuống, thọ sanh
rất nhiều loài, thì phải làm khô biển sanh tử ấy, cũng là biển ái dục, biển ngã
mạn của chúng sanh.
KINH: Phải làm cho vô
lượng chúng sanh ra khỏi bùn lầy ngũ dục. Phải khiến vô lượng chúng sanh lìa
ngục tù tam giới, phải đặt vô lượng chúng sanh ở trong thánh đạo, phải tiêu
diệt vô lượng hạnh tham dục, phải trừ sạch vô lượng hạnh sân hận.
GIẢNG: Kinh bao giờ cũng
nhắc đi nhắc lại để mài tâm của chúng ta lặng lại, không còn nhấp nhô như sóng
ngoài biển cứ nhồi lên mãi.
KINH: Phải phá trừ vô
lượng hạnh ngu si. Phải siêu vô lượng lưới ma.
GIẢNG: Trong đời sống
hằng ngày chúng ta ít khi để ý, chứ chung quanh ta cái gì cũng là lưới ma cả,
từ tâm ngã mạn, tâm sân, tâm si, tâm thích mề đáy, tâm thích khen ngợi, tâm
ghét, tâm yêu v.v… đều là lưới ma cả.
KINH: Phải lìa vô lượng
nghiệp ma, phải rửa sạch Bồ Tát vô lượng dục lạc.
GIẢNG: Bồ Tát vô lượng
dục lạc là một thứ dục lạc cao. Như Ưa thích sự an lạc của thiền định thì cũng
phải lìa, nếu không thì sẽ rơi vào hàng Thanh Văn. Nên phải hiểu, dục và lạc có
nhiều mức độ như đi vào biển Không vậy.
KINH: Phải tăng trưởng
Bồ Tát vô lượng phương tiện.
GIẢNG: Dùng những phương
tiện thiện xảo hiểu tùy theo mỗi trường hợp để độ sanh ra sao.
KINH: Phải xuất sanh bồ
tát vô lượng căn tăng thượng.
GIẢNG: Phải bồi dưỡng
cho những căn tăng trưởng, làm cho tâm sáng ra, lớn ra. Như tín căn, định căn,
huệ căn v.v… Trong đạo Phật thường dùng những chữ rất cụ thể để nói đến những
cái vô hình. Vì thường chúng ta chỉ biết đến mấy căn thô kệch như mắt, mũi,
tai, lưỡi v.v…, nhưng ngoài ra, đạo Phật còn nói có nhiều thứ căn khác, như
lòng tin sâu chắc đến mức độ nào thì sẽ nở ra thành một căn, tuy không có hình
tướng thật, nhưng nếu có tâm nhãn sẽ nhìn thấy.
KINH: Phải sáng sạch Bồ
Tát vô lượng quyết định giải.
GIẢNG: Khi ta nói “tất
cả các pháp đều vô thường, tất cả các pháp đều khổ, không, vô ngã v.v…” đó
là quyết định giải. Hay nói một quyết định giải khác là tất cả các pháp đều duy
tâm sở hiện, đều do tâm mình mà ra. Bồ Tát phải luôn luôn quán chiếu như thế,
làm sáng sạch cái tâm ấy.
KINH: Phải xu nhập Bồ
Tát vô lượng bình đẳng.
GIẢNG: Phải giữ tâm lúc
nào cũng bình đẳng, nếu có một ngọn sóng gợn lên không bình đẳng thì phải dẹp
ngay.
KINH: Phải thanh tịnh Bồ
Tát vô lượng công đức, phài tu tập Bồ Tát vô lượng công hạnh, phải thị hiện bồ
tát vô lượng hạnh tùy thuận thế gian.
GIẢNG: Hạnh tùy thuận
thế gian là tùy theo chúng sanh thích điều gì thì phải tùy thuận theo ý muốn
đã, sau mới dạy dỗ được.
KINH: Phải sanh vô lượng
sức tịnh tín, phải trụ vô lượng sức tinh tân, phải thanh tịnh vô lượng sức
chánh niệm, phải thành mãn vô lượng sức tam muội, phải khởi vô lượng sức tịnh
huệ, phải kiên cế vô lượng sức thắng giải.
GIẢNG: Sức thắng giải là
hiểu rõ những pháp ấn then chốt.
KINH:Phải tích tập vô
lượng sức phước đức, phải lớn vô lượng sức trí tuệ, phải phát khởi vô lượng sức
Bồ Tát, phải viên mãn vô lượng sức Như Lai, phải phân biệt vô lượng pháp môn,
phải rõ biết vô lượng pháp môn, phải thanh tịnh vô lượng pháp môn, phải sanh vô
lượng pháp quang minh.
GIẢNG: ở đoạn kinh này
nói rõ tất cả các pháp đều là quang minh, mà Bồ Tát luôn luôn dùng quang minh
của tâm mình soi tất cả các pháp.
KINH: Phải làm vô lượng
pháp chiếu diệu.
GIẢNG: Tức dùng tâm mình
chiếu diệu tất cả các pháp, mà phải làm luôn luôn như thế mới gọi là vô lượng
được. Khi nào ta thấy một con chó què, một cái cây, một người, ngay cả những
vật nhơ uế thì phải hiểu ngay đó đều là quang minh của tâm thức sanh ra mà
thôi.
KINH: Phải chiếu vô
lượng phẩm loại tâm.
GIẢNG: Ở đây, kinh
nói có vô lượng tâm, vì chúng sanh vô lượng, có người thích cái này, kẻ kia lại
thích cái khác.
KINH: Phải biết vô lượng
phiền não bệnh, phải chúa vô lượng diệu pháp dược.
GIẢNG: Diệu pháp dược,
chắc quí vị cũng biết rồi, có nghĩa là người sân hận nhiều thì khuyên quán từ
bi, người si mê nhiều thì khuyên quán nhân duyên, cao hơn nữa thì khuyên quán
chiếu như huyễn v.v…
KINH: Phải chữa vô lượng
bệnh của chúng sanh, phải sám sửa vô lượng đồ cúng cam lộ.
GIẢNG: Bồ Tát phải dùng
tâm lực của mình hóa hiện tất cả các đồ cúng dường.
KINH: Phải đến vô lượng
phật độ, phải cúng dường vô lượng Như Lai, phải vào vô lượng Bồ Tát hội, phải
thọ vô lượng Phật giáo, phải nhẫn vô lượng tội chúng sanh.
GIẢNG: Bồ Tát phải nhẫn
hết những tội lỗi của chúng sanh, để xóa cái tự và cái tha, để tâm có thể trùm
khắp pháp giới này.
KINH: Phải diệt vô lượng
nạn ác đạo, phải khiến vô lượng chúng sanh về thiện đạo, phải dùng pháp tứ
nhiếp dể nhiếp vô lượng chúng sanh.
GIẢNG: Pháp tứ nhiếp là
bố thí, ái ngữ, đồng sự và lợi hành.
KINH: Phải tu vô lượng
môn tổng trì.
GIẢNG: Tổng trì tức là
biết tất cả các pháp.
KINH: Phải sanh vô lượng
môn đại nguyện, phải tu vô lượng sức đại từ, đại nguyện, phải siêng cầu phật
pháp thường không thôi dứt, phải khởi vô lượng sức tư duy, phải khởi vô lượng
sự thần thông.
GIẢNG: Bồ Tát luôn phải
có thần thông thì độ sanh mới được nhiều.
KINH: Phải tịnh vô lượng
trí quang minh, phải qua đến vô lượng loài chúng sanh, phải thọ vô lượng đời
trong các cõi.
GIẢNG: Bồ Tát dùng pháp
thân để thọ vô lượng đời trong các cõi để chỉ độ sanh mà thôi.
KINH: Phải hiện vô lượng
thân sai biệt.
GIẢNG: Trong đạo Phật,
điểm mà tôi mê nhất là điểm hình hài vô lượng. Tôi có làm một bài thơ về “Hình
hài vô lượng,” xin đọc cho quí vị nghe vài đoạn:
Hắn ước mơ được phân
thân thành vô lượng
Để ẩn mình từng hạt bụi, cánh hoa
Để có thể phất tung tà áo rộng
Quơ vào trong muôn ức ánh trăng sao
Khi tu lên một mức độ
cao thì có thể thu cả vũ trụ trong tay áo, chỗ này là điểm mà tôi mê nhất.
“Huyền hoặc cả mà thôi,
nhưng thực chẳng có gì huyền hoặc, vì cả thế gian này đều là tuồng huyễn hoặc
khôn nguôi.” Tất cả thế gian này đều là huyễn
hoặc, ngay cả đến vợ, con, thân bằng quyến thuộc, hay những vật ù lì nặng nề
nhất như trái đất này cũng chỉ là một tuồng huyễn hoặc. Vì nay đến, mai đi,
không có cái gì thực chắc lâu bền. “Nên hắn si ngây, tiếp tục mơ giấc
mơ hình hài vô lượng. ”
Để gieo mình nơi vô
lượng cuộc bể dâu… Riêng tôi, nhiều khi cứ thích
đắm mình đi vào những cảnh giới. Không biết sau này tâm mình có dám vào địa
ngục không thứ cảnh giới nào tôi cũng thích vào cả, vào đấy, thong dong làm
người khách lạ, không sợ hãi, không tham luyến, mà có một sự tự tại thênh thang
riêng của nó. Còn cứ mang thân máu mủ thô kệch này chỉ biết được một kiếp sống,
chứng nhân của một vài cảnh giới, một vài sự biến đổi, rất hạn hẹp mà khó có sự
tự tại được.
KINH: Phải nhập vô lượng
tâm sai biệt, phải biết Bồ Tát đại cảnh giới, phải trụ Bồ Tát đại cung điện.
GIẢNG: Bồ Tát đại cảnh
giới, Bồ Tát đại cung điện là tâm vị Bồ Tát lớn nên ánh ra y báo như vậy.
KINH: Phải quán Bồ Tát
thậm thâm diệu pháp, phải biết cảnh giới khó biết của Bồ Tát, phải thật hành
những hạnh khó làm của Bồ Tát.
GIẢNG: Những hạnh khó
làm của Bồ Tát như hạnh thí thân chẳng hạn.
KINH: Phải đầy đủ oai
đức tôn trọng của Bồ Tát…, phải hiện thần lực phổ biến của Bồ Tát,… (bỏ một đoạn kinh), phải vô biên kiếp cúng
dường vô lượng Phật, nghiêm tịnh bất khả thuyết Phật độ, xuất sanh bất khả
thuyết Bồ Tát nguyện…
GIẢNG: Đại khái như vậy,
tức là làm sao mài tâm mình đến mức vô lượng, vì không thể nào mang tâm hữu hạn
mà tu Bồ Tát hạnh (đễ vào những cảnh giới vô hạn) được.
KINH: Này thiện nam tử,
tóm lại phải khắp tu Bồ Tát hạnh, phải khắp giáo hóa chúng sanh giới, phải khắp
vào tất cả kiếp, phải khắp sanh tất cả xứ, phải khắp biết tâ’t cả thế (tam thế: quá khứ, hiện tại, vị lai), phải khắp thật hành tất cả pháp, phải khắp tịnh tất cả
cõi, phải khắp mân tất cả nguyện, phải khắp cúng tất cả Phật, phải khắp đổng
tất cả Bồ Tát nguyện, phải khắp thờ tất cả thiện tri thức.
GIẢNG: Đoạn này, sau khi
nói về Bồ Tát đạo thì ngài lại nói đến vị thiện tri thức thứ 50, và việc phải
cầu thiện tri thức thế nào? Tôi xin bỏ đi vài trang kinh…
KINH: Này thiện nam tử,
thiện tri thức như từ mẫu, (người mẹ hiền), vì xuất sanh Phật chủng. Như từ phụ (người cha nhân từ) vì lợi ích rộng
lớn. Như nhũ mẫu (người mẹ nuôi) vì thủ hộ chẳng cho làm ác. Như giáo sư, như đạo sư, như
lương y, như núi Tuyết Sơn vì tăng trưởng thuốc nhất thiết trí
GIẢNG: Ở núi Tuyết
Sơn mọc tất cả các loại cây thuốc. Các vị thiện tri thức cũng như vậy, khiến
người học có thể mọc tất cả những thiện căn, đồng thời mọc dược “nhất
thiết chủng trí.”
KINH: Này thiện nam tử,
thường phải chánh niệm suy nghĩ thiện tri thức là như vậy.
Này thiện nam tử, ngươi
kính thờ tất cả thiện tri thức phải phát tâm như đại địa, vì gánh vác trọng
nhiệm không mồi nhọc.
GIẢNG: Khi thờ thiện tri
thức, tâm hành giả phải như đất không mỏi nhọc.
KINH: Phải phát tâm như
Kim Cang vì trí nguyện kiên cố chẳng hư hoại, phải phát tâm như núi Thiết Vi vì
tất cả các sự khổ không lay động, phải phát tâm như người hầu hạ, vì đều tùy
thuận theo lời dạy, phải phát tâm như đệ tử vì không chống trái lời dạy bảo.
GIẢNG: Đệ là em, tử là
con. Trong sự tương quan đệ-tử ấy, như chúng ta là đệ tử của Phật, thì ngài coi
chúng ta như một người em, vì ngài đã giác ngộ trước, chúng ta là kẻ đi sau.
Nhưng chúng ta lại coi ngài như người cha, mà tự coi mình như một người con.
Thầy coi trò như người em, ví không có sự cao ngạo, nhưng trò lại coi thầy như
người cha, để tỏ hết lòng tôn kính của mình, nên gọi là “đệ tử.”
KINH: Phải phát tâm như
tôi tớ, vì tất cả lao vụ không nhàm, phải phát tâm như dưỡng mẫu vì chịu những
sự cần khổ không biết nhọc, phải phát tâm như người làm thuê vì không trái
chỗ sai bảo, phải phát tâm như người hốt phân vì lìa kiêu mạn, phải phát tâm
như cây lúa đã chín vì có thể hạ thấp, phải phát tâm như lương mã vì lìa ác
tánh, phải phát tâm như xe lớn vì có thể chở nặng, phải phát tâm như voi điều
thuận vì hằng phục tùng, phải phát tâm như núi Tu Di vì chẳng khuynh động, phải
phát tâm như lương khuyển vì chẳng phải hại chủ, phải phát tâm như Chiên Đà La
vì lìa kiêu mạn…
GIẢNG: Trong đoạn này,
ngài nói phải phát tâm rộng lớn bằng rất nhiều thí dụ khác nhau, cốt chỉ để mài
đi mài lại cho cái tâm càng ngày càng sáng vặ rộng lớn thôi.
KINH: Lại này thiện nam
tử, với tự thân ngươi phải tưởng là bệnh khổ.
GIẢNG: Phải hiểu rõ rằng
thân này lúc nào cũng khổ, không già thì bệnh, không bệnh thì chết v.v…
KINH: Lại phải nơi tự
thân tưởng là đi xa, nơi thiện tri thức tưởng là đạo sư. Lại nơi tự thân tưởng
cầu được độ, lại phải nơi tự thân tưởng là lúa mạ, nơi thiện tri thức tưởng là
Long Vương. Lại phải ở nơi tự thân tưởng là nghèo cùng, nơi
thiện tri thức tưởng là Tỳ Sa Môn.
GIẢNG: Tự thân mình phải
nghĩ mình là kẻ nghèo khó, còn thiện tri thức thì mưa vàng, bạc cho mình, tương
tự như Tỳ Sa Môn Thiên Vương vậy. Tất cả trong thế gian này, người nào được
giàu có đều do ngài Công Đức Thiên trên tầng trời Tứ Thiên Vương làm ra, ngài ở
trong cung điện Tỳ Sa Môn Thiên Vương. Nhưng trái lại, còn có một vị lên là Hắc
Ám Thiên luôn luôn đi kèm theo với ngài Công Đức Thiên, chuyên gieo tại họa.
KINH: Bấy giờ Thiện Tài
đồng tử nghe thiện tri thức có công đức như vậy, có thể khai thị vô lượng diệu
hạnh Hổ Tát, có thể thành tựu Phật pháp quảng đại, nên vui mùng hớn hở đảnh lễ
Đức Sanh và Hữu Đức, hữu nhiễu vô số vòng ân cần chiêm ngưỡng từ tạ đi qua
phương Nam. Thiện Tài được nghe lời thiện tri thức dạy nhuận trạch tâm mình..
GIẢNG: Nhuận trạch là
làm nhu nhuyễn, mềm mại, bóng sáng.
KINH: Chánh niệm tư duy
công hạnh của Bồ Tát. Tự nhờ đời trước chẳng tu hạnh lễ kính, tức thời phát tâm
cố gắng tiến bước.
GIẢNG: Thiện Tài vừa đi
vừa nghĩ kiếp trước mình tu thiếu điều gì bây giờ thì cố gắng làm thêm.
KINH: …(bỏ một đoạn kinh)… Đến nước Hải Ngạn, Thiện
Tài dùng tâm tôn trọng như vậy, cúng dường như vậy, xưng tán như vậy, quán sát
như vậy…
GIẢNG: Trong lúc đi
Thiện Tài nghĩ đến vị thiện tri thức mà ngài sắp đến gặp, dùng tâm tôn trọng,
cúng dường, xưng tán, quán sát v.v…
KINH: Nguyện lực như
vậy, tưởng niệm như vậy, vô lượng cảnh giới trí huệ như vậy, ở trước đại lâu
các Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng gieo năm vóc đảnh lễ, tạm thời nhiếp niệm tư
duy quán sát.
GIẢNG: Thiện Tài đến Hải
Ngạn ấy, thấy Lâu các đó rồi, nhưng không thấy ngài Di Lặc, đồng thời muốn vào
lâu các cũng không thể vào được. Nói một cách rõ hơn, Thiện Tài muốn vào cái
Bạch Tịnh Thức của ngài Di Lặc và muốn gặp ngài, tức là hình tướng thần hóa của
bạch tịnh thức ấy, thì Thiện Tài thực chưa vào nổi. Vì vậy Thiện Tài phải quì
mọp trước đại lâu các trang nghiêm, quán chiếu lâu mới có thể vào được. Trong
lúc Thiện Tài quán chiếu thì đắc được nhiều tam muội ghê gớm, tôi xin đọc lược…
KINH: Vì sức đại nguyện
tín giải sâu nên nhập môn trí huệ thân bình đẳng khắp tất cả xứ, hiện thân mình
ở khắp trước Như Lai, cũng hiện thân mình ở trước tất cả thánh chúng, tất cả
phụ mẫu, tất cả chúng sanh, tất cả chỗ Thiện Tài đều tôn trọng lễ bái tột vị
lai tế không thôi nghỉ, khắp hư không vì chẳng có biên lượng, khắp pháp giới vì
không có chướng ngại, khắp thiệt tế vì khắp tâ’t cả chỗ, khắp Như Lai vì vô
phân biệt, dường như bóng vì tùy trí hiện, dường như mộng vì từ tư duy khỏi,
giống như tượng vì thị hiện tất cả, dường như vang vì theo duyên mà phát, không
có sanh diệt vì xoay vần khởi diệt, không có tánh vì theo duyên mà chuyển.
GIẢNG: Thường thường
chúng ta trông các vật cứ lường là có sanh, diệt, nhưng chính các vật ấy chỉ có
xoay vần hiện lên thôi, rồi lại ẩn đi.
Tôi xin đọc đoạn sau
đây, chỉ có khoảng hai mươi câu nhưng tóm tắt tất cả bí ẩn của Hoa Nghiêm. Xin
quí vị lắng nghe…
KINH: Lại quyết định
biết tất cả báo đều do nghiệp, tất cả quả điều do nhân, tất cả nghiệp đều do
hoặc tập.
GIẢNG: Sở dĩ chúng ta
tạo nên nghiệp là vì hoặc lộp. Hoặc là mê hoặc của chúng sanh. Tập là tích lũy,
cũng còn gọi là tập quán. Trong đạo Phật dạy, tất cả những gì ở thế gian này,
không có một vật nào là thật có, sở dĩcó vật hiện lên là do tâm chúng sanh động
chiêu cảm khởi lên những thứ ấy rồi chấp rằng tất cả đều thật có, rằng có thật
cây kia, núi đó, người này là người nam, người kia là người nữ, ông A, bà B,
người này thì yêu mến, người kia thì ghét bỏ v.v… Tất cả đều do vọng tâm phân
biệt mà ra. Đạo Phật nói tất cả những thứ ấy đều do vô minh hoặc phát khởi. Vô
minh bắt đầu do chấp ròng ta cách biệt với pháp giới này. Tương tự như nhân
vật Diễn Nhã Đạt Đa trong kinh Lăng Nghiêm, cái ta lại quay đầu chiếu soi
chính nó để làm lóe ra tất cả pháp giới này, mà không biết rằng đó chỉ là ảo
ảnh. Vì vậy trong kinh mới nói, tất cả nghiệp đều do hoặc tập mà ra.
KINH: Tất cả Phật xuất
thế đều do đức tin.
GIẢNG: Tại sao Phật lại
phải xuất thế? Vì lúc bây giờ trong cõi đó, các chúng sanh căn lành thuần thục
rồi, nên chiêu cảm để Phật xuất hiện ra đời. Nếu chúng sanh căn lành chưa thuần
thục thì không bao giờ có Phật là cái quả nở ra cả. Như trong kiếp hoại, chúng
sanh trong kiếp đó trông thấy nhau chỉ muốn chém giết nhau, nên thời kỳ đó
không có Phật ra đời. Nhiều người không hiểu, cho rằng Phật không có lòng từ
bi, đáng lẽ lúc đó Phật phải ra đời để cứu độ chúng sanh cho bớt khổ chứ. Nhưng
thật ra, Phật xuất thế hay không như cái hoa nở vậy, phải có sự chiêu cảm của
chúng sanh, vì cho dù Phật có xuất thế trong kiếp hoại cũng không cứu được
chúng sanh, mà nếu Phật dùng thần lực cứu chúng sanh thì lại trái với luật tắc
nhân quả nghiệp báo, vì chúng sanh phải trả nghiệp của mình đã, rồi tu cho căn
lành thành thục, chín mùi, lúc bây giờ ngài Di Lặc xuất hiện. Phật xuất thế là
do đức tin, khi chúng sanh có đức tin nhiều thì Phật sẽ xuất thế.
KINH: Tất cả sự hóa hiện
cúng dường đều do quyết định giải.
GIẢNG: Thường các bậc
đại Bồ Tát khi cúng dường chỉ ngồi một chỗ, dùng tâm lực hiện các đồ cúng dường
chư Phật. Tại sao các ngài dùng tâm lực mà hóa hiện được? Vì các ngài có quyết
định giải, tin sâu rằng “duy tâm sở hiện” vì tâm vốn dĩ rất
bổn cụ, muốn hiện thức gì cũng được, ngay cả hóa hiện một sơn hà đại địa, một
cõi để cúng dường Phật cũng được.
KINH: Tất cả hóa Phật
đều do tâm cung kính.
GIẢNG: Ngài Ấn Quang
nói, tâm cung kính một phần thì được một phần thiện căn, nếu tâm cung kính mười
phân thì được mười phần thiện căn. Người lễ bái tu hành, tâm càng cung kính bao
nhiêu thì Phật càng dễ hiện ra bấy nhiêu.
KINH: Tất cả phật pháp
đều do thiện căn, tất cả hóa thân đều do phương tiện, tất cả Phật sự đều do đại
nguyện.
GIẢNG: Tất cả những Phật
sự đều do đại nguyện tu hành mà ra, nên phải hiểu nguyện lực rất ghê gớm, nó
còn hơn cả giới lực, định lực, và huệ lực nữa. Tất cả đại thừa đều nương trên
căn bản nguyện lực, và nguyện lực Ihường chiêu cảm thần lực rất lớn lao. Một
khi hành giả h.iy nghĩ hồi hướng đến pháp giới bao la bao nhiêu, thì pháp giới
ấy lại dội lại nhiều bấy nhiêu. Cho nên, tuy chúng ta tu hành kém cỏi, nhưng
nếu tâm luôn luôn có nguyện hồi hướng hết cho chúng sanh, thì pháp giới lại dội
lại rất nhiều.
KINH: Tất cả Bồ Tát tu
công hạnh đều do hồi hướng.
GIẢNG: Bồ Tát đạo là chỉ
có hồi hướng. Nên sự hồi hướng là một pháp đặc biệt độc đáo của Đại Thừa, vì
luật tác động dội lại liên miên không bao giờ dứt. Nên đi trên con đường Bồ Tát
đạo phải có nguyện trang nghiêm và hồi hướng rộng lớn tràn đầy pháp giới này.
KINH: Tất cả pháp giới
quảng đại trang nghiêm đều từ cảnh giới nhất thiết trí.
GIẢNG: Pháp giới quảng
đại trang nghiêm thế nào đi nữa cũng đều do chân tâm, do Phật tri kiến nở ra.
KINH: Rời đoạn kiến nên
biết hồi hướng.
GIẢNG: Thường đạo Phật
chê trách những người tu theo ngoại đạo là rơi vào đoạn kiến và thường kiến, và
dạy rằng, ta phải lìa thường kiến và đoạn kiến, ly đoạn kiến nên mới biết hồi
hướng. Một số ngoại đạo chủ trương rằng chết là hết, ngay thánh nhân cũng không
còn, điều đó là sai, vì giòng sinh hóa này vô tận, không thể nói đoạn, hay
thường. Một phái ngoại đạo khác lại bài bác nhân quả, cho rằng chẳng có quả
báo, nên không cần phải tu hành, nhân cũng không và quả cũng không. Đạo Phật
nói rằng, pháp giới này không phải thường, không phải đoạn, luôn luôn chuyển
biến mà không hết hẳn, nôn những việc mình tu hành sẽ còn lại dưới hình thức
của những chủng tử các thiện căn. cần phải mang những chủng tử ấy đi hồi hướng,
nên kinh mới nói, rời đoạn kiến nên biết hồi hướng.
KINH: Rời thường kiến
nên biết vô sanh.
GIẢNG: Một phái ngoại
đạo khác lại chấp vào thường kiến, cho là có ngã và thần ngã, cho thần ngã ấy
là thường, không thay đổi, vĩnh cửu hoài họài không bị hoại diệt, sanh từ Phạm
Thiên ra. Nhưng đạo Phật lại nói khác, nói rằng sự chấp thần ngã ấy cũng là chấp
ta. Vì không có một vị Phạm Thiên nào sanh ra ta cả. Và phải vượt lên trên Thần
Ngã mới nhập được thực tại cuối cùng và diệu tâm ấy vốn vô sanh. Không có vật
gì sanh ra vật gì, tất cả mọi vật đều khởi lên từ biển diệu tâm. Vì vậy, trong
Trung Quán Luân, ngài Long Thọ nói rằng: ”Mọi vật không phải tự sanh,
không phải tha sanh, không phải cộng sanh cũng không phải không nhân” mà
tất cả mọi vật có hình tướng đều chỉ hiện lên thôi, khởi lên từ vọng tưởng, mà
bản thể của nó chính là vô Manh.
KINH: Rời vô nhơn kiến
nên biết chánh nhơn.
GIẢNG: Tuy nói rằng
không có vật gì sanh ra vật gì, nhưng không phải vì thế mà nó là vô nhơn, nó
chỉ hiện lên do vọng hoặc duyên khởi. “Rời vô nhơn kiến nên biết chánh
nhơn” biết chánh nhơn tức là biết diệu tâm, biết vọng hoặc khởi lên
tất cả những thứ ấy, chỉ như mộng, như huyễn. Nhân đó chỉ là cơn mê sảng của
chúng sanh, và cũng chính cơn mê sảng ấy sinh ra pháp giới này.
KINH: Rời điên đảo kiến
nên biết như thật lý.
GIẢNG: Điên đảo kiến là
những cái không thường tưởng là thường, không có lại cho là có, khổ thì cho là
vui, không có ngã lại cho là có ngã, bất tịnh lại cho là tịnh v.v… Khi rời được
tất cả những điên đảo kiến ấy thì thấy được như thật lý, thấy được Niết Bàn,
chân, lạc, ngã, tịnh, thấy được diệu tâm.
KINH: Rời tự tại kiến
nên biết chẳng do nơi khác.
GIẢNG: Câu này chỉ là
lập lại câu trên. Ngoại đạo thường cho rằng có một vị Phạm Thiên (Thượng Đế) tự
tại sinh ra mọi vật. Khi hành giả vượt qua được những kiến chấp đó thì sẽ đến
được Tâm, thấy tất cả mọi vật không phải tự sanh, không phải tha sanh, không
phải cộng sanh cũng không phải không nhân. Nói tóm lại, không có một vật gì có
thể sanh ra được vật gì, vật đều là những hình bóng vọng tưởng mà thôi. Sở dĩ
chúng ta có thấy cái này sanh ra cái kia vì tâm thức chúng ta có những tập khí
của cơn mê sảng tích lũy từ nhiều đời, nên c ứ lưởng có vật này thực sự sanh ra
vật kia một cách chắc thật.
KINH: Rời tự tại kiến
nên biết chẳng do nơi khác.
GIẢNG: Những lời Kinh
thường rất cô đọng, và đôi khi lập đi lập lại, xoáy tâm thức người đọc vào. Đại
khái câu này cũng thế thôi, cũng chĩ dạy cho chúng ta biết không có tự, không
có tha, chỉ khởi lên từ Tâm.
KINH: Rời tự tha kiến
nên biết từ duyên khởi.
GIẢNG: Tự tha kiến là
không phải tự sanh, không phải ta cộng với cái khác mà sanh ra. Tất cả sanh ra
chỉ do sự tụ hợp các duyên trong sự khởi lên của vọng tưởng.
KINH: Rời biên chấp kiến
nên biết pháp giới vô biên.
GIẢNG: Rời biên chấp
kiến là những cái hữu biên hoặc vô biên, hoặc có hoặc không, hoặc đoạn hoặc
thường, hoặc lai hoặc khứ, hoặc dị hoặc nhất v.v… Tất cả những biên kiến ấy đều
phải lìa thì mới biết được pháp giớị như như tịch tĩnh.
KINH: Rời vãng lai kiến
nên biết ảnh tượng.
GIẢNG: Chúng ta thấy vật
gì cứ cho rằng vật này ở chổ kia đến, sau khi nó qua rồi thì cho rằng nó đã đi
qua. Dó gọi là vãng lại kiến. Nhưng trong kinh nói rằng chẳng chỗ đến, có đi,
vật đủ duyên thì hiện ra. Nên tất cả chỉ là ảnh tượng.
KINH: Rời hữu vô kiến
nên biết chẳng sanh diệt.
GIẢNG: Hữu vô là có
không, trong luận tứ cú của đạo Phật. Bồ Tát biết chẳng có, chẳng không, chẳng
thật, chẳng hư nên Bồ Tát rời được sanh diệt, vào vô sanh.
KINH: Rời nhất thiết
pháp kiến nên biết không vô sanh.
GIẢNG: Nếu ta để ý, sẽ
thấy những câu trong kinh toàn là những “công án” cả, nhiều
khi suy nghĩ cả đời cũng chẳng tỏ được mấy đỗi. “Nhất thiết” là
tất cả. “Pháp” là pháp. “Kiến” là thấy. Người
thấy tất cả pháp là người thấy vô pháp, tức là vị đó đắc quả vào Niết Bàn rồi.
Đạo Phật bao giờ cũng dạy như vậy, từ cực độ này, chuyển hóa thành cực độ kia.
Cực độ có chuyển thành Không, và ngược lại, dung thông vô ngại. Câu kinh này ý
muốn nói vị Bồ Tát vào niết bàn ấy rồi, nhưng không trụ trong Niết Bàn, không
hưởng niềm an lạc của niết bàn, rời bỏ cái Không hải ấy để khởi tâm quán giả,
vào giả, khởi đại bi để độ sanh.
KINH: nên biết chẳng tự
tại…
GIẢNG: Bồ Tát ngồi trong
niết bàn ấy có tự tại lực nên đi vào trong các nèo để độ sanh.
KINH: Nên biết do nguyện
lực xuất sanh…
GIẢNG: Biết rằng đại bi
là do nguyện lực xuất sanh, Bồ Tát không chứng thiệt tế, không an trụ trong
niết bàn, mà luôn luôn nhớ bi nguyện từ nhiều kiếp, khởi đại bi tâm thọ sanh để
độ sanh, vì vậy nên bỏ niềm tự tại của mình.
KINH: Rời nhất thiết
tướng kiến nên nhập vô tướng tế.
GIẢNG: Vẫn thế, vẫn
chuyển từ cái có vô lượng đến cái Không. Bồ Tát được nhất thiết tướng kiến,
thấy tất cả các tướng, các pháp rồi, lúc đó sẽ lại chuyển sang vô lướng.
KINH: Vì biết tất cả
pháp như hột giống nảy mầm, như ấn sanh văn.
GIẢNG: Do có hột giống
chủng tử trong tàng thức nở ra, (tôi vẫn nói như cái hoa nở ra pháp giới
này.) “ấn sinh ra” là khi tâm ấn vào tâm thì hiện lên cảnh
giới. Nói tóm lại, nó là như huyễn. Tâm chúng sanh như cái ấn của nhà vua, in
thành chữ, vì khi tâm phân biệt khởi lên thế nào thì ấn vào không hải khởi iên
những cảnh giới như vậy.
KINH: Vì biết chất như
tượng, biết thanh âm như vang, biết cảnh như mộng, biết nghiệp như huyễn, rõ
đời do tâm hiện, quả do nhơn khởi, quả báo do nghiệp tập.
GIẢNG: Tất cả cảnh giới
thế gian đều do tâm hiện. Đoạn kinh này, theo ý tôi là khó nhất, vì văn chương
trong kinh nhiều chữ cô đọng quá. Lời kinh thường cô đọng thế, để cho chúng ta
suy nghĩ chán chê mê mỏi đến một lúc nào đó thì tâm thức vỡ ra, mới có thể hiểu
được đôi phần, chứ cứ nói sẵn hết thì không bao giờ ta chịu suy nghĩ để thấm
kinh cả.
KINH: Thiện Tài đổng tử
nhập quán trí như vậy, đoan tâm khiết niệm, ở trước lâu các mọp lạy sát đất,
bất tư nghi thiện căn luU chú thân tâm mát mẻ thơi thới.
GIẢNG: Thiện căn tức là
những luồng tâm lực của mình rung động theo một nhịp điệu nào đó, luân lưu
trong tâm thức khiến tâm thức luôn được mát mẻ khinh an.
KINH: Rồi đứng dậy chiêm
ngưỡng, mắt không tạm rời, chắp tay hữu nhiễu vô lượng vòng. Tự nghĩ rằng…
GIẢNG: Sau khi Thiện Tài
quán chiếu như thế lâu rồi, thì đến giai đoạn tán thán ngài Di Lặc. Trong sự
tán thán ấy, có từng bậc thang đi lên. Tôi xin đọc qua một đoạn…
KINH: Đại lâu các này là
chỗ ở của bậc đạt Không, vô tướng, vô nguyện. Là chỗ ở của bực nhất thiết
pháp vô phân biệt, là chỗ ở của bậc rõ pháp giới vô sai biệt, lâ chỗ ở của
bậc biết tất cả chúng sanh bất khả dắc.
GIẢNG: Biết tất cả pháp
cùng chúng sanh đều là không, đều là huyễn mộng.
KINH: Là chỗ ở của bậc
biết tất cả pháp vô sanh, là chỗ ở của bậc chẳng tham chấp tất cả thế gian, là
chỗ ờ của bậc chẳng tham chấp tất cả nhà của, là chỗ ở của bậc chẳng thích tất
cả tụ lạc.
GIẢNG: Tụ lạc là gì?
Thân căn là một thứ tụ lạc, thân chúng ta có được là do tất cả các tế bào do
nghiệp báo khởi lên, tụ lại thành một thân. Căn cũng là một thứ tụ lạc, như
nhãn căn là một nơi tụ lạc qua lại của tất cả các quang minh, nó như một cái
cửa thành vậy. Nên trong dạo Phật có một pháp gọi là pháp hiệp và pháp tan, khi
đủ nhân duyên, nó tụ lại thành một pháp, khi hết nhân duyên rồi lại tan đi.
HỎI: Xin ông giải thích
lại cho, tụ lạc là gì tôi vẫn
chưa hiểu?
ĐÁP: Nói một cách nôm
na, tụ lạc là thôn xóm. Tôi vẫn nói thân của
mỗi một chúng sanh giống như cái tỉnh Los Angeles, là thôn xóm của những con hộ
trùng, sáng dậy, những con thi trùng bò lổm ngổm mỗi đứa đều có việc riêng của
nó, chúng ta cứ tưởng chúng ta ăn, chúng ta đói, chúng ta làm việc, chúng ta
vui cười v.v…. nhưng chính thật đều là những con thi trùng trong người nó đòi
hỏi mà chúng ta hoàn toàn không biết.
KINH: Là chỗ ở của bậc
chẳng dựa tất cả cảnh giới, là chỗ ở của bậc lìa tất cả tưởng.
GIẢNG: Nguyên đoạn kinh
trên đây, nói về giai đoạn đầu của quán Không, còn đoạn kinh sau thì nói về
quán Giả và quán Trung.
KINH: Là chỗ ở của bậc
biết tất cả pháp không tự tánh, là chỗ ở của bậc dứt tất cả nghiệp phân biệt,
là chỗ ở của bậc lìa tất cả tưởng, tâm, ý, thức, là chỗ ở của bậc chẳng nhập,
chẳng xuất tất cả đạo, là chỗ ở của bậc nhập thậm thâm bát nhã ba la mật, là
chỗ ở của bậc hay dùng phương tiện trụ phổ môn pháp giới, là chỗ ở của bậc tắt
dứt tất cả lửa phiền não, là chỗ ở của bực dùng tăng thượng huệ dứt trừ tất cả
kiến, ái, mạn…
GIẢNG: Tất cả đoạn kinh
này đều nói đi vào Không. Sau đây sang đến quán giả và quán trung. Tôi xin đọc
lược…
KINH: Là chỗ ở của bậc
xuất sanh tất cả thiền, giải thoát, tam muội, thông sáng và du hí trong đó.
GIẢNG: Ngài dạy Bồ Tát
phải đi vào thiền, giải thoát, tam muội v.v… đi vào giả, hóa hiện các cảnh giới
để du hí trong việc độ sanh.
KINH: Là chỗ ở của bậc
cảnh giới tam muội của tất cả Bồ Tát.
GIẢNG: Đoạn này cũng là
dạy quán giả.
KINH: Là chỗ ở của bậc
an trụ chỗ của tất cả Như Lai.
GIẢNG: Tức là chư Như
Lai hiện thân để độ sanh.
KINH: Là chỗ ở của bậc
đem một kiếp vào tất cả kiếp, đem tất cả kiếp vào một kiếp mà không hư tướng
thời gian.
GIẢNG: Dùng tâm lực mình
hóa giải thời gian để độ sanh.
KINH: Là chỗ ở của bậc
đem một thế giới vào tất cả thế giới, đem tất cả thế giới vào một thế giới mà
chẳng hoại tướng không gian.
GIẢNG: Dùng tâm đại bi
mà hóa giải không gian, tức là vẫn quán giả và quán trung.
KINH: Là chỗ ở của bậc
đem một pháp vào tất cả pháp, đem tất cả pháp vào một pháp mà chẳng hư hoại
tướng của pháp. Là chỗ ở của bậc đem một chúng sanh vào tất cả chúng sanh, đem
tất cả chúng sanh vào một chúng sanh mà không hư tướng chúng sanh.
GIẢNG: Đoạn kinh này nói
khởi tất cả các thứ tướng do lòng đại bi để độ sanh…
Thôi cũng đã hết giờ,
xin tạm ngừng nơi đây. Hẹn quí vị kỳ giảng sau.
Xin cảm ơn quí vị…
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
Ngày 11 tháng 11 năm 1990
Tôi rất lấy làm mừng vì hôm
nay là ngày chúng ta tái ngộ sau ba tháng nghỉ xả hơi. Tôi cũng mong rằng sau
này chúng ta sẽ cùng hẹn nhau những ngày hội ngộ lớn hơn nữa, hội ngộ ở những
kiếp khác và cõi khác, hay hội ngộ ở nơi Cực Lạc. Quí vị đừng cho như thế là
hoang đường và vu khoát đâu. Vì nếu ta thành tâm ước muốn như thế thì chắc
rằng, sau này, chúng ta sẽ cùng hội ngộ bên Cực Lạc.
Giáo lý của chư Phật thường
gọi là “thậm thâm vi diệu pháp.” Ngày xưa tôi cứ hoài nghi mãi
những chữ ấy, nhưng sau càng đọc, càng thấy đúng. Vì chỉ có giáo lý ấy mới
nói rõ được bí ẩn của pháp giới này, nói rõ được bí ẩn của chính mình, của
chúng sanh và sự luân hồi. Trong pháp hội này, chúng ta phần nhiều là những
người đã lớn tuổi, bệnh tật cũng nhiều, hoạn nạn cũng nhiều. Nhưng nếu chúng ta
chịu khó suy nghĩ sẽ thấy trong pháp giới
này, biết bao nhiêu người bệnh tật, biết bao nhiêu người đau khổ, biệt ly, hoạn
nạn v.v… thì nếu chúng ta có bị đôi chút thì cũng nên hoan hỉ nhận điều ấy. Vì
không có lẽ chúng ta không chịu nhận cái phần tội lỗi, bệnh tật của mình? Những
người khác còn bệnh tật hơn chúng ta nhiều, còn bị chia ly hơn chúng ta nhiều.
Có những gia đình đi di cư chết một nửa. Nhân loại đau khổ đến thế, nên phải
hiểu đã mang cái thân máu thịt này, thì không lúc nào không có bệnh, không lúc
nào đời sống không bấp bênh, nên chúng ta cần luôn nhớ rằng, nhân loại này đau
khổ nhiều, chìm đắm nhiều thì không lẽ chúng ta lại không chịu nhận cái phần
hoạn nạn của mình sao? Khi nghĩ được như vậy, tâm chúng ta sẽ an nhiên được vài
phần, mà chúng ta lại biết chắc rằng, dù hoạn nạn, bệnh tật đến đâu thì chỉ
chết là cùng, mà sắc thân này vốn đã là huyễn mộng, còn giới thân huệ mạng của
ta không thể chết được.
Hôm nay trước khi giảng
tiếp phần nhập pháp giới của kinh Hoa Nghiêm, tôi muốn cùng quí vị kiểm điểm sơ
lược lại những giáo lý khác, từ Khổng Giáo, Thần Tiên Giáo, Hồi Giáo, Ấn Độ
Giáo, Cơ Đốc giáo, và ngay cả triết học và khoa học để quí vị thấy tại sao đức
Phật nói giáo lý của ngài là một giáo lý thậm thâm vi diệu…
Chúng ta là những người
có túc duyên lớn, gặp được giáo lý đại thừa của chư Phật, lại có thể hiểu được
đôi chút, nên cần suy tư về những sự vi diệu ấy, thì sẽ làm tăng trưởng công
đức lên nhiều.
Bắt đầu là Khổng Giáo,
đó là đạo cho “Nhân thừa,” dạy chúng ta làm người tốt, một
quân tử. Khổng giáo chỉ nhằm dạy chúng ta những phép cư xử ở thế gian này,
không hơn. Trong khi đạo Phật dạy chúng ta pháp xuất thế gian, đồng thời cũng
dạy những pháp nhập thế tích cực để đi vào Đạo. Đạo Khổng chỉ dạy tam cương,
quân, thần, phụ tử, phu, phụ, (vua và bầy tôi, vợ và chồng, cha mẹ và con cái),
ngũ thường là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Tất cả những thứ ấy đều dạy chúng ta
làm một người tốt, một người quân tử. Quân tử, là một loại người có nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín, giữ được tam cương, đồng thời “hòa nhi bất đồng.” Hòa
tức là hòa đồng với tất cả mọi người nhưng không giống họ. Còn kẻ tiểu nhân
là “đồng nhi bất hòa” vì những người tiểu nhân đều giống nhau,
đều tật đố, vênh vang, tham lam, thích cãi cọ v.v… rất giống nhau nhưng lại
không hòa được với nhau. Tóm lại, đạo Khổng dạy về nhân thừa, đạo làm người, mà
không có phương pháp nào dạy xuất thế. Tới khi cuối đời, ngài Khổng Tử gặp ngài
Lão Tử, thì Khổng Tử phải kêu lên rằng: “Lão Tử như con Rồng, ta không
thể bì kịp…” Vì ngài hiểu như thế nên ngài không thể nói xa hơn, hoặc
có lẽ nhiệm vụ của ngài, hạnh nguyện của ngài chỉ nói đến đó thôi…
Cao hơn một chút là Thần
Tiên giáo, người Trung Hoa vẫn gọi là Lão Giáo, nhưng chính ra Thần Tiên phái
không phải của Lão Tử, vì ngài Lão Tử là một vị Bích Chi Phật.
Sau này, Trang Tử, hay
những vị tu tiên khác, đặt ra Thần Tiên Phái. Trong kinh Lăng Nghiêm nói, những
người tu tiên là tu theo vọng niệm, tức là muốn kiên cố cái hình hài này, mà
hình hài này là một vọng tưởng, như vậy, Thần Tiên Phái tu theo vọng niệm, muốn
kiên cố một thứ phù du. Trong Kinh Lăng Nghiêm nói rõ, có những vị luyện đơn,
hay dùng những kỳ hoa, dị thảo, uống vào để luyện tinh khí mình thăng hoa, để
mong giữ thân xác này không già, có thể trường sinh được vài ngàn năm. Trong
khi đạo Phật lại coi cái đó rất thường, hai, ba ngàn năm thì cũng như một trăm
năm thôi, sau cũng phải hoại diệt. Nên đạo Phật dạy cho chúng ta mở một cánh
cửa bất tử khác, cao sâu hơn, đó là cánh cửa thể nhập vào Tâm, vào pháp giới
này… Thêm nữa, vấn đề đặt ra là những vị thần tiên ấy sau khi chết sẽ thọ sanh
ở đâu? Các vị đó sẽ chỉ thọ sanh nơi trung giới, tức là khoảng từ quả đất này, lên
đến mặt trời, mặt trăng, chứ chưa lên được đến Chư Thiên nữa.
Chúng ta nên nhớ một
điều là tất cả các giáo lý, từ cao, sâu, nông, thấp v.v… đều do nhãn lực hay
tam muội nông sâu của vị giáo chủ đó nhìn thấy. Khi vị giáo chủ ấy vào tam muội
sâu bao nhiêu, thì giáo lý vị đó càng rộng, càng cao, nhìn được xa hơn, có thể
có thiên nhãn, huệ nhãn v.v…, còn vào tam muội nông, thì chỉ nhìn thấy được một
khúc ngắn thôi, nên giáo lý ấy cũng thấp, nông cạn.
Trong đạo Phật, đức Phật
dạy rằng, có vô lượng thứ tam muội, nhưng tam muội nào rốt cục cũng quy
về Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, cũng là Chân Như Tam
Muội, cũng là Như Huyễn Tam Muội và cũng là Kim
Cang Tam Muội. Nếu có thay đổi thì chỉ thay đổi đôi chút về hành xứ,
nhịp điệu rung chuyển của tâm của thức, óng ánh ra những sự hiểu biết khác, chứ
thực ra thì vẫn là Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Đức Phật vào
chánh định “vô trụ” đó, nên ngài có được ngũ nhãn, nhìn thấy tất cả những bí ẩn
lắt lay của pháp giới này. Trong khi những tôn giáo khác, không một tôn giáo
nào có đủ ngũ nhãn, cũng không có vị giáo chủ nào vào được tam muội vô trụ ấy.
Như Ấn Độ giáo là một giáo lý cao, nhưng trong đó chỉ nói có hai thứ tam muội,
một là “tam muội có đối tượng,” hai là “tam muội không
có đối tượng.” Tóm lại, các giáo lý, nông sâu đều qui vào mức tam
muội, và ngũ nhãn.
Trong kinh Đại Bát Nhã,
Phật dạy, nếu các ông muốn có ngũ nhãn thời phải tu tập bát nhã ba la mật.
Trong khi, Ấn Độ giáo chỉ nói đến Thiên Nhãn thôi, rồi dùng
Thiên Nhãn ấy, có thể nhìn được tầng trời Phạm Thiên. Và các vị ngoại đạo tu
tập thiền định tam muội, lúc chết thọ sanh lên cõi trời Phạm
Thiên, ngồi đó, nhìn thấy vị Phạm Thiên Vương hào quang sáng chói, biến hiện tự
tại, nên các vị tu sĩ Ấn Độ giáo khởi tâm tà kiến nghĩ lầm rằng vị này sanh ra
thế giới này. (Nhà Phật gọi đó là “tam muội đảo điên.”) Rồi
cho rằng vị Phạm Thiên Vương đó là Thượng Đế… Bước sang Hồi giáo, các vị tu
theo Hồi giáo không có tam muội, chỉ có những giây phút xuất thần, nhìn thấy
được Thiên Thần và một số cảnh Trời. Rồi giáo chủ Mohamet nhận mình là Tiên
Tri, cho rằng đức Christ cũng chỉ là bậc tiên tri mà thôi. Giáo điều trong Hồi
giáo đưa ra là: “Những người nào đi chinh chiến giết quân thù, giết những
người không phải Hồi giáo, những kẻ đó sẽ được sanh lên Thiên Đường.” Vậy,
Thiên Đường đó là gì? Đó là những vườn cây đẹp, với những võng rất đẹp, lớn,
đầy hoa, mà có nhiều Thiên Nữ chào đón mình. Nếu kiểm chứng các cõi trời Phật
dạy trong kinh, thì Thiên Đường đó chính là cõi trời của A-Tu-La. A-Tu-La là
những người hiếu chiến, nhưng rất hào hiệp, bố thí rất nhiều mới được sinh vào
loài này. Thiên nữ A-Tu-La rất đẹp. Cõi trời A-Tu-La nằm dưới cõi trời Đao Lợi.
Nên cứu cánh thiên đường của những người theo hồi giáo chỉ đến đó thôi.
Đạo Phật có cái hay nhất
là mô tả rõ tất cả, và soi sáng cho chúng ta hiểu rõ mức độ nông sâu của thế
giới này. Đọc đạo Phật rồi, khi nhìn tất cả đạo khác, ta sẽ thấy rất rõ tùy
theo mức độ tâm thức của vị giáo chủ ấy đi sâu đến độ nào. Ngược lại,những
người ở tôn giáo khác, đọc đạo Phật lại thấy mờ mịt, không hiểu gì mấy.
Còn về Cơ Đốc giáo thì
Thiên Đường của họ cao hơn, nhưng vẫn không có tam muội lớn. Chỉ có Thánh Joan
ngồi trên một hòn đảo, giây phút xuất thần nhìn được một khung cảnh trời dục
giới, nên viết ra cuốn Apocalypse. Mặc dù đức Christ là một vị
Bồ Tát khá cao, nhưng ngài chỉ nói đến vậy thôi. Còn những giáo sĩ của họ lại
nói thấp xuống hơn nữa. Cứ nói là Thiên Đường Vĩnh Cửu, hay
vào Địa Ngục Vĩnh Cửu. Vì sao? Vì chúng sanh chỉ cần biết như
thế thôi, căn cơ hạn hẹp, chỉ muốn nghe đến một giáo điều đơn giản, hoặc hoàn
toàn nương vào một đấng thần linh nào đó để khỏi phải suy nghĩ. Trái lại, trong
đạo Phật, phải triển khai trí huệ, phải vượt lên nữa, đến tầng trời sắc giới,
rồi vô sắc giới. Lên đến đây, cũng chưa ăn thua gì, phải ra khỏi ba cõi, ra
khỏi cả Đại Thiên thế giới, đứng nhìn tất cả thế giới khác, rồi thu tất cả thế
giới ấy vào trong thân tâm của mình. Bấy nhiêu cũng đủ thấy sự mênh mang của
đạo Phật đến độ nào.
Chúng ta là những người,
tuy rằng phiền não chất ngất, vô minh còn dầy đặc, tham, sân, si còn nhiều,
nhưng chúng ta tin được những điều đó thì đủ biết túc duyên rất hy hữu. Vì tôi
đi thuyết pháp nhiều nơi, tôi thấy không có mấy người tin được Đại Thừa, và cũng
không có mấy người hiểu, vì nó mênh mang quá.
Còn thiên đường của Ấn
Độ giáo là vào cõi sắc giới và cõi vô sắc giới. Vì vậy, đức Phật mới thị hiện
thọ sanh bên Ấn, vì để giáo hóa ngoại đạo, vì họ rất chịu khó tu tập, nhưng chỉ
lên được đến tầng trời cõi sắc và cõi vô sắc thôi, rồi dừng ở đó, tưởng đó là
Niết Bàn, là giải thoát rồi.
Nay, nói đến triết học
của thế gian và khoa học. Ta thấy rằng tất cả những thứ ấy đều nằm trong lưới
của vọng thức, chính họ cũng không hay biết. Tôi nghĩ, một người học Phật nếu
nói về khoa học, phải biết thâu tóm tất cả pháp thế gian vào trong pháp của chư
Phật, vì tất cả những thứ đó đều là vọng thức, đều là kết quả của ý thức thứ
sáu, và của đôi mắt thịt. Ngay như nhà khoa học nổi tiếng Enstein, cũng chỉ có
một đôi mắt thịt, với bộ óc suy tư bằng ý thức thứ sáu, chưa vào được tiềm
thức, chưa vào được vô thức, chưa tập thiền, chưa có đến thiên nhãn nữa. Nên
cũng chỉ nhìn được một khúc của pháp giới thôi; Rõ rệt là tất cả những gì ông
nghĩ ra cũng không hơn gì chúng ta lắm, một chút thông minh hơn, quan sát sắc
bén hơn, sử dụng chất xám nhiều hơn, biết phương trình toán nhiều hơn, biết lý
luận trên sự kiện trong pháp giới hơn v.v…, rồi nghĩ ra một màng lưới của vọng
thức mà thôi, vẫn còn rơi vào trong vòng nhị biên, có đối đãi, có ta và không
ta.
Nay, nói đến triết học,
thứ triết học ngày xưa cao siêu nhất của Tây Phương là Platon, nó là cha đẻ của
những triết học tây phương sau này. Platon chê thế giới của cảm giác, tức là
ông ta chê thọ ấm, thì cái đó đúng như trong nhà Phật đã nói, rồi Platon lại
nói rằng, trên thế giới của cảm giác còn có một thế giới nữa đó là thế giới của
ý niệm, tức là thế giới của tâm tưởng, như vậy ông đã vào đến tưởng ấm. Nhưng
đến đây thì ngừng lại, và bảo rằng thế giới này là cao siêu nhất, là cuối cùng,
là đến mức tuyệt đối rồi. Tức là ông đã đi qua được thọ ấm, vào được đến tưởng
ấm, mà không vào được đến tưởng ấm, mà không vào được đến hành ấm và thức ấm.
Còn Aristos, Descartes v.v… thì còn thấp hơn nữa. Nhưng không phải thế mà người
đời không sùng mộ, vì sao? Vì người đời đa số chỉ hiểu được
đến đó thôi. Nên có những phong trào Đạo chỉ nói đến những gì rất thấp, ngay cả
đưa vàọ giáo điều những sự thiển cận, láo lếu thì thiên hạ họ lại theo ùn ùn,
còn những kinh cao siêu mầu nhiệm của Đại Thừa thì họ lại ngại, bỏ đi hết.
Nên phải hiểu rằng,
các “tà sư” bây giờ, tất cả những vị nào tự xưng mình là gì
gì, rồi chỉ nói đến giáo lý thiển cận, cầu mong được cái này, cái nọ v.v…, đều
là những người ĐẠI VỌNG NGỮ. Như có vị tự xưng mình là Ngọc Hoàng Thượng Đế, có
vị tự xưng là Pháp Hoa Giáo Chủ, là Di Lặc xuất thế v.v… nhưng cuối cùng chẳng
thấy gì khá cả, chỉ thấy lấy nhiều vợ, sinh con đẻ cái, làm những chuyện dâm
dục, mà nói pháp thì chỉ tưởng tượng ra mà nói. Có thể những người đó có một
chút ma lực hỗ trợ, nói pháp vẫn có người nghe, và mê hoặc được ít người khác.
Trở lại vấn đề triết
học, chúng ta thấy rằng không có một triết gia nào hiểu về “tứ cú” cả (có,
không, cũng có cũng không, chẳng có chẳng không), không ai có thể hiểu rằng,
thế giới này có thể là có, có thể là không, có thể là cũng có cũng không, có
thể là chẳng có chẳng không, cũng có thể là không không, tùy theo tâm thức lắt
lay của từng chúng sanh mà thôi. Chỉ có mỗi Sartre nói được một câu:
“Tâm thức của con người
rỗng lặng, mà nó có khả năng rất kỳ diệu, có thể hư vô hóa sự vật,” nhưng sau
đó lại không triển khai được gì.
Bây giờ nói đến khoa
học. Chúng ta ai cũng sùng bái khoa học, vì khoa học đi vào ngoại giới khá sâu,
cái “ghê gớm” nhất của nó là tạo được một vài thần thông nho nhỏ sáng chế ra
các thứ máy, như xe hơi, máy bay, điện thoại, Computer và nhiều thứ khác. Nhưng
nếu nghĩ kỹ thì khoa học chỉ có thể tạo những tiện nghi cho thể xác này thôi,
không thể tạo được sự bình an cho tâm hồn. Và khoa học càng tiến bao nhiêu thì
tâm hồn chúng ta càng lắt lay bấy nhiêu, càng thấy chênh vênh và nhiều phiền
toái bấy nhiêu. Suy nghĩ kỹ hơn sẽ thấy rằng khoa học giải quyết “chân lý” có
tính cách rất giai đoạn, không có gì gọi là tuyệt đối cả, chỉ
là một chân lý tương đối thôi.
Thí dụ như ngày xưa, khoa
học tin rằng pháp giới chỉ có một trái đất này thôi, nhưng đến bây giờ, lại
thấy có rất nhiều thái dương hệ, mà trong một thái dương hệ có rất nhiều hành
tinh quay chung quanh. Ngày xưa, cũng nghĩ rằng chỉ có một kiếp thôi, sống xong
rồi, chết đi là hết, đi vào hư vô, đoạn diệt hết. Nhưng bây giờ, có nhiều sách
thần bí học nói đến nhiều kiếp khác, lại có nhưng vị bác sĩ thu thập chứng nhân
của những người chết rồi trở lại, hay họ dùng thôi miên để khiến người bệnh trở
về những kiếp trước, nên một số y sĩ công nhận còn có những kiếp khác nữa. Dân
chúng tây phương, dần dần hơi tin rằng còn có kiếp khác, có cõi khác…
Lại có những điều giáo
lý nhà Phật nói từ lâu xa rồi, khoa học cần phải đến cả trăm năm mới thấy. Như
cách đây khoảng bốn mươi, năm mươi năm, khoa học đi vào lãnh vực của hạt tử, họ
hăm hở đi kiếm một hạt tử cuối cùng, lấy đó làm viên gạch cơ bản để vẽ cái mô
hình của pháp giới này. Bắt đầu họ thấy được nguyên tử, tưởng đó là mức cùng
tận rồi, nhưng xăm soi mãi, (vọng thức nổi lên), thì lại thấy có nhiềụ dương
điện tử, âm điện tử và những hạt neutron, rồi lại cho đó là viên gạch cuối
cùng, nhưng cũng … không phải. Rồi lại tìm kiếm mãi, bây giờ thấy được khoảng
hai trăm thứ hạt tử khác nhau, mà mỗi hạt tử ngày càng biến ảo kỳ diệu, có thứ
chỉ tồn tại trong một phần tỷ giây đồng hồ thôi rồi biến mất. Lúc này, khoa học
bị rơi vào một vũng lầy, không biết được thế nào là đúng nữa, vì càng đi sâu
bao nhiêu, nó lại càng biến ảo bấy nhiêu. Nhưngg trong kinh Lăng Già nói khơi
khơi từ lâu rồi, Phật dạy rằng “Cho đến vi trần, phân tích tìm cầu trọn
không thể được” (kinh Lăng Già, trang 97). Ý ngài muốn nói rằng,
các ông tìm một vi trần cuối cùng thì không thể nào được cả, vì như vậy, ông đi
dần vào hư không, mà càng đi sâu bao nhiêu thì càng biến ảo bấy nhiêu, không
thể nắm được cái gì, vì cái gì cũng bất khả đắc… Là vì Phật có ngũ nhãn, nhìn
thấy vi trần và cõi.
Một điểm nữa tôi muốn
nói thêm ở đây là điểm cỗi nguồn. Khoa học từ lâu, từ thời Newton đến giờ,
người nào cũng săm săm tuyên bố rằng mình sắp khám phá được cỗi nguồn của vũ
trụ này. Nhưng kiếm gần một trăm năm chục năm nay cũng chưa thấy đến đâu cả,
càng ngày càng thấy mông lung, mù mịt, vì sao? Vì cái cỗi nguồn ấy là ở chỗ vô
hình, không phải ở chỗ hữu hình, mà khoa học chỉ có khả năng đi tìm những gì có
hình tướng thôi, muốn tìm được nguyên nhân của nó, phải đi vào thiền định mới
hiểu được. Đôi khi, tôi thấy khọa học thật ngớ ngẩn và ngây thơ. Như ngày xưa
có thuyết “big bang” của một vị bác học, cho rằng nguyên thủy,
vũ trụ này chỉ là một cục vật chất, rất đặc, rồi tự nhiên nó nổ tung ra thành
các tinh hà, vũ trụ.
Chỉ nghe thế thôi cũng
đã thấy mấy vị khoa học đó ngây thơ chỉ biết chấp vào những gì lăng xăng bên
ngoài, những gì có hình tướng (vốn là những vọng thức kết tập từ thời vô thủy),
rồi từ đó-cộng thêm những ý thức phân biệt-lý giải lăng nhăng. Cái gì là một
cục vật chất có thể hết sức đặc được? lại nữa, cái gì làm cho cái cục “hết sức
đặc” ấy tự nhiên lại nổ tung lên? Rồi tạo thành những tinh hà, rồi tự nhiên lại
có cây cỏ, người, vật, núi non v.v… xuất hiện? Đủ hiểu, các nhà khoa học tuy có
nhiều óc duy lý thật nhưng nhiều khi cũng ngây thơ như trẻ nít vậy. Và nhiều
nhà khoa học lại sùng bái thuyết big bang ấy. Như vậy, khoa học không thể hiểu
rằng cái cỗi nguồn là ở chỗ vô hình, vì hình tướng là hữu hạn, làm sao có thể
làm cỗi nguồn cho pháp giới vô hạn này?
Chúng ta nên nhớ kỹ
những điều ấy, mới thấy túc duyên của chúng ta thật là lớn lao, và cũng nên
thỉnh thoảng suy nghĩ đến giáo lý tối thắng của chư Phật thì công đức rất
nhiều.
Chân lý của kinh là chân
lý sống. Tôi đọc kinh từ hai chục năm nay, cũng có lúc chán ứ lên những lời
kinh, và thấy nản. Những lúc nản thế, tôi lại ngồi nghĩ lại những khuôn mặt
thân yêu của mình từ cha, mẹ, vợ, các người bạn già thân yêu đã khuất v.v…,
nghĩ như thế, tôi lại quay ra … đọc kinh trở lại. Vì không còn một cách nào
khác làm cho tâm hồn mình có thể nguôi ngoai được. Vì chỉ có kinh mới lý giải
được bí ẩn của sự sống chết, bí ẩn của biệt ly, bí ẩn của các cõi, các kiếp, mà
không có một sách thế gian nào trả lời được…
Bây giờ chúng ta trở về
kinh.
HỎI: A Di Đà Phật! trước
khi vào kinh, xin ông vui lòng cho tôi đặt một câu hỏi. Hồi nãy, ông có nói tất
cả những tam muội rốt cuộc cũng qui về Lăng Nghiêm tam muội, cũng như là Kim
Cang tam muội, cũng là Chân Như tam muội, cũng là như huyễn tam muội. Vậy thì
niệm Phật tam muội ở mức độ nào?
ĐÁP: Niệm Phật tam muội
là hành giả mới lọt được vào thức ấm. Khi mới lọt vào thức ấm ấy hành giả chưa
thanh tịnh hóa được các biến dịch sanh tử, và những vọng tưởng vi tế, nhưng
hành giả đã thấy đức A Di Đà.
Vì vậy, quang minh của
cõi Cực Lạc là quang minh của thức ấm, nên vi diệu hơn cõi Thiên ở tầng trời
sắc giới và vô sắc giới, chỉ thuộc về tưởng ấm mà thôi. Hành giả phải tu lâu
hơn nữa, gột rất nhiều biến dịch sanh tử lúc đó mới vào được Kim Cang tam muội,
hay Như Huyễn tam muội, vì những tam muội này ở sâu hơn nữa trong thức ấm. Lúc
hành giả thấy đức A Di Đà, nhưng chưa biến hiện được, còn vào được những tam
muội kia thì biến hiện không cùng. Đức A Di Đà không phải là ngài không đủ thần
thông để hiện ra những cõi vi diệu hơn, nhưng ngài chỉ hiện những quang minh ấy
thôi thì chúng ta mới có thể qua được. Chứ nếu ngài hiện những quang minh vi
diệu quá gần đến chân không thì làm gì có người lọt vào được, nên ngài từ bi,
hiện ra một cõi ở bờ mé của thức ấm thì chúng ta mới dễ lọt được vào trong ấy.
HỎI: Ông nói về cái lưới
vọng tình vọng tưởng, vậy thì trong các thời kinh, chúng ta thường tụng “lưới
đế châu ví đạo tràng…” thì cái lưới đế châu là cái gì?
ĐÁP: Nếu chúng ta nói về
nghiệp lực của người thì có thể nói là cái lưới vọng tình, vọng tưởng. Nhưng
trong kinh Hoa Nghiêm dạy rất rõ, “Tất cả pháp giới này được dệt nên bằng thiên
la võng quang minh của thần lực hải của Chư Phật, nguyện lực hải của Chư Đại Bồ
Tát, và nghiệp lực hải của chúng sanh. Khi chúng ta nói vọng tình vọng tưởng là
lưới do nghiệp lực của chúng sanh dệt nên, nhưng nó vẫn lồng vào trong những
lưới của Thần lực và nguyện lực, nên lưới đế châu là cái lưới của cả thần lực
và nguyện lực.
HỎI: Sao ông giảng, hành
ấm là cái cột gút chấp ngã của chúng ta, vậy sao vào đến thức ấm cũng hãy còn
có ngã?
ĐÁP: Ngã gủa hành ấm là
ngã thô, ngã bàng bạc trong thức ấm là cái chấp vi tế, chấp chiếu soi và chấp
pháp. Như một người trông thấy đóa hoa hồng, cứ nghĩ rằng tôi biết, tôi là
người tri giả, là thọ giả. Hoặc chợt nảy sinh ra một tư tưởng hay ho nào thì
cho rằng đó là ta nghĩ. Nhưng thực ra không phải vậy. Không phải ta biết mà
chính là cái giác tánh nó tri, nó kiến, nó đi qua ta, lồng vào trong ta, nên ta
khởi lên một ảo tưởng về ngã, tựởng rằng ta biết, ta thấy, ta nghĩ.
HỎI: Cái giác tánh nó
tích lũy trong nhiều đời nên mới có người biết và người không biết có phải
không?
ĐÁP: Giác tánh ấy không
tích lũy gì cả vì nó là cái thực tại cuối cùng, chúng ta khởi lên từ cái biển
đó.
HỎI: Không! tôi muốn nói
đến cái “biết” ấy!
ĐÁP: Nếu như vậy thì
“cái biết” ấy nó rơi vào trong vòng tưởng đối rồi. Giác tánh vốn là cái bễ chân
tâm diệu minh, nó chính là cái minh của chân tâm. Cái minh nó lồng vào chúng ta
giống như điện lồng vào bóng đèn làm cho bóng đèn sáng. Nhưng vì cái bóng đèn
ấy cháy từ nhiều kiếp quá, nó quên mất sự thực, mà nghĩ rằng chính là mình soi
sáng, và vì lâu đời, tạo nên những ảo tưởng chính mình soi sáng, biết, chiếu
soi, tri, kiến, thọ v.v… Rồi dần dần tăng trưởng cái ngã to thêm, gây phiền não
chướng nên chúng ta phải luân hồi. Đến khi nào hiểu rằng, đó chỉ là giác tánh
chứ không phải cái ta, thì bớt đi được nhiều phiền não, khi hết phiền não thì
thoát được luân hồi sanh tử.
HỎI: Đức Phật thuyết
kinh Bát Nhă trong vòng hai mươi hai năm, tức là trong suốt cuộc đời hoằng pháp
thì Bát Nhã Ngài giảng lâu nhất, vậy mà sao Bát Nhã chỉ vỏn vẹn có mười tám
ngàn câu kệ thôi?
ĐÁP: Đây là câu hỏi đã
động đến sự bí ẩn của kinh đại thừa. Như kinh Pháp Hoa có khoảng chừng 300
trang, nhưng trong phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát lại nói, khi ngài Thường Bất
Khinh sắp tịch diệt thì ngài đắc đại không tịch, nghe được hai mươi na-do-tha
ức kệ Pháp Hoa. Vì vậy, kinh xuất hiện trước mắt chúng ta dài hay ngắn là do
tâm lượng và phước lực nhiều hay ít của chúng sanh ấy. Nếu phước lực nhỏ, tâm
lượng yếu kém thì bộ kinh ấy ngắn. Ngược lại, nếu phước lực và trí lực rộng
lớn, thì bộ kinh ấy trở thành mênh mang, có vô lượng bài kệ, mà mắt thịt, cộng
với cải tai thô kệch này chưa thể nghe nổi. Kinh Đại Bát Nhã cũng vậy, có mấy
bộ kinh Bát Nhã, rồi kinh Kim Cang. Bộ chúng ta đang tụng có 18 ngàn bài tụng,
còn những bộ khác có trâm ngàn bài tụng.
Thực ra, tôi cũng không
để ý tới chuyện dài, ngắn mấy. Chỉ cần hiểu rằng các kinh Đại Thừa tồn tại mấy
ngàn năm nay không bao giờ mất, trừ khi đến kiếp hoại, là do thần lực của kinh,
đồng thời do tâm lượng của chúng sanh thời đó. Đến khi vài ngàn năm sau nữa,
tâm lượng chúng sanh lúc bấy giờ hẹp đi thì các kinh Đại Thừa sẽ nhỏ lại, ngắn
hơn. Rồi đến kiếp hoại, tâm lượng chúng sanh toàn ác, lúc đó, các kinh như Pháp
Hoa, A Di Đà, Lăng Nghiêm v.v… tất cả đều biến đi hết, chỉ còn lại một câu duy
nhất là câu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT. Nên tất cả đều do tâm lượng của chúng sanh ở
kiếp đó, và trong kinh Lăng Già, lúc nào đức Phật cũng nhắc đi nhắc lại là do
tâm lượng biến hiện chứ không có gì khác, tất cả pháp giới đều như vậy. Nếu
phước báo của cộng nghiệp đời nay chỉ có từng đó, thì chỉ được như vậy thôi, có
xe hơi, nhà lầu và những thức ăn uống v.v…. Còn nếu cộng nghiệp lớn hơn thì tự
nhiên có những trân bảo hiện đến.
Ngược lại, khi cộng
nghiệp nhỏ dần đến kiếp hoại, người toàn ác, thì tất cả những thức ăn biến mất
hết, chỉ còn lại xương khô, người phải nấu xương khô mà húp, quần áo cũng không
có mà mặc, lúc đó phải dứt tóc, bện lại để tạm che cái bụng dưới mà thôi. Đó là
sự bí ẩn về cái biến hiện của tâm lượng. Thì kinh Đại Thừa cũng vậy, chúng ta
chỉ đáng có bộ kinh Phảp Hoa với ba trăm trang, đáng có bộ Đại Bát Nhã với mười
tám ngàn câu tụng, nhưng như thế cũng đã nhiều lắm rồi. Nên nếu quí vị giữ được
cái tâm không tịch, trong đó có một chút Bát Nhã, và một chút Đại Bi thì đi đến
đâu các vị quỉ thần cũng gia trì cho chúng ta cả.
Nay, chúng ta đi vào
kinh…
Kinh Hoa Nghiêm tức là
kinh nhập pháp giới. Lúc đầu tôi đã trình bày mãi rằng, Thiện Tài lúc bắt đầu
đi tìm cầu thiện tri thức, đầu tiên là gặp ngài Đức Vân, là đường tu chứng của
Thiện Tài đã xong phần Thập hồi hướng rồi, tâm ý ngài như hư không, tức là được
tâm không tịch. Nên Thiện Tài đi gặp từ vị thiện tri thức đầu tiên đến vị cuối
cùng chỉ học cách lặn sâu vào tàng thức sơ năng biến, để cuối cùng lấy được hạt
minh châu, tức đểm Không hư ấy, và nhập pháp giới trọn vẹn. Vì thế, kinh Hoa
Nghiêm mới chỉ dạy cho chúng ta cách nhập pháp giới. Còn các kinh khác thường
chỉ nói đến giải thoát thôi, nên không mấy ai biết đến ý nghĩa của chữ “Nhập
pháp giới.” Giải thoát chỉ là vọng tình, mới hóa giải được mạng căn,
còn nhập pháp giới là hóa giải được mạng trược đồng thời tới được điểm Tột
Không Diệu Hữu. Một đằng lằ vọng tình, một đàng là vọng tưởng, một đằng là
phiền não chướng, một đằng là sở tri chướng.
Vì vậy, trên con đường
đi tìm cầu thiện tri thức của Thiện Tài không thấy có vị thiện tri thức nào dạy
cho Ngài những pháp môn như tứ đế, thập nhị nhân duyên v.v…, mà ngài Đức Vân-vị
thiện tri thức đầu tiên-lại dạy cho Thiện Tài môn Niệm Phật tam muội ngay. Vì
khi vào đến thức ấm là bắt buộc phải thấy được Đức Phật A Di Đà. Vào thức ấm,
ngôn ngữ nhà thiền gọi là “kiên tánh.” Một đằng là thần hóa (nhìn thấy đức A
Di Đà), vào được niệm Phật tam muội. Một đằng là phi thần hóa, chứng được
cái không tịch, vào được Không tam muội.
Đến đoạn này, ngài Thiện
Tài đi gặp vị thiện tri thức thứ 51, là ngài Di Lặc. Thiện Tài thấy một lâu các
rất đẹp gọi là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm Lâu Các. Trong đạo Phật, chữ
“trang nghiêm” để chỉ cho tàng thức sơ năng biến. Lâu các ấy chính là tàng thức
sơ năng biến của ngài Di Lặc đã gột rửa dần dần chuyển thành Bạch Tịnh Thức hay
Vô cấu Thức, và khi trong tàng thức thanh tịnh ra sao thì sẽ ảnh hiện một y báo
trang nghiêm đẹp đẽ như vậy. Cũng như cõi Ta Bà này, chúng ta nhìn thấy đây là
sự ảnh hiện ánh ra từ tàng thức cộng nghiệp của chúng ta. Chúng ta chỉ đáng có
một y báo ánh ra như thế này mà thôi. Khi Thiện Tài tới lâu các của ngài Di Lặc
thì đã đi được nhiều bước đường lắm rồi, vì vậy, nên Thiện Tài trông thấy cảnh
giới đẹp đẽ vô chừng. Thiện Tài liền phủ phục xuống vừa niệm vừa quán chiếu ngài
Di Lặc, quán chiếu lâu lắm ngài Di Lặc mới hiện ra. Thì đây, trong kinh tả lối
quán chiếu của Thiện Tài…
KINH: Vì biết chát như
tượng…
GIẢNG: Thực ra pháp giới
này vốn không có một vật, tất cả các vật chất chỉ như tượng. Khoa học gia
Wheeler ngày nay cũng công nhận là không có vật chất và vật, mà chỉ là những
quang minh mắc bẫy (trapped light) mà thôi. Nên kinh gọi là “tượng.” Tất cả
phàm phu chúng ta và thế gian này, bị trôi lăn, đánh nhau, giết nhau, yêu
thương, giận hờn v.v… chỉ vì tưởng vật có thật, nhưng chính ra kinh dạy, vật
chỉ như tượng mà thôi.
KINH: Biết thanh âm như
vang.
GIẢNG: Thanh âm cũng
thế, chỉ là một tiếng vang trong tâm phát khởi.
KINH: Biết cảnh như
mộng, biết nghiệp như huyễn, rõ đời do tâm hiện.
GIẢNG: Tất cả chúng
sanh, y báo chỉ do tâm chúng sanh (cộng nghiệp) hiện lên thôi, chứ không
có thật.
Khi một hành giả đi trên
con đường bồ tát đạo, tu theo lục độ, nhưng trong kinh Hoa Nghiêm lại nói mười
độ. Vậy lục độ và mười độ khác nhau ra sao? Tức là trong sáu độ đầu (bố thí,
trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ) là hành giả đã nhập
địa rồi, nhưng từ địa thứ bảy là độ tu phương tiện, còn địa thứ tám là tu
nguyện, địa thứ chín là tu lực, địa thứ mười là tu trí. Khi tu còn ở dưới thấp
thì các ngài tu sáu độ thôi, sáu độ này chỉ .có sức biến hóa vừa phải, chưa đi
đến chỗ vô cùng tận. Khi tu lên đến độ thứ bảy cho đến thứ mười là biến hóa vô
cùng tận, lúc đó tâm hành giả rất cao, nên ở phương tiện độ tức là đại bi, còn
nguyện là nhắc lại tâm nguyện của mình một lần nữa, nhắc lại là mình không bao
giờ được chứng một cảnh giới nào và hưởng nỗi vui thiền lạc một mình trong đó
cả, mà phải nhớ lại bi nguyện của mình từ vô lượng kiếp để lúc nào cũng hóa
hiện độ sanh.
Còn đến độ lực và độ trí
thì toàn là biến hóa tràn đầy thế gian, những độ này tương xứng với sự sự vô
ngại trong pháp giới, còn những độ trước là tương xứng với lý sự vô ngại trong
pháp giới. Nên trong Hoa Nghiêm chia ra thành bốn mức độ tu chứng: Lúc đầu là
lý vô ngại, rồi đến sự vô ngại cho những bậc tu hành còn ở thập tín, thập trụ,
thập hồi hướng. Lên dần đến lý sự vô ngại là cho những bậc nhập địa từ sơ địa
đến địa thứ sáu, trên nữa từ địa thứ bảy trở lên là sự sự vô ngại và những bậc
có thể biến hóa vô cùng. Nên ngày xưa, những vị thiền SƯ bài bác thần thông là
các vị chưa hiểu rộ Hoa Nghiêm, vì pháp giới này đều là biến hóa, nếu không có
thần thông biến hóa thì làm thế nào nhập được pháp giới này? làm thế nào độ
sanh? Thường các vị thiền sư nói những chuyện rất đơn sơ như chuyện bổ củi,
gánh nước v.v… cũng là thần thông, lập luận ấy chĩ gọi là tạm, vì mới là lý vô
ngại còn thấp. Lên trên là sự sự vô ngại, ở mức độ này các Ngài có thể biến hóa
vô cùng, lúc đó mới có đủ tự tại lực để độ sanh, vì chúng sanh bời bời vô
lượng, mà chúng ta lại rất hạn hẹp, chĩ có hai tay, hai chân thì làm sao độ cho
hết được? Đó là những điểm quan trọng mà ta cần phải nhớ.
Nay xin trở về kinh…
KINH: Thiện Tài đồng tử
nhập quán trí như vậy…
GIẢNG: Quán trí như vậy
tức là biết chất như tượng, biết thanh âm như vang, biết cảnh như mộng, biết
nghiệp như huyễn, biết đời do tâm hiện v.v…
KINH: Đoan tâm khiết
niệm, ở trước lâu các mọp lạy sát đất, bất tư nghì thiện căn lưu trú thâm tâm
mát mẻ thơi thới..
GIẢNG: Thiện căn là
những luồng lực trong tâm, như khi chúng ta làm một việc tốt thì cái đó tạo
trong tâm một luồng lực mát mẻ, đó là thiện căn. Khi một hành giả tu cao, có
nhiều thiện căn, phước đức, trí huệ thì những luồng lực lưu chuyển trong thân
tâm khiến không còn bệnh tật nữa, trong người lúc nào cũng mát mẻ thơ thới,
định tâm rất dễ.
KINH: Rồi đứng dạy,
chiêm ngưỡng mắt không tạm rời…
GIẢNG: “Chiêm
ngưỡng mắt không tạm rời” là khi mắt một người tu hành không nháy, tức
là vị đó có định tâm. Vì vậy, mắt các chư Thiên ở cõi sắc trở lên mắt không
nháy, vì thường ở trong định, còn mắt phàm phu chúng ta hay nháy vì không có
định tâm. Sau đó Thiện Tài chắp tay cung kính hữu nhiễu chung quanh lâu các ấy
vô lượng vòng, vừạ đi vừa tự nghĩ rằng…
KINH: Đại lâu các này là
chỗ ở của bậc đạt không, vô tướng, vô nguyện.
GIẢNG: Tức là Không tam
muội, là quán chiếu cái gì cũng tiêu dung vào biển Không ấy, vì tất cả những
cái có hình tướng như thân căn chúng sanh, nhà cửa, thế giới,
quốc độ v.v… thực ra nó đều không có tướng, vì tướng của nó chính là chân
không, là vô tướng. Còn vô nguyện tam muội là khi làm một việc gì, hành giả
không khởi tâm tác giả, không còn chấp rằng có mình làm. Nếu còn thấy có làm
thì tâm còn bị vướng mắc, cần phải coi việc làm ấy là “vô công dụng
hạnh,” một hành vị cứu người cũng chĩ như “hư không độ hư
không.” Cứ nghĩ những điểm này mới thấy giáo lý nhà Phật là vô đẳng
đẳng. Ngày xưa tôi không bao giờ có thể nghĩ đến chuyện “hư không mà độ
hư không/’ vì thấy tất cả sự … vô lý của nó, nhưng suy nghĩ kỹ, thì
thấy đúng thật, không còn một biện chứng nào có thể hơn thế. Thiện Tài vừa
nghĩ, vừa tán thán, ca ngợi bậc đẳng giác của ngài Di Lặc.
KINH: Là chỗ ở của bậc
nhất thiết pháp vô phân biệt.
GIẢNG: Bất cứ pháp nào
cũng phải biết rõ, nhưng không bao giờ được khởi tâm phân biệt, vì phân biệt
thì tâm sẽ dính mắc, chấp vào đó. Tâm phân biệt không phải tâm liễu tri, hành
giả vẫn liễu tri rành rẽ tất cả mọi pháp nhưhg không chấp vào đó, không nghĩ
những thứ đó đều có thực thể. Đó gọi là nhất thiết pháp vô phân biệt.
KINH: Là chỗ ở của bậc
rõ pháp giới vô sai biệt..
GIẢNG: Phải quán tất cả
pháp giới núi, sông, cây, cỏ, những loài hữu tình, vô tình v.v… mà vẫn đều là
không, là huyễn, là như như, đó là biết rõ pháp giới vô sai biệt.
KINH: Là chỗ ở của bậc
biết tất cả chúng sanh bất khả đắc.
GIẢNG: Trong kinh Bát
Nhã có mấy danh từ thường được nhắc đi nhắc lại là chữ “ly,” chữ “bất khả đắc,”
chữ “vô sở hữu” v.v… Tất cả đều chĩ cái không tánh của Bát Nhã. Bất khả đắc là
không thể được, vì không có pháp nào thật có nên không thể nắm. Như phàm phu
chúng ta, đưa tay nắm cái ly này, thì ta thấy có cái ly thực để ta nắm, đến khi
ta thả ra, thì cái ly sẽ rơi xuống. Hoặc người tu chấp có đức Phật Thích Ca Mâu
Ni thật, thành Chánh Đẳng Chánh Giác dưới cội cây Bồ Đề, chấp rằng đức Phật đã
đạt được quả vị Phật. Nhưng trong kinh lại dạy ngược lại, tất cả những thứ ấy,
chỉ là những hình bóng chập chờn, nhân duyên hiện ra nhưthế thôi, vì tất cả đều
chỉ là huyễn mộng, có đấy, nhưng không thật có. Vì tâm khởi phân biệt nên mới
chấp có, chấp không. Cũng như Đức Phật đi tu và thành đạo, thì rốt ráo cũng
không có người tu, không có con đường tu và cũng không có quả vị chứng đắc, vì
tất cả đều như làn vẽ trên nước, khởi lên từ diệu tâm. Nhưng sở dĩ ngài khuyên
chúng sanh tu hành, nói có người tu, con đường tu và quả vị chứng đắc vì chúng
sanh còn mê, còn chấp chước, phân biệt, chứ thực ra chỉ đều là tu trong mộng
cả. Vì vậy ngài Đạt Ma nói rằng: “thánh phàm đều không có, đều là mộng
ảo.” Đạo Phật chỉ dạy có thế, tin được thì tin, không tin thì chịu
thôi, không thể đi xa hơn được.
KINH: Là chỗ ở của bậc
biết tất cả pháp vô sanh. Là chỗ ở của bậc chẳng tham chấp tất
cả thế gian. Là chỗ ở của bậc chẳng tham chấp tất cả nhà của.
GIẢNG: “Chẳng
tham chấp tất cả nhà của” là khi chúng ta thọ sanh được làm người, có
nhà cửa của bố mẹ, lớn lên làm quan, làm lớn có nhà to, cửa rộng, có xe hơi,
người hầu kẻ hạ v.v… Tất cả những thứ đó, nói tóm lại gọi là nhà của, trong
kinh gọi là y báo và ngã sở. Nói cách khác, những vật châ’t gì chung quanh,
theo ta do phước báo hiện đến thì gọi đó là nhà của. Nhưng khi tu lên nữa,
phước báo nhiều hơn, được thọ sanh làm chư Thiên thì tự nhiên có nhà của sẵn,
đồng thời có những Thiên nữ chực sẳn chờ vị thiên tử ấy, đó cũng là những phước
báo đi theo sát bên mình trong bất cứ cảnh giới nào. Ngược lại, phước báo kém
cỏi, thọ sanh vào loài ngã quĩ, thì chẳng có nhà của gì cả, chiều tà mò ra đi
lang thang, đến một dòng sông khát quá định uống nước thì dòng sông biến thành
lửa, đó là y báo của loài ngạ quĩ. Còn như chư đại Bồ Tát vào cơn tam muội sâu,
thì nhà là cả pháp giới này, từ những lâu các đền đài, các cõi, trang nghiêm
đẹp đẽ đều hiện ra. Nên phải hiểu, tùy theo tâm lượng và phước báo chiêu cảm
của mỗi loài chúng sanh mà hiện lên những nhà của tương ưng.
Có một điều nữa cần biết
là những y báo đó thường theo sát mình. Như phàm phu chúng ta mỗi lần đi đâu
thì đi bằng xe, hay bằng kiệu, lọng, và ngay cả người hầu cận v.v… Còn một vị
vua, phước báo lớn hơn, mỗi lần đi đâu thì mang theo cả voi, ngựa, quần thần,
tôi tớ v.v… Chư thiên đi đâu thì mang cả cung điện nguy nga đi theo, đó đều là
“nhà của” từng loài, tùy theo phước báo nhiều hay mà hiện ra những chánh báo
như thế.
KINH: Là chỗ ở của bậc
chẳng thích tất cả tụ lạc.
GIẢNG: Tụ Lạc là gì?
PHẬT TỬ: Là xóm làng, và
những người chung quanh, có đúng chăng?
ĐÁP: Nếu tụ lạc là những
người chung quanh thì trong kinh dạy “chẳng thích tất cả tụ lạc” thì các vị Bồ
Tát không thích các người chung quanh, xóm làng thì … độ chúng sanh làm sao?
PHẬT TỬ: Thì ông giảng
Bồ Tát phải quán tất cả đều không thì có thấy chúng sanh nào đâu để độ?
ĐÁP: Lập luận của ông
cũng đúng đấy, nhưng ông lại vấp vào nhị biên nữa rồi, vì làm như thế, chỉ mới
có Bát Nhã thôi mà thiếu Đại Bi. Nhưng ở đây, tụ lạc không phải nghĩa ấy, tụ
lạc chính là sáu căn của chúng ta. Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ngay cả ý đều
là nơi tụ lạc của các nghiệp cũ về sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Chẳng hạn
như thân là nơi tụ lạc của vô lượng tế bào, quen tập khí đụng chạm rồi, có những
xúc giác khó chịu, hay xúc giác dễ chịu v.v… Tụ lạc nhóm họp tập khí cũ tạo
thành căn thân, tâm tưởng nên gọi là tụ lạc, cũng gọi là ngũ ấm. Bồ Tảt biết
những thứ ấy đều do nghiệp khởi lên, và cái ngài tu cốt hóa giải những tụ lạc
ấy.
KINH: Là chỗ ở của bậc
chẳng dựa tất cả cảnh giới.
GIẢNG: “Chẳng dựa tất cả
cảnh giới” tức là không trụ vào cảnh giới nào cả. Phàm phu chúng ta có bất cứ
gì, như nhà cửa, xe cộ thường Ưa khởi tâm tham đắm, hoặc thương yêu một thằng
con học giỏi, cất giữ tiền của, nếu mất đi thì tiếc ngẩn ngơ v.v… Tất cả những
thứ đó đều là dựa vào cảnh giới ấy. Trái lại, Bồ Tát không dựa vào bất cứ đâu,
tuy vẫn vào mọi cảnh giới để độ sanh, nhưng không luyến mến, không trụ vào bất
cứ chỗ nào, tâm các Ngài lúc nào cũng bình đẳng như hư không.
KINH: Là chỗ ở của bậc
lìa tất cả tưởng.
GIẢNG: Trong kinh dạy,
các vật có đều do tâm tưởng của chúng sanh mà ra, nghĩ rằng đó là những vật
thật, như cái bàn, cái ghế, người nam, người nữv.v… Chính thực nó chĩ là khoảng
không của Tâm, vì do tâm động, lắt lay, khởi lên một hoặc nghiệp huân thành
chủng tử nở ra, nên chiêu cảm một hình ảnh hiện lên, phàm phu chúng ta tưởng đó
là một người nam, hay người nữ, một thân cây, một con chó, hay một người vợ,
người chồng v.v… nhưng chính thực đều là huyễn tưởng mà thôi.
KINH: Là chỗ ở của bậc
biết tất cả các pháp không tự tánh.
GIẢNG: Tất cả pháp không
tự tánh là không có một pháp nào có tự tánh của nó cả. Như cái bàn không hề có
tự tánh của cái bàn, chỉ do đủ nhân duyên hội tụ nên nó hiện ra vậy thôi. Lên
đến mức tột cùng, thì các vật chĩ có một tự tánh chung và tự tánh đó chính là
vô tự tánh. Nện không có vật gì cố định lậ vật gì, chỉ do nghiệp lực chiêu cảm
nên hiện ra như vậy. Không có vật gì nhất định là vật gì cả, không có vật gì có
tự tánh riêng của nó, mà nó chỉ có một tánh chung đó là Pháp tánh hay Phật
tánh, mà pháp tánh là vô tự tánh, nói nó có cũng không được, nói không cũng
không đúng. Vì nếu một vật có tự tánh riêng của nó thì nó không thể chuyển hiện
được. Tỷ dụ như cái cây, nếu có tự tánh riêng của nó thì nó mãi mãi như thế,
không thể mọc cao hơn, sẽ xanh tươi hoài hoài không bao giờ héo, chết. Hay một
người có tự tánh cố định không thể nào tu hành được vì thiện căn không tăng
trưởng, tâm không thể gột rửa được, nên phải hiểu tất cả đều là mộng huyễn nên
mới thể thay đổi chuyển hóa được.
KINH: Là chỗ ở của bậc
lìa tất cả tưởng, tâm, ý, thức.
GIẢNG: Lìa tưởng là tâm
không bị động. Tâm ở sâu trong cùng (tức Tàng thức) chuyển xuống thành ý (mạt
na thức). Thức tức là ý thức và 5 thức ngũ quan. Ngài Di Lặc đã lặn sâu, lìa
các thức đó.
KINH: Là chỗ ở của bậc
chẳng xuất, chẳng nhập tất cả đạo.
GIẢNG: Không nhập, không
xuất tức là trung đạo. Không ở bờ bên này, cũng không trụ bờ bên kia, luôn luôn
làm con thoi đi đi lại lại mà không trụ ở đâu cả… Tức là tới mức Như như Tịch
tĩnh.
KINH: Là chỗ ở của
bậc nhập thậm thâm bát nhã ba la mật.
GIẢNG: Thậm thâm bát nhã
ba la mật là chỗ tột không, phải lặn sâu xuống đáy biển tâm ấy mới lấy được hạt
minh châu, lúc bấy giờ thần thông vô tận để độ sanh, vào đến đó, có thể khởi
tất cả cảnh giới diệu hữu, có thể hóa hiện tất cả mọi thứ, hóa hiện cả một cõi.
Bát nhã ba la mật rất lạ, chĩ là một điểm không hư, nhưng Bồ Tát có thể lấy bất
cứ thứ gì cũng được. Như vị Ma Vương, ngồi trên cõi trời Tha Hóa Tự Tại, lúc
ngài buồn, có thể móc trong tâm ra những cung điện và cả trăm ngàn Thiên Nữ múa
hát. Như vậy tức là sao? Tức là Ngài Ma Vương móc trong điểm không hư ấy ra
thành những hình tướng, cung điện, thiên nữ v.v… Và như đức Christ cũng vậy,
ngài chỉ bảo với người mù, anh hãy trông thấy đi, ngài dùng tâm lực tạo
trong hư không luồng lực làm tan màng mắt của người mù, thì người mù trông
thấy, người què đi được. Bồ Tát vẫn qua lại giữa bờ sanh tử và niết bàn mà
không trụ vào đâu cả thì đó mới là “nhập thậm thâm bát nhã
ba la mặt,” mới đúng là bậc Thiện Thệ.
KINH: Là chỗ ở của bậc
hay dùng phương tiện phổ môn pháp giới.
GIẢNG: Dùng phương tiện
tức là dùng phương tiện khéo độ sanh. Phổ môn là cái cửa cùng khắp pháp giới.
Tức là chỗ nào cũng dùng phương tiện hiện thân khắp , pháp giới để độ sanh.
KINH: Là chỗ ở của bậc
dùng tăng thượng huệ dứt trừ tất cả kiến, ái, mạn.
GIẢNG: Tăng thượng huệ
là huệ Bát Nhã cao, dứt tất cả các gơn chấp kiến giả, thọ giả, pháp giả v.v…
Tức là những tâm tưởng, bất cứ một tâm niệm nào đều phải dứt trừ, lúc bấy giờ Bồ
Tát mới trôi vào được biển Diệu Giác.
KINH: Là chỗ ở của bậc
xuất sanh tất cả thiền, giải thoát, tam muội, thông sáng và du hí trong đó.
GIẢNG: “Vào tất cả
thiền, giải thoát, tam muội…” Thiền nào cũng vào được cả. Thí dụ trong Ấn Độ
Giáo chĩ có một vài tam muội, còn Cơ Đốc giáo chỉ nói đến những lúc xuất thần,
còn đạo Phật thì có vô lượng tam muội, vào một tam muội rồi chuyển từ tam muội
này sang tam muội khác, (chuyển tức là thay đổi mức độ rung chuyển những
luồng tâm thức) đồng thời du hí trong ấy, có thể tạo những cõi, hay mang
một cõi này, dời ra chỗ khác, nhưng tất cả việc làm ấy chỉ vì bi tâm phương
tiện độ sanh chứ không phải để rỡn chơi, nhưng kinh gọi là “du hý” vì rất thần
kỳ và vô công dụng hạnh. Trong kinh Duy Ma hay Hoa Nghiêm có nói rất rõ
về điều này.
KINH: Là chỗ ở của bậc
cảnh giới tam muội của tất cả Bồ Tát. Là chỗ ở của bậc an trụ chỗ của tất cả
Như Lai. Là chỗ ở của bậc đem một kiếp vào tất cả kiếp, đem tất cả kiếp vào một
kiếp mà không hư tướng thời gian.
GIẢNG: Tức là thần thông
tự tại của Bồ Tát đối với thời gian. Đạo Phật dạy, thời gian chỉ là một vọng
tưởng, mà chỉ tùy theo thế tốc tâm lực mà có thời gian dài hay ngắn. Như vậy
một bậc Bồ Tát cao là bậc như thế nào? Thường phàm phu chúng ta có một thế tốc
của tâm lực khoảng bao nhiêu đó, nên đời sống con người khoảng từ sáu chục đến
một trăm năm. Đời sống con chim thì thế tốc tâm thức lại khác, nên chỉ sống
được khoảng vài năm, con bò, con chó cũng có thế tốc tâm lực riêng của nó v.v…
Còn Bồ Tát là bậc có thể vào nhiều tam muội, tức có thể thay đổi thế tốc tâm
lực dễ dàng, nên mới có thể “đem một kiếp vào tất cả kiếp.” Nói
cách khác, các ngài có thể kéo dài một kiếp vào tất cả kiếp, đồng thời có thể
thu ngắn tất cả kiếp đưa vào một kiếp được, nên các ngài tự tại về vọng tưởng
của thời gian. Vì vậy, tôi thường nói nhiều lần ở đây, điểm không hư ấy vượt cả
thời gian và không gian, và khi một vị Bồ Tát trụ trong một điểm không hư ấy
thì thời gian và không gian được hóa giải. Các ngài có thể tự tại, muốn trụ
thân này bao nhiêu tỷ năm cũng vẫn được, hay muốn thu một cõi vào một hạt cải
cũng đều dung thông vô ngại.
KINH: Là chỗ ở của bậc
đem một thế giới vào tất cả thế giới, đem tất cả thế giới vào một thế giới mà
chẳng hoại tướng không gian.
GIÁNG: Những tướng lớn
nhỏ đều do tâm lượng của tâm chúng sanh khởi phân biệt, nên Kinh dạy chúng ta
chuyển từ cực độ này sang cực độ kia. Một cõi cực lớn có thể chui vào trong một
điểm cực nhỏ, vì vậy kinh Hoa Nghiêm có một huyền môn gọi là “quảng hiệp tự tại
vô ngại.” Quảng là rộng lớn, hiệp là nhỏ, hai cái đó chuyển biến cho nhau một
cách vô ngại. Nhưng vì phàm phu chúng ta có một tâm thức hạn hẹp, nghiệp như
vậy, quả báo như vậy, nên luôn nghĩ rằng cái này là to, cậi kia là nhỏ, và cái
nhỏ không thể dung chứa được cái to. Nhưng khi chúng ta có thiên nhãn thì sẽ
thấy núi đá kia không to lắm đậu, và hạt bụi cũng không nhỏ lắm, lên đến huệ
nhãn thì sẽ tiêu dung tất cả những vọng thức lớn, nhỏ vào trong biển hào quang
tâm thức. Rồi lên đến pháp nhãn, lúc đó ta có thể khởi tâm đại bi làm cho núi
đá kia thu nhỏ như hạt bụi, hoặc hạt bụi kia trở thành to một cõi cũng được,
vấn đề rằng chúng ta có tin nổi hay không mà thôi. Tất cả nghiệp của chúng sanh
đều nằm trong không gian và thời gian, nếu một hành giả hóa giải được nó thì sẽ
có sự tự tại không cùng.
KINH: Là chỗ ồ của
bậc đem một pháp vào tất cả pháp, đem tất cả pháp vào một pháp
mà chẳng hư hoại tướng của pháp. Là chỗ ở của bậc đem một chúng sanh vào tất cả
chúng sanh, đem tất cả chúng sanh vào một chúng sanh mà không hư tướng chúng
sanh. Là chỗ ở của bậc đem một Phật và tất cả Phật, đem tất cả
Phật vào một Phật mà chẳng hoại tướng Phật.
GIẢNG: Đoạn này đại khái
cũng tương tự như vậy thôi, bởi vì tất cả đều là biến hiện của diệu tâm.
KINH: Là chỗ ở của bậc ở
trong một niệm biết tất cả tam thế.
GIẢNG: “Ở trong một niệm
biết tất cả tam thế.” Tất cả mọi vật thường đi theo chiều thời gian. Nói một
thí dụ cụ thể là như có một người bạn tới thăm ta, người ấy từ một tiểu bang
khác tới gõ cửa nhà ta. Lúc họ đến ta có thể nhìn thấy họ, cười đùa vui vẻ, nhưng
sau đó họ lại từ giã ta ra đi, lúc đó ta không nhìn thấy họ nữa và cho rằng
thời gian đã qua, sự vật đã hết. Nhưng một vị Bồ Tát có thiên nhãn thì các ngài
không nhìn một khúc ngắn như chúng ta đâu, các ngài nhìn thấy người này từ khi
đi từ nhà họ đến nhà ta, rồi ra đi rong ruổi mãi trên lộ trình biến chuyển, qua
các cõi, các kiếp, nhẫn đến vô lượng, vô số kiếp. Như vậy không còn phân cách
quá khứ, hiện tại, vị lai. Nên trong kinh vẫn thường nói “ba đời bình đẳng” là
vậy, lúc đó quá khứ, hiện tại, vị lai đều được hóa giải, bình đẳng không khác,
nên chư Phật có thể nhìn thấy được tam thế, vì các ngài có nhiều mắt quá. Sở dĩ
có thời gian là do con mắt quá hạn hẹp của chúng ta mà ra.
KINH: Là chỗ ở của bậc
trong khoảng một niệm qua đến tất cả quốc độ. Là chỗ ở của bậc hiện thân mình
ra trước tất cả chúng sanh.
GIẢNG: Nếu tâm chúng ta
chiêu cảm đúng mức thì các ngài hiện ra, vì luật tắc của pháp giới là như vậy.
KINH: Là chỗ ở của bậc
dù đã thoát ly tất cả thế gian, nhưng vì hóa độ chúng sanh nên hằng hiện thân ở
trong thế gian.
GIẢNG: Các ngài thường
có tâm đại bi hàng khởi, chính các ngài đã siêu thế gian rồi, nhưng vẫn hiện
thân trong thế gian để hóa độ chúng sanh.
KINH: Là chỗ ồ của
bậc chẳng động bổn xứ mà có thể đến khắp tất cả Phật độ để trang nghiêm.
GIẢNG: Ngài vẫn ngồi
tịch bất động nơi Không hải nhưng ngài vẫn hiện thân trước mặt chúng sanh, vì
quang minh của các ngài cùng khắp, nếu chiêu cảm được thì quang minh ấy tự hiện
lên trước mặt chúng ta.
KINH: Là chỗ ở của bậc
ở tất cả ma cung mà chẳng đắm nhiễm cảnh dục.
GIẢNG: Ma cung nào các
ngài cũng đi qua, không có cảnh giới nào là không vào, nhưng các ngài đi qua mà
không nhiễm.
KINH: Là chỗ ở của
bậc chẳng rời chỗ một đầu sợi lông mà hiện thân khắp tất cả thế giới.
GIẢNG: Các ngài vẫn ngồi
tam muội tịch bất động một chỗ, chỗ đó có thể lớn như một khu rừng Bồ đề, hoặc
nhỏ như đầu một sợi lông, mà các ngài vẫn hiện thân khắp tất cả mọi chỗ. Có một
điểm tôi xin nhắc quí vị là: Khi đọc kinh ta thấy trong kinh tả núi Linh Thứu
bên Ấn rất rộng rãi, có thể chứa được bao nhiêu ngàn vị Thanh Văn, Bồ Tát, vua,
quan, hàng cư sĩ, voi, ngựa cùng tất cả thánh chúng v.v… vân tập đến, nhưng khi
qua Ấn, thăm núi Linh Thứu lại thấy rất chật hẹp. Vì sao thế? Vì trong kinh nói
rõ, tất cả nơi nào Phật thuyết pháp, chỗ đó đều được biến hiện rất rộng rãi,
ngàn ngàn người, kể cả voi ngựa cũng đều dung chứa hết, không có gì chật hẹp.
KINH: Là chỗ ở của bậc
hay diễn thuyết những pháp khó được gặp, khó được nghe.
GIẢNG: Giáo lý nào khó
được gặp, khó được nghe? Đó là chân lý duy tâm sở hiện.
KINH: Là chỗ ở của bậc
hay trụ pháp khó biết, pháp thậm thâm, pháp không hai, pháp vô tướng, pháp
không đối trị, pháp vô sở đắc, pháp không hí luận.
GIẢNG: “Pháp không hai”
là vì những kiến chấp nhị biên đều xóa bỏ. “Pháp vô tướng” là tất cả những hình
tướng đều như mộng huyễn. “Pháp không đối trị” là vì như như không có sự đối
đãi. “Pháp vô sở đắc” là tất cả đều là không hư, không có một pháp nào nắm lấy
pháp nào, nên vô sỡ đắc. Trong lịch sử Phật giáo của Nam tông, có kể đức Phật
xuất gia tu hành, ngồi dưới cội Bồ Đề, đắc được ngũ nhãn thành Chánh Đẳng Chánh
Giác là chỉ thị hiện cho hàng Thanh Văn thôi. Thực ra đắc Chánh Đẳng Chánh Giác
là gì? Là thấy rõ trong pháp giới này là một điểm không hư, không có một pháp
nào có thể có được, mà vẫn hiện tất cả các pháp, vẫn Nhập pháp giới. Đó gọi là
Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì vậy, các vị đệ tử Nam Tông, không hiểu được điều đó,
cũng không hiểu rõ một vị A La Hán khác Phật ra sao, nên sau cùng, quyết định
gọi đức Phật là … Đại A La Hán vậy!
KINH: Là chỗ ở của bậc
trụ đại từ đại bi.
GIẢNG: Bao giờ cũng luôn
nhớ đến Bát Nhã và Đại Bi.
KINH: Là chỗ ở của bậc
đã vượt hẳn trí nhị thừa, đã siêu cảnh giới ma, đã không nhiễm thế pháp, đã đến
bờ của Bồ Tát đã đến, đã trụ nơi chỗ trụ của Như Lai.
GIẢNG: Khi đi trên đường
Bồ Tát đạo cần cảnh giác là không lạc vào cảnh giới ma cũng không sa vào nhị
thừa, vì nếu dừng ở nơi đó điều là chướng ngại của Bồ Tát
KINH: Là chỗ ở của bậc
dầu rời tất-cả tướng mà chẳng nhập chánh vị của Thanh Văn.
GIẢNG: Rời tất cả tướng,
có nghĩa tiêu dung được hình tướng, nhập vô tướng nhưng cũng không nhập Niết
Bàn của Thanh Văn, không hưởng thiền lạc, luôn nhớ đến bi nguyện từ nhiều kiếp
là hóa hiện để độ sanh.
KINH: Dầu rõ tất cả pháp
vô sanh mà cũng chẳng trụ pháp tánh vô sanh.
GIẢNG: Biết tất cả pháp
vô sanh,nhưng cũng không trụ vào pháp tánh vô sanh ấy, thường thọ sanh vì Đại
Bi.
KINH: Là chỗ ở của bậc
dầu trụ tứ thiền mà chẳng tùy thiền sanh, dầu tu hành tứ vô lượng tâm nhưng vì
hóa độ chúng sanh nên chẳng sanh cõi sắc.
GIẢNG: Tu tứ vô lượng
tâm là tu từ, bi, hỷ, xả thì có thể thọ sanh ở trời Phạm Thiên, nhưng vì bi
nguyện độ sanh, các ngài không sanh ở những tầng trời ấy, mà thọ sanh ở những
nẻo thấp hơn để độ sanh.
KINH: Dầu tu vô sắc định
nhưng vì đại bi nên chẳng trụ cõi vô sắc.
GIẢNG: Các ngài tu bốn
vô sắc định là không vô biến xứ định, thức vô biên xứ định, vô sở hữu xứ định
và phi tưởng phi, phi tưởng xứ dịu. Ngay lúc còn sắc thân, các ngài có thể xuất
thần thức lên chơi những cõi ấy, khi chết đi thì sanh vào cõi trời đó. Trên cõi
đó sung sướng vô chừng, thọ mạng dài những tám vạn bốn ngàn đại kiếp, mỗi một
đại kiếp khoảng 1 tỷ năm. Trên đó các ngài không có thân, vì sướng quá chẳng
muốn tu lên nữa, nên Phật lại phải cảnh giác người tu không nên trụ trong ấy.
Còn những vị Bồ Tát, các ngài cũng có thể thọ sanh trên các tầng trời ấy, nhưng
các ngài lại không chọn con đường sung sướng cho riêng mình, mà lại chọn những
nơi đầy phiền não, đau khổ để độ sanh.
KINH: …(bỏ một đoạn)… Là chỗ ở của bậc dầu
hành cửu thứ đệ định mà chẳng nhàm lìa thọ sanh dục giới.
GIÁNG: Cũng giống như
đoạn kinh trên, cửu thứ đệ định gồm có tứ thiền, tứ không định và diệt tưởng
định. Một vị tu hành cửu thứ đệ định là một vị tu thiền cao, các ngài có thể
chuyển từ sơ thiền, nhị thiền, qua bốn không định, rồi vào diệt tưởng định,
xong lại đi xuống, có nghĩa rằng các ngài chuyển tam muội rất giỏi, nhưng các
ngài vẫn không thọ sanh ở những tầng trời ấy, mà vẫn đi vào nẻo xấu để độ sanh.
Thiện Tài quán chiếu như
thế rất lâu, rồi ngài nói một bài kệ dài, để ca ngợi lâu các của ngài Di Lặc.
Sau đó tâm thức Thiện Tài chín mùi có thể chiêu cảm với tàng thức của ngài Di
Lặc, vì thế ngài Di Lặc mới xuất hiện. Đây, xin quí vị nghe những câu kinh…
KINH: Sau khi dùng vô
lượng pháp xưng tán để tán dương chư Bồ Tát ở trong đại lâu các Tỳ Lô Giá Na
Trang Nghiêm, Thiện Tài cung kính đảnh lễ nhất tâm nguyện thấy Di Lặc Bồ Tát để
thân cận cúng dường, bèn thấy đức Di Lặc Bồ Tát từ chỗ khác đến, vô lượng
Thiên, Long, Bát, Bộ, Đế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương, cùng vô lượng thân quyến
và vô số chúng sanh theo Di Lặc Bồ Tát. Thiện Tài vui mừng hớn hở, gieo mình
mọp lạy…
GIẢNG: Tất cả những vị
Thân Linh lớn, nếu hành giả nhìn thấy được đều là tùy theo tâm hành giả mà ra.
Khi tâm ấy đủ mức độ cung kính, khát vọng, thì các ngài sẽ hiện ra.
Tôi xin tạm ngừng đây.
Xin hẹn quí vị kỳ sau.
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
Ngày 9 tháng 12 năm 1990
Hôm nay là buổi thuyết
giảng tiếp về phần cuối của kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập pháp giới…
Chúng ta đương ngừng ở vị
thiện tri thức thứ 51 là ngài Di Lặc. Nếu vị nào có đem cuốn kinh Hoa Nghiêm
thì nên mở ra theo dõi lời kinh, vì những đoạn sau này hay không thể tưởng
tượng. Tất cả Phật pháp đều gói tròn trong ấy. Từ đoạn kinh này, cho đến khi
Thiện Tài gặp ngài Phổ Hiền, nếu quí vị nghe những lời kinh mà thấy tâm hồn bay
bổng, thì có lẽ không lâu lắm, chỉ kiếp này hoặc vài kiếp nữa, có thể khoác một
thân hào quang đi dự những hải hội nhiệm mầu. Thực ra, các kinh đại thừa đều
hay và vi diệu, nhưng không có một bộ kinh nào triển khai rõ rệt và nhiều chi
tiết như trong kinh Hoa Nghiêm, vì vậy tôi hay lưu luyến Hoa Nghiêm một cách đặc
biệt. Trong các kinh khác, như Pháp Hoa, Lăng Nghiêm v.v…
ngài cũng nói những pháp thậm thâm vi diệu, nhưng ngài nói sơ lược thôi, mà chỉ
trong Hoa Nghiêm ngài mới mô tả rõ. Tỷ dụ về không gian và thời gian, không có
kinh nào nói rõ như Hoa Nghiêm, và cũng không có một tôn giáo nào khác nói rõ
không, thời gian là vọng tưởng. Không gian kia là do những vọng tưởng vi tế kết
thành, còn thời gian là nhịp đập bềnh bồng của những vọng tưởng vi tế ấy. Chân
lý ấy, tương tự như quả tim đập, tâm lực đập thế nào thì thời gian dài hay ngắn
đều tương ưng như thế, mà thọ lượng của chúng sanh dài hay ngắn cũng đều tùy
thuộc vào nhịp đập ấy. Chưa có một nhà khoa học nào nhận được chân lý đó cả,
riêng Hoa Nghiêm nói rất rõ. Cũng như trong phẩm Thọ lượng nói:
“Một kiếp ở Ta Bà này,
tức là mười sáu triệu năm ở cõi Ta Bà, chỉ bằng một ngày, một đêm bên cõi Cực
Lạc, rồi một kiếp ở cõi Cực Lạc chỉ bằng một ngày một đêm ở cõi Ca Sa Tràng Như
Lai..”
Có nghĩa rằng tùy thuộc,
là một hàm số của tâm thức và nghiệp lực chúng sanh, khi thì
dàn trải rất mau chóng, khi dàn trải rất lê thê. Do đó, thọ mạng chúng sanh
cũng sai khác, khi thì rất ngắn, có thể chỉ độ vài giây (như vi trùng), vài
giờ, vài ngày, vài chục năm, khi rất dài hàng triệu năm, hay nhiều kiếp.
Và đây, những trang kinh
cuối cùng của Hoa Nghiêm, phẩm nhập pháp giới.
KINH: Sau khi dùng vô
lượng pháp xưng tán để tán dương chư Bồ Tát ở trong đại lâu các Tỳ Lô Giá Na
Trang Nghiêm, Thiện Tài cung kính đảnh lễ nhất tâm nguyện thấy Di Lặc Bồ Tát để
thân cận cúng dường, bèn thấy đức Di Lặc Bồ Tát từ chỗ khác đến…
GIẢNG: Trong đoạn kinh
này có câu rất lạ, “từ chỗ khác đến…,” ngài không từ trong lâu các đi ra, nhưng
chúng ta cũng phải hiểu rằng, tuy từ chỗ khác đến cũng vẫn ở trong cái tâm ấy
thôi, ngài Di Lặc chỉ thị hiện theo tục đế (thế gian) như từ chỗ khác tới, chứ
khôhg phải từ trong tâm ấy ra, nhưng chính là vẫn từ trong tâm ấy.
KINH: Vô lượng Thiên,
Long, Bát, Bộ, Đế Thích, Phạm Vương, TứThiên vương, cùng vô lượng thân quyến và
vô số chúng sanh theo Di Lặc Bồ Tát.
GIẢNG: Các vị tu hành
cao, đi đến đâu cũng có nhiều cung điện, nhà cửa và nhiều chúng sanh, chư Thiên
v.v… đi theo hầu.
KINH: Thiện Tài vui mừng
hớn hở, gieo mình mọp lạy. Di Lặc Bồ Tát chỉ thị với đại chúng về công đức của
Thiện Tài mà nói kệ rằng…
GIẢNG: Ngài Di Lặc đầu
tiên gặp Thiện Tài liền nói ngay một bài kệ để khen ngợi công đức của Thiện
Tài, khen ngợi để làm gương cho những chư Thiên, Long, Bát, Bộ và tất cả những
thánh chúng theo hầu hiểu rằng đường tu hành phải như thế.
KINH:
Đại chúng xem Thiện Tài
Tâm trí huệ thanh tịnh
Vì cầu hạnh Bồ Đề
Nên đến lầu của ta.
Lành thay viên mãn từ
Lành thay thanh tịnh bi
Lành thay tịch tịnh nhãn
Tu hành không lười mỏi
Lành thay thanh tịnh ý
Lành thay quảng đại tâm
Lành thay bất thối căn…
GIẢNG: Khi một hành giả
tu hành đến mức bất thối chuyển, sẽ nở ra một căn gọi là “Căn bất thối”. Trong
kinh nói rõ, một vị Bồ Tát tu hành đến chỗ bất thối chuyển thì căn họ thanh
tịnh. Ngược lại, trong thân căn chúng ta, vì còn nhiều nghiệp chướng,nên có tám
vạn, bốn ngàn con thi trùng sống lúc nhúc ăn uống trong ấy. Như khi chúng ta
đói, muốn ăn, thì cứ tưởng rằng ta đói, nhưng chính thật là những con thi trùng
trong thân nó đói, nó đòi ăn, tóm lại, tất cả các cảm giác trong người chúng ta
như đói, lạnh,nóng v.v… đều do những con thi trùng trong người chủ động cả.
Trong kinh hay nói có tám vạn bốn nghìn con thi trùng trong người, nhưng cần
phải hiểu con số tám vạn, bốn nghìn ấy là chỉ để tượng trưng cho một số nhiều.
Đến khi một vị Bồ Tát tu hành tới bực bất thối chuyển thì thân căn các ngài rất
thanh tinh, trong người không còn thi trùng nữa chỉ còn toàn những quang minh
thanh tịnh mà thôi. Như vậy gọi là bất thối căn. Tỷ dụ như nhãn căn không đắm
vào sắc, nhĩ căn dù nghe những âm thanh vi diệu, hay lưỡi nếm được mùi vị ngon
v.v… cũng không còn bị đắm nhiễm.
KINH:
Lành thay bất thối căn
Tu hành không lười mỏi
Lành thay bất động hạnh
Thường cầu thiện tri thức…
GIẢNG: “Bất động hạnh”
là bất cứ duyên nào đến các ngài cũng bình thản, an nhiên, bất động, không say
đắm, không yêu ghét.
KINH:
Thấu rõ tất cả pháp
Điều phục các quần sanh
Lành thay hành diệu đạo
Lành thay trụ công đức…
GIẢNG: Phước lực và trí
huệ các ngài nở lớn, thành một cái cột trụ công đức.
KINH:
Lành thay xu phật quả
Chưa từng có mỏi nhọc
Lành thay đức làm thể
Lành thay pháp tư nhuận.
GIẢNG: Lành thay vì
Thiện Tài lấy đức làm thể và lấy pháp tư nhuận thân, tâm.
KINH: …(bỏ một đoạn kinh)…
Ngươi sẽ thấy chư Phật
Thấu rõ tất cả pháp
Nghiêm tịnh tất cả cõi
Thành tựu đại Bồ Đề…
GIẢNG: Ngài Di Lặc biết
rằng Thiện Tài sẽ thành tựu Bồ Đề, tức là thành Phật.
KINH:
Sẽ viên mãn hạnh hải
Sẽ thấu rõ pháp hải…
GIẢNG: Thiện Tài sẽ viên
mãn những hạnh nguyện nhiều như biển và thấu rõ những pháp lớn như đại hải.
KINH:
Sẽ độ chúng sanh hải
Tu các hạnh như vậy
Sẽ đến bờ công đức
Sẽ sanh những thiện phẩm
Sẽ đồng chư Phật Tử
Tâm quyết định như vậy
Sẽ dứt tất cả hoặc
Sẽ sạch tất cả nghiệp
Sẽ phục tất cả ma
Đầy đủ nguyên như vậy…
GIẢNG: Trong đạo Phật,
vô minh làm khởi lên những hoặc lậu, (sự mê mờ lầm lạc) hoặc lậu tạo nên những
nghiệp gọi là nghiệp lậu, từ nghiệp lậu chúng sanh phải chịu những sự khổ gọi
là khổ lậu.
KINH:
Đầy đủ nguyện như vậy
Sẽ sanh diệu trí đạo
Chẳng lâu sẽ rời bỏ
Hoặc, nghiệp và khổ đạo
Tất cả chúng sanh luân
Trầm mê tam hữu luân.
Ngươi sẽ chuyển pháp luân.
Cho họ hết khổ luân.
GIẢNG: Tôi đã giảng
nhiều lần ở đây về chữ “luân” rồi, nhưng hôm nay tôi xin nhắc lại vì có những
vị mới đến. Tất cả pháp giới cái gì cũng xoay tròn, như chúng sanh luân, chúng
sanh cứ xoay tròn trong sáu nẻo, hay “trầm mê tam hữu luân” là chúng sanh trầm khổ
mê muội trong ba cõi xoay vần miên viễn không thôi nghỉ. “Ngươi sẽ chuyển pháp
luân, cho họ hết khổ luân” những sự khổ của chúng sanh cứ xoay vần đi rồi trở
lại, nên Bồ Tát độ sanh phải nói pháp cho chúng sanh hết khổ.
KINH:
Ngươi sẽ gìn Phật chủng
Ngươi sẽ tịnh pháp chủng
Ngươi hay họp tăng chủng
Tam thế đều cùng khắp
Sẽ cắt những lưới ái
Sẽ xé những lưới chấp
Sẽ cứu những lưới khổ
Sẽ thành những lưới nguyện.
GIẢNG: Nếu chúng ta suy
nghĩ kỹ thì sẽ thấy các loài chúng sanh đều xoay tròn miên viễn không biết chỗ
nào là đầu, là đuôi, vì vậy tất cả đều gọi là luân. Chúng sanh như bị nhốt
trong những màng lưới, hệt như con ruồi sa vào lưới nhện. Những lưới đó là lưới
gì? Lưới của khát ái, của chấp ngã,của tà kiến, của khổ v.v… Khi phá được những
lưới ấy sẽ thành tựu những lưới nguyện.
KINH:
Sẽ độ chúng sanh giới
Sẽ tịnh quốc độ giới
Sẽ chứa trí huệ giới
Sẽ thành tâm nguyện giới.
GIẢNG: Đoạn trước kinh
nói chữ “luân,” sau nói đến chữ “lưới” và đây thì nói đến chữ “giới” để chỉ rõ
những mức độ tu hành đi lên.
KINH:
Sẽ làm chúng sanh mừng
Sẽ làm Bồ Tát mừng
Sẽ làm Chư Phật mừng
Sẽ thành sự vui mừhg
Sẽ thấy tất cả loài
Sẽ thấy tất cả cõi
Sẽ thấy tất cả pháp
Sẽ thấy thành của Phật
…(Bỏ một đoạn)…
Nếu vào pháp môn này
Thời đủ các công đức
Lìa hẳn các ác thú
Chẳng thọ tất cả khổ
Chẳng lâu bỏ thân này
Vãng sanh về Phật độ.
GIẢNG: Trong kinh lúc
nào cũng luôn nhắc chúng ta có ước nguyện vãng sanh, vì chỉ khi được vãng sanh
mới đắc được vô sanh pháp nhẫn, thành pháp thân Bồ Tát và làm viên mãn những
hạnh độ sanh.
KINH:
Thường thấy thập phương
Phật
Và cùng chư Bồ Tát
Nhơn trước, nay trí huệ
Và thờ thiện tri thức
Thêm lớn các công đức.
GIẢNG: Tại sao ngài Di
Lặc lại khuyên Thiện Tài nên vãng sanh về Tịnh Độ, mà ngài lại không nói đến sở
đắc của Thiện Tài như đắc được tứ thiền, tứ không định hay diệt tưởng định? Sở
dĩ ngài nói vãng sanh là vì tất cả con đường tu hành dù tu theo phương pháp
nào, dù thiền, dù Tịnh, dù Mật v.v… rồi cuối cùng cũng phải qua Tịnh Độ. Nên
những vị tu thiền, nếu họ hiểu rõ, thì họ có thể ca ngợi pháp môn thiền, nhưng
không nên chê bai Tịnh Độ, vì cuối cùng các vị đó cũng phải sang Tịnh Độ. Trong
kinh Hoa Nghiêm, phẩm thập địa nói rõ, đến đệ thất địa, tức là viễn hành địa,
vị Bồ Tát phải khởi tâm xin sang Tịnh Độ, vì sang đó mới có thể lên được vô
sanh pháp nhẫn (đệ bát địa), mới gần được Chư Phật, để thiện căn ngày
càng lớn, mới có thể thành Phật được. Còn tu thiền thì chỉ tu lên đến đệ thất
địa rồi thôi, không cách gì có thể lên cao hơn được nữa. Nói theo ngôn ngữ nhà
thiền là “thiền kiến tánh” thì Kiến tánh mới chỉ ở mức độ bước vào thức ấm, còn
phải tu lục độ, vạn hạnh, lặn sâu để đến “Vô sanh nhẫn”, có thần thông nên
phải sang Tịnh Độ, mới có vô sanh nhẫn được.
Trái lại, với nhục thân
này không có cách gì làm đủ lục độ, vạn hạnh được. Tất cả kinh đại thừa kinh
nào cũng nói như vậy. Nên một bậc A La Hán, các ngài tu vào đến không hải, tức
là mấp mé vào thức ấm, ngồi trong đó tiêu dung những phiền não chướng thì gọi
là giải thoát, (giải thoát khỏi những vọng tình), gọi là Niết Bàn
của Thanh Văn. Nhưng rồi chư Phật mười phương lại khởi tâm từ bi, đưa các vị đó
sang Biên địa của Tịnh Độ, các vị A La Hán ấy ngồi trong hoa sen nhiều kiếp,
tắm trong hào quang của chư Phật, đến khi có thể nở ra trí cầu vô thượng tuệ
giác và tâm đại bi muốn tu lên nữa để độ sanh. Lúc bấy giờ hoa sen mới nở, và
các ngài tu lên nữa. Trong Hoa Nghiêm, nếu ta đọc kỹ có nhiều đoạn nói về vãng sanh,
vì vậy, các vị tu theo thiền không nên chê pháp môn Tịnh Độ, hoặc tụng chú. Như
ngài Hám Sơn (trong Thiền học tu tập) nhận rằng nhiều vị thiền sư cũng
tụng chú mà các vị đó không nói ra mà thôi. Vì có tụng chú mới trừ được những
vọng tưởng vi tế.
Ở đây, tôi cũng biết một
vài vị thiền sư, vì quá say mê tu thiền nên hay bài bác Tịnh Độ, khiến lưu hại
đến nhiều người khác. Có những người đi nghe về, bỏ hết, chẳng tụng kinh, chẳng
niệm Phật, bàn thờ Phật cũng dẹp luôn, không có đi chùa. Đó là những nghiệp nặng
không biết bao giờ vị thiền sư ấy trả mới hết. Nên phải cẩn thận, ta có quyền
ca ngợi pháp môn của mình, nhưng không nên khinh chê những pháp môn khác, vì
pháp môn nào cũng do Chư Phật ba đời nói ra.
Pháp môn Tịnh Độ là một
pháp môn có ba bộ kinh nói, bộ thứ nhất là đức Thích Ca Mâu Ni Phật nói trong
kinh A Di Đà, chư Phật mười phương phải hiện tướng lưỡi rộng dài mà nói rằng:
“Chúng sanh các ngươi
phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ
Niệm này… Xá Lợi Phất, nơi ý ông nghĩ sao, vì sao tên là kinh Nhất Thiết Chư
Phật Sở Hộ Niệm? Xá Lợi Phất,vì nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào nghe
kinh này mà thọ trì đó, và nghe danh hiệu của các đức Phật, thời những thiện
nam tử cùng thiện nữ nhơn ấy đều được tất cả các đức Phật hộ niệm, đều được
không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.”
Nên nếu chê pháp
môn ấy, hóa ra là phỉ báng tất cả chư Phật sao? Như trong bài
kệ của ngài Di Lặc nói với Thiện Tài sau đây, tôi xin đọc lược cho quí vị nghe…
KINH:
Nếu vào pháp môn này
Thời đủ các công đức
Lìa hẳn các ác thú
Chẳng thọ tất cả khổ
Chẳng lâu bỏ thân này
Vãng sanh về Phật độ,
Thường thấy thập phương Phật,
Và cùng chư Bồ Tát
Nhơn trước, nay trí huệ
Và thờ thiện tri thức
Thêm lớn các công đức
Như nước mọc hoa sen.
GIẢNG: Sau khi sang được
Tịnh Độ, được sống chung với các vị Phật và Bồ Tát, thiện căn của hành giả mỗi
ngày một tăng, không thối chuyển. Điều này cũng dễ hiểu, như ta sống trong đời,
giao du với toàn những bạn lành, tự nhiên ta cũng trở nên tốt, ngược lại, chơi
với những người xấu, chúng ta cũng sẽ xấu, không khác được!
KINH:
Thích thờ thiện tri thức
Siêng cúng tất cả Phật
Chuyên tâm nghe chánh pháp
Thường tu chớ lười mỏi
Ngươi là chân pháp thí…
GIẢNG: “Chân pháp thí”
là công cụ chân thật của pháp thí, vì làm gương cho kẻ khác.
KINH:
Thường đủ tất cả pháp
Sẽ tu tất cả đạo
Sẽ mãn tất cả nguyện
Ngươi dùng tâm tín giải…
GIẢNG: Trọng con đường
tu hành của đạo Phật thường có mấy căn chính, là tín căn, tinh tấn căn, nguyện
căn, giới căn, định căn và huệ căn. Căn đầu tiên là tín căn, tức là luôn phải
có lòng tin vững chắc, đó là căn đầu tiên và cũng là căn cuối cùng, nên ngài Di
Lặc nhắc lại cho Thiện Tài nhớ, cũng như khi Thiện Tài đến gặp ngài Văn Thù,
ngài đâu có nói đến chuyện giới, định, huệ, mà ngài lại nhắc lại tín căn ấy,
nên phải hiểu tín căn là gốc chính, nên chúng ta luôn khởi lòng tin ở giáo lý
này, giáo lý Duy Tâm sở hiện.
Ngài Di Lặc tượng trưng
cho Thủy Giác, còn ngài Văn Thù tượng trưng cho Căn Bản Giác, mà cả hai đều
cùng nhắc đến tín căn ấy.
KINH:
Ngươi dùng tâm tín giải
Mà đến kính lễ ta
Chẳng lâu sẽ vào khắp
Tất cả Phật pháp hội
Lành thay chân phật tử
Cung kính tất cả Phật
Chẳng lâu đủ các hạnh
Đến bờ Phật công đức
Ngươi nên mau đến chỗ
Của Đại Trí Văn Thù
Ngài sẽ khiến ngươi được
Hạnh thâm hiểu Phổ Hiền.
GIẢNG: Ngài Di Lặc là
Nhất Sanh Bổ Xứ, cũng có thể ngài đã thị hiện thành Chánh Giác ở nhiều cõi
khác. Trong kinh thường gọi những vị tu như ngài Di Lặc, Thiện Tài là những vị
tu đắc quả lớn, thuộc về Thủy Giác. Chúng ta sơ cơ, mới chỉ phát Bồ Đề Tâm
thôi, có một chút ý niệm muốn trở về diệu tâm ấy cũng được gọi là Thủy Giác.
Nhưng Thủy Giác tu lâu sẽ trở lại thành Căn Bản Giác. Ngài Văn Thù Sư Lợi tượng
trưng cho biển diệu tâm, là Căn Bản Trí, cũng gọi là Căn Bản Giác, vì vậy, ngài
Di Lặc khuyên Thiện Tài đến ngài Văn Thù, tức là nhập vào với Căn Bản giác ấy.
KINH: Thiện Tài nghe Di
Lặc Bồ Tát ở trước đại chúng tán dương công đức tạng quảng đại của mình, liền
vui mừng hớn hở, toàn thân rởn ốc, rơi lệ nghẹn ngào, đứng dậy chắp tay cung
kính hữu nhiễu vô lượng vòng…
GIẢNG: Thiện Tài nghe
ngài Di Lặc tán dương mình như thế liền vui mừng hớn hở, chúng ta cần hiểu rằng,
không phải Thiện Tài vui mừng vì được ngài Di Lặc khen mình đâu, vì Thiện Tài
gần như đã hết ngã chấp rồi. Nhưng vì ngài Di Lặc khen mức độ tu hành của Thiện
Tài, nên dù sao, pháp hỷ và lòng tri âm của Thiện Tài cũng làm cho Thiện Tài
toàn thân rởn ốc, rơi lệ nghẹn ngào…
Khi nào chúng ta đọc
kinh mà cảm thấy toàn thân rởn ốc, rơi lệ nghẹn ngào là đã đến một mức độ khá
rồi, vì đó là sự tác động vào thọ ấm, khiến chúng ta cảm động rơi lệ. Đọc kinh,
lễ Phật, hay gặp một bậc thiện tri thức đạo hạnh cao mà ta thấy rơi lệ, đó gọi
là “the gift of tears,” là vì tâm thức tác động mạnh vào thọ ấm. Nên phải hiểu
rằng sự liên quan rất chặt chẽ của năm ấm với nhau là thế.
Như trong Thiên chúa
Giáo, có một vài trường hợp của những bà Soeur chỉ có ngắm Chúa với một lòng
tin sâu chắc mà trên thân hiện những vết đóng đinh của Chúa. Một trường hợp
khác là có một vị linh mục, cũng rất nổi tiếng, vì hay có nhiều vết tích đóng
đinh của Chúa trên thân, (tên gì tôi cũng quên mất), chỉ vì sự cầu
nguyện và lòng tin mà ra. Nên phải hiểu thọ ấm tác động vào sắc ấm rất mật
thiết, khi lòng thành kính đến mức độ tột cùng, đến độ rơi lệ nghẹn ngào, toàn
thân rởn ốc thì lúc đó có thể có những hiện tướng kỳ diệu.
Vì trong Thiên chúa Giáo
vẫn còn đặt nặng vào phần tình cảm (vọng tình) rất nhiều, không có Bát
Nhã, nên hiện tướng rất mạnh, có thể có những công tác hạnh nguyện hy hữu, như
có những bà soeur dâng hiến cả đời mình trong một trại cùi, cho rằng, thân xác
này đã hoàn toàn dâng lên Chúa, đã đeo nhẫn đính hôn với Chúa nên nguyện làm
tất cả những việc lành để đến khi mãn đời sẽ được lên cõi Chúa đời đời. Còn bên
Phật giáo lại hơi khác, có thêm Bát Nhã khi khởi tâm Từ Bi, mà từ bi một cách
bình đẳng vì trong đó đã nhuốm mùi Bát Nhã, vì từ bi mà không chấp, vì làm
những hạnh nguyện mà không cầu mong quả báo, đó gọi là “vô công dụng hạnh.” và
các bậc cao không ngừng thí thân để độ sanh.
KINH: Do sức tưởng niệm
đức Văn Thù, nên bất giác những hoa Anh Lạc và Diệu Bửu bỗng nhiên đầy cả hai
tay. Thiện Tài liền rải lên cúng dường Di Lặc Bồ Tát.
GIẢNG: Ở đây, ngài
Thiện Tài quán tưởng cao và thần thông ghê gớm, nên khi ngài Di Lặc nhắc đến
ngài Văn Thù, Thiện Tài chỉ cần tưởng niệm tới ngài Văn Thù thôi, (tưởng
niệm đến ngài Văn Thù tức là tưởng niệm đến ngài Văn Thù thần hóa ấy, đi sâu
vào tri kiến Phật) hoa Anh Lạc và Diệu Bửu hiện đầy cả hai tay. Nói
một cách rõ hơn, Thiện Tài tưởng niệm diệu tâm ấy, Phật tri kiến ấy, rồi dùng
sức của diệu tâm hiện ra đủ các thứ hoa và diệu bửu để đem lên cúng dường đức
Di Lặc, cũng là cúng dường diệu tâm ấy, nhưng một đằng là thủy giác, một đằng
là căn bản giác.
KINH: Thiện Tài nói
kệ kính thưa:
Tôi nghĩ thiện tri thức,
Ức kiếp khó được gặp
Nay đều được thân cận
Và đến gặp được Ngài
Tôi nhờ Đức Văn Thù
Được thấy người khó thấy
Bậc đại công đức kia
Nguyện sớm về thờ kính.
GIẢNG: Trong bài kệ này
đại khái Thiện Tài muốn nói rằng, con nhờ Đức Văn Thù mới có thể đến gặp được
Ngài (Di Lặc). Nhưng đức Văn Thù, ngài Di Lặc và ngay cả Thiện Tài cũng chính
là diệu tâm ấy, song trên phương diện thế tục thì nó hiện tướng lần lượt ra như
thế.
KINH: Bạch Đại Thánh,
tôi đã phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh,
thế nào tu Bồ Tát đạo? Đức Như Lai thọ ký cho đại thánh một đời sẽ chứng quả Vô
Thượng Chánh Giác. Nếu là một đời sẽ được Vô Thượng Chánh Giác thời đã siêu việt
tất cả chỗ sở trụ của Bồ Tát…
GIẢNG: Lúc trước,ngài Di
Lặc ca ngợi con đường tu của Thiện Tài, thì ở đây, Thiện Tài lại nói rõ những
siêu xuất của ngài Di Lặc, rằng ngài đã được đức Như Lai thọ ký rồi, “nếu là
một đời sẽ được vô thượng chánh giác thời đã siêu việt tất cả chỗ sở trụ của Bồ
Tát..,” Tức là Thiện Tài đang tán thán ngài Di Lặc. Một vì Bồ Tát tu hành bố
thí ba la mật, nếu còn trụ vào đó thì vị Bồ tát ấy vẫn còn trụ, còn châp,giới
v.v../Cũng thế, nếu còn chấp mình có đắc, có làm thì vẫn còn bị dính mắc, còn
bị trụ vào trong pháp môn ấy. Nhưng ngài Di Lặc đã siêu việt tất cả sở trụ rồi,
các thứ bậc ngài đã đi qua mà vì có Bát Nhã nên không trụ chỗ nào cả.
KINH: Thời đã xuất quá
tất cả bậc ly sanh của Bồ Tát. Thời đã viên mãn tất cả ba la mật. Thời đã thâm
nhập tất cả nhẫn môn. Thời đã dầy đủ Bồ Tát địa. Thời đã du hí tất cả Bồ Tát
môn. Thời đã thành tựu tất cả pháp tam muội. Thời đã thông đạt tất cả Bồ Tát
hạnh.
GIẢNG: Các vị tu cao,
bao giờ gặp nhau cũng tán thán, không phải để khen tặng nhau, mà tán thán để
cốt cho những người đời sau đọc những lời kinh họ sẽ khởi tâm trân trọng, kính
tin và tu hành. Vì các ngài đã tu đến mức vô ngã, không cần sự ca ngợi làm gì.
KINH: Thời đã chứng được
tất cả đà la ni biện tài. Thời đã ở trong tất cả Bồ Tát tự tại mà được tự
tại. Thời đã du hí trí huệ phương tiện. Thời đã xuất sanh trí đại thần thông.
GIẢNG: Sau này, khi
chúng ta đi vào Bát Nhã sẽ hiểu rõ thế nào là trí huệ phương tiện, mà các ngài
“du hí” trong đó tức là các ngài làm chủ những phương tiện độ sanh ấy một cách
thần kỳ. Nên trong nhà phật có chữ “phương tiện huệ,” thí dụ như một vị tu hành
đắc được đến tam thiền, tứ thiền mà không có trí huệ phương tiện, thì lúc chết
sẽ thọ sanh trên một trời nào đọ mà thôi. (Trí huệ phương tiện là lòng vừa đại bi,
vừa bát hhã khiến vị Bồ Tát đó luôn nghĩ tưởng đến chúng sanh, đồng thời biết
những phương cách tốt nhất để độ cho từng loài, hoặc từng chúng sanh.) Nhưng
khi một vị đắc được tứ thiền, nhưng đồng thời hiểu được từ bi và bát nhã thì
đáng lẽ ngài thọ sanh vào tầng trời tứ thiền để hưởng thiền lạc, thì trái lại
thọ sanh xuống nhân gian, hay thọ sanh trong loài ngạ quỷ, súc sanh v.v… để độ
chúng sanh, đó là “phương tiện huệ.” Trí huệ phương tiện thường đi đôi với
phương tiện lực, thí dụ các vị thị hiện như là thai sanh, kỳ thực không phải là
thai sanh mà là hóa sanh. Như Phật Thích Ca của chúng ta, ngài thị hiện gá vào
thân Ma Gia Phu Nhân mà thôi. Nhưng Ma Gia Phu Nhơn không phải là một người mẹ
thường, mà ngài chính là một vị Bồ Tát có đại nguyện trí huyễn,nguyện làm mẹ
của tất cả chư Phật những điều đó đều là những phương tiện, cũng là trò du hí
của Bồ Tát.
KINH: Thời dã du hí trí
huệ phương tiện. Thời đã xuất sanh trí đại thần thông. Thời dã thành tựu tất cả
học xứ.
GIẢNG: Mỗi chỗ tu tập
cũng đều gọi là học xứ. Đoạn này, đọc lược thế cũng đủ.
KINH: …(Bỏ một đoạn)… Đã có thể khắp sanh tất cả Phật
pháp, đã có thể mau lên bậc nhất thiết trí.
GIẢNG: Đó là đoạn kinh
Thiện Tài ca ngợi ngài Di Lặc.
KINH: Bạch Đại Thánh, Bồ
Tát thế nào học bồ tát hạnh, thế nào tu bồ tát đạo? Thế nào tùy chỗ tu học mau
được đầy đủ tất cả Phật pháp, đều có thể độ thoát chúng sanh đã nhớ đến, có thể
thành mãn những đại nguyện dã phát …(bỏ một đoạn)…, chẳng
dứt tam bảo, chẳng hư tất cả phật chủng, bồ tát chủng, có thể gìn pháp nhãn của
tất cả Chư Phật?
Những sự trên đây xin
Đại Thánh chỉ dạy cho…
Di Lặc Bồ Tát quán sát
tất cả chúng hội nơi đạo tràng, chỉ dạy Thiện Tài rằng…
GIẢNG: Ngài Di Lặc trước
khi chỉ dạy cho Thiện Tài, lại quán sát chúng hội đạo tràng, có nghĩa rằng,
không riêng gì dạy cho Thiện Tài mà còn dạy cho tất cả đại chúng nữa.
KINH: Này đại chúng, các
ngài thấy Đồng tử này đương hỏi tôi về công đức của Bồ Tát hạnh đây chăng? Đồng
tử này dũng mãnh tinh tấn,… đồng tử này thọ giáo nơi đức Văn Thù,… đồng tử này
rất là khó có. Đồng tử này xu hướng đại thừa…, Đồng tử này phát tâm cứu hộ tất
cả chúng sanh…, Đồng tử này vì những người bốn dòng hữu lậu (vô minh lậu, hoặc lậu, nghiệp lậu và khổ lậu) cuốn trôi mà
tạo thuyền đại pháp, vì những người bị sình lầy kiến châp lún chìm mà lập cầu
đại pháp. Vì những người bị si tối làm hôn mê mà thắp đèn đại trí, vì những
người đi trong đồng hoang sanh tử mà khai thị chánh đạo. (bỏ một đoạn)…
Với những người bị ác thú thời trao cho họ tay từ bi. Với những người bị hại về
ngũ uẩn thời chỉ cho họ thành Niết Bàn.
GIẢNG: “Những
người bị hại về ngũ uẩn” như chúng ta đây, luôn luôn bị ngũ uẩn làm
phiền. Khi ngũ uẩn hẫy hừng, như nói về sắc ấm, thì chúng ta khởi tâm thèm ăn,
tham dục, thích ngủ nghĩ, v.v… đó đều thuộc về cái hại của sắc ấm và thọ ấm. Hoặc
khởi tâm tham, sân, si, yêu, ghét, tham danh lợi v.v… thì thuộc về thọ và tưởng
ấm. Nói tóm lại, các chúng sanh đều bị hại về ngũ ấm. “Với người bị hại về ngũ
uẩn, thời chỉ cho họ thành Niết Bàn,” tức là chỉ cho họ cách tiêu dung bớt
những vọng tình, để tâm thức được lặng lẽ thanh tịnh hơn, mới có thể tới được
Niết Bàn.
KINH: Với người bị ràng
buộc trong thập bát giới thời dùng thánh đạo để mở.
GIẢNG: Thập bát giới là
căn, trần, thức. Ba chữ căn, trần, thức nghe thì thấy rất đơn giản, nhưng nếu
triển khai ba chữ ấy thì phải viết đến một cuốn sách cũng chưa hết. Căn là sáu
căn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý). Thường chúng ta nghĩ mỗi căn điều
có vị trí, xứ sở của nó, như mắt nằm đây, tai nằm kia v.v… nhưng trong kinh
Lăng Nghiêm lại dạy rằng mỗi căn là một giới (tức là thế giới), tại sao
lại gọi là thế giới? Vì nhãn căn tuy với mắt thịt trông thấy ở trên khuôn mặt
thôi, nhưng chính cái thấy đó là những quang minh phổ cùng khắp, nên một vị tu
hành cao, họ có thể nhìn bằng tay, bằng đầu gối, bằng chân v.v…, cái nghe cũng
vậy, cùng khắp pháp giới. Bên ngoài là sáu trần, giao thoa với bên trong là sáu
căn. Ta đừng tưởng rằng, sáu căn biệt lập với sáu trần, thí dụ như ta trông
thấy một cái chén nước, thì cứ tưởng rằng, con mắt khác với cái chén, biệt lập,
không dính dáng gì với nhau. Nhưng đạo Phật lại nói rằng, cái mắt không thể nào
rời được cái trần (căn không thể rời được trần), lúc nào cũng phải nhìn
thấy cái gì, khi mở mắt chúng ta nhìn thấy quang cảnh mọi vật, đến khi nhắm
mắt, tuy không nhìn thấy quang cảnh bên ngoài, nhưng lại nhìn thấy tối đen,
nhắm lâu hơn, sẽ thấy nhiều bóng dáng tiền trần nổi lên trong ký ức, đến
khi ngủ thì cũng thấy trong giấc mơ. Cũng có những người nói rằng tôi không có
giác mơ nào cả là vì ý thức hoặc đi sâu vào trong, hoặc có nhìn thấy nhưng khi
thức dậy lại quên mất, nên cho rằng không có giấc mơ. Nên có căn là phải có
trần,hai thứ đó dính vào nhau, đắm nhiễm với nhau từ vô lượng kiếp gọi là “lục
nhập.”
Qua đến cái tai, cũng
vậy, không có lúc nào mà tai không nghe thấy cái gì, như khi đánh chuông thì
nghe tiếng chuông, nhưng không đánh chuông thì lại nghe thấy sự yên lặng, vì
yên lặng cũng là một thứ âm thanh. Vì vậy, phải hiểu rằng tất cả đều một tâm mà
ra, mặt này sinh ra tiếng, mặt kia sinh ra cái nghe, một mặt nó sinh ra sắc trần,
một mặt lại sinh ra cái thấy biết v.v…, vì tất cả đều chỉ luẩn quẩn trong tâm
lúc nào cũng dính mắc với nhau. Những căn ấy (sáu căn: nhãn, nhĩ tỉ, thiệt,
thân, ý cùng với sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) nhà Phật đều
gọi là giới, vì nó khắp tất cả mọi nơi, sáu căn và sáu trần đối chiếu nhau, đắm
nhiễm nhau, giữa hai thứ đó sinh ra cái thức, là cái biết phân biệt. Lấy một
thí dụ cho dễ hiểu, khi mắt nhìn thây hoa hồng, thì mắt là căn, hoa là trần,
khi tia quang minh trong mắt phóng ra chụp lấy cái hoa hồng ấy, đồng thời hoa
hồng ở ngoài cũng phóng những quang minh đi lồng vào mắt, hai cái đó chạm nhau,
tóe ra hình ảnh gọi là thức. Hoa hồng ấy không có tự thể của nó, không có vật
gì nhất định là vật gì, chứng cớ là khi một loài chúng sanh khác, có những
nghiệp khác chiêu cảm sẽ nhìn hoa hồng thành một thứ khác. Nên tất cả chỉ có
“danh tự” và tập khí nhận biết mà thôi.
KINH: Với những người bị
ràng buộc trong thập bát giới…
GIẢNG: Tức là bị ràng
buộc trong căn, trần, thức đó…
KINH: Thời dùng thánh
đạo để mở. Với người đắm nơi trong tụ lạc lục xứ trống rỗng thời dùng ánh sáng
trí huệ dể dẫn họ ra.
GIẢNG: “Tụ lạc lục xứ”
là sáu căn ấy, là nơi qua lại tất cả ảnh tượng, cảm giác, nên gọi là tụ lạc.
Chính tất cả những hình ảnh đi qua lại trong lục xứ đó đều trống rống, chĩ ảnh
hiện lên mà thôi. Loài người có lăng kính cộng nghiệp chung thây tất cả cảnh giới
như thế này, còn những loài khác cũng có những lăng kính riêng của nó lóe lên
những ảnh tượng pháp giới khác. Khi hiểu chân lý như vậy, ta sẽ không còn chấp
vào gì cả, mà có thể thông cảm được những quan điểm của người khác.
KINH: Người ở nơi đạo tà
thời dùng chánh đạo cứu họ…, (bỏ một đoạn)…, người
ham sanh tử thời làm cho họ xu hướng thành nhất thiết trí.
GIẢNG: “Người
ham sanh tử” chính là chúng ta đây, lúc nào cũng sợ chết, bệnh tật một
chút là rối rít lên.
KINH: Đồng tử này hằng
dùng những công hạnh như vậy để cứu hộ chúng sanh, phát bồ đề tâm chưa từng
thôi dứt, …(bỏ một đoạn)… Này đại chúng, nếu chúng sanh nào có thể phát tâm vô
thượng bồ đề thời là rất hi hữu. Nếu đã phát tâm lại có thể tinh tân phương tiện
chứa nhóm những phật pháp như vậy thời lại càng hi hữu hơn.
Đến đây cũng gần hết
giờ, tôi xin dành một chút thì giờ để vị nào cần hỏi xin cứ hỏi…
HỎI: Thưa ông, tôi thấy
ông giảng có hơi lạc đề một chút, vì nếu sử dụng quang minh từ thô đến tế. Như
vậy sao trong thập nhị nhân duyên, lại bắt đầu từ vô minh, rồi lại đến hành
ngay, sau đó mới đến thức, mà thức này có phải A Lại Da thức không? Còn về phía
duy thức, thì cái thức lại đứng trước, sau mới đến hành, như thế là thế nào?
ĐÁP: Vô minh là niệm mê
mờ vô thủy đầu tiên. Còn cái hành trong mười hai nhân duyên và cái hành trong
duy thức cũng là một mà cũng là khác. Trên bình diện ngũ ấm thì thức ấm ở sâu
nhất, lúc đó chưa có hành. Còn thức trong mười hai nhân duyên, thì chữ thức đó
chỉ những “chủng tử nghiệp”, nên phải có hành nghiệp xong mới kết thành những
chủng tử đó. Hai cái đó nó đều hỗ tương cho nhau, cái nọ huân tập cái kia, cái
kia lại huân tập cái nọ. Còn trong ngũ uẩn, khi nói đến cái thức thì cái thức
ấm ấy rất vi tế, sau mới kết thành cái hành nơi hành ấm mới có một gút lớn là
cái ngã. Nên phải hiểu rõ, trong đạo phật cốt chỉ giảng ngang, giảng dọc nhiều
bình diện để chúng ta nắm được vấn đề, nhưng nhiều khi lại chính những lời
giảng ấy lại làm cho chúng ta rối trí thêm, vì chữ thì dùng giống nhau, cùng
gọi là thức, nhưng cái bình diện và lối nhìn lại khác.
Không biết còn vị nào
muôn hỏi nữa không?
Vậy xin hẹn quí vị kỳ
sau.
Xin cảm ơn quí vị.
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
Ngày 23 tháng 12 năm 1990
Hôm nay là buổi thuyết
giảng thứ thứ 117 về kinh Hoa Nghiêm tại chùa này.
Hôm nay chúng ta lại đi nốt
đoạn kinh Hoa Nghiêm, với ngài Thiện Tài. Cái vòng từ diệu tâm nở ra thành pháp
giới muôn hình vạn trạng này thì biều hiệu bằng chữ “HÙM,” còn chữ “ÚM” là
tượng trưng cho biển tâm vô sanh diệt. Trong những hiện tượng hữu hạn đó đều có
cái mầm của vô hạn. Khi cái mầm vô hạn dần dần nở ra, đó là Thủy Giác và là
biểu hiệu cho một hành giả muốn trở về với diệu tâm, và chữ “HÙM” sẽ dần dần trở về
chữ “ÚM.”
Khi Thiện Tài đi bước đường
cầu đạo này, tức là ngài tu hành đã lâu, có thủy giác từ xa xưa rồi, bây giờ đã
gần trở về tới nơi, có nghĩa rằng chữ hùm
sắp trở thành chữ úm. Nên khi Thiện Tài đến ngài Di Lặc, tâm thức của ngài Di
Lặc phần lớn nhập vào pháp giới rồi, nhưng nhập pháp giới xong là phải cụp cái
bông hoa pháp giới lại, thu tâm thức nhỏ lại, chui tọt vào điểm không hư đó.
Lúc nhập pháp giới thì rất mênh mang bao la, trải thân tâm trên tất cả mọi chỗ,
không một cọng cỏ nở ra, không có một chúng sanh động đậy, hay một hạt mưa rơi
v.v… mà các ngài không biết. Nhưng đến khi chui vào điểm không hư ấy thì lại
phải “cụp” tất cả pháp giới lại, thành một điểm phi không thời gian để trở về
biển Bát Nhã. Tương tự như trong Tây Du Ký kể Tề Thiên Đại Thánh có cái thiết
bổng, mỗi lần muốn nó to ra thì lắc lắc kêu to lên, thì cây thiết bổng lớn ra,
đến khi muôn thu nhỏ lại thì cũng lắc lắc và kêu “nhỏ, nhỏ,” thì cây thiêt bổng
nhỏ lại chỉ bằng một cái kim cài bên mang tai. Tề Thiên Đại Thánh muốn cây
thiết bổng to lên chỉ để đánh ma thôi, còn chúng ta muốn tâm lớn vô lượng là
chỉ để nhập pháp giới, và khi muốn thu tâm nhỏ lại, nhỏ hơn vi trần là để chui
vào điểm không hư của Bát Nhã, viên mãn một chu kỳ nở ra và cụp lại.
Nay xin đi vào kinh…
Lúc này, Thiện Tài gặp
ngài Di Lặc, ngài Di Lặc hiện ra, rồi ngài Di Lặc khen ngợi công đức của Thiện
Tài. Thì đây, tiếp theo…
KINH: Di Lặc Bồ Tát khen
ngợi công đức của Thiện Tài làm cho vô lượng trăm ngàn chúng sanh phát tâm bồ
đề, rồi bảo Thiện Tài rằng: Lành thay, lành thay, này thiện nam tử, ngươi vì
lợi ích tất cả thế gian, vì cứu hộ tất cả chúng sanh, vì siêng cầu tất cả phật
pháp, nên phát tâm vô lượng bổ đề. Này thiện nam tử, ngươi được lợi lành, khéo
được thân người…
GIẢNG: “Khéo được thân
người…” là Thiện Tài đã tu hành nhiều kiếp, phước đức nhiều nên có được một
thân căn thuần thiện.
KINH: Khéo trụ thọ mạng…
GIẢNG: Phát bồ đề tâm
chính là để trụ thọ mạng mình lại. Khi chúng ta tinh tấn phát bồ đề tâm, thì
ngay đến hạn chết, thọ mạng cũng có thể kéo dài thêm một khoảng thời gian nữa,
vì các vị quỉ thần cũng phải làm thế nào kéo dài cái thọ mạng ấy, để nuôi dưỡng
bồ đề tâm. Trong kinh còn nói, nếu có người nào quán huyễn giỏi, thì khi các
quỉ thần muốn tới bắt hồn người đó cũng không nhìn thấy. “Khéo trụ thọ mạng,”
là nói phát bồ đề tâm. Có một điểm cần lưu ý là ngài Di Lặc chuyên nói về
Không, vì ngài hiện giảng Bát Nhã và duy thức học trên cung trời Đâu Suất,
nhưng trong này ngài lại nói về Bồ Đề Tâm. Đủ biết các ngài thứ gì cũng giỏi
cả, nhưng các ngài cũng tùy theo tâm thức của chúng sanh để chuyên dạy về một
môn nào thồi. Mà cũng xin quí vị nghe kỹ ngài Di Lặc dạy về bồ đề tâm, vì không
có một đoạn kinh nào nói hay và thơ mộng đến thế, đoạn này dài khoảng ba chục
trang.
KINH: Khéo gặp đức Như
Lai xuất hiện..
GIẢNG: “Gặp đức Như Lai
xuất hiện” là vị Phật xuất hiện trong tâm Thiện Tài. Ý ngài Di Lặc muốn nói,
Thiện Tài khéo làm nở vị Phật trong tâm mình…
KINH: Khéo thấy Văn Thù
Sư Lợi đại thiện tri thức.
GIẢNG: Tức là khéo thấy
được Trí huệ của mình, vì muốn thấy được ngài Văn Thù rất khó, một là phải có
thiên nhãn lớn, hai là phải giữ tâm mình vừa đại bi, vừa bát nhã. Ở đây, trong
kinh hay dùng chữ “khéo,” tức là dụng tâm không bị lệch, không thiên về có cũng
không thiên về không. Như chúng ta đến chùa, tụng kinh hay giảng kinh bao giờ
cũng phải khéo giữ cái tâm chẳng có, chẳng không. Nếu thấy điều gì không như ý
cũng không cáu giận hay những gì thích ý cũng không vui mừng, mà giữ cái tâm
bình thản, khi có tâm “chẳng có, chẳng không” ấy nhiều vị quỉ
thần sẽ gia hộ cho. Cũng như ngày xưa, lúc mới đi thuyết pháp, tôi còn mong
đông người đến nghe, nhưng bây giờ thì sao cũng được, tất cả những gì ngoài đời
đều là những cơ duyên cả, không thể cưỡng cầu.
KINH: Thân của người là
thiện khí, được những thiện căn đượm nhuần, được pháp lành nuôi lớn, bao nhiêu
giải dục đều được thanh tịnh, đã được chư Phật đồng hộ niệm, đã được thiện hữu
nhiếp thọ.
GIẢNG: Trong thế gian có
hai thứ dục, một thứ dục thường gọi là “ngũ dục,” thích những cái thô kệch, như
ăn, uống, danh vọng, tiền bạc, những xúc giác êm ái mịn màng v.v… Nhưng trong
đạo phật còn một thứ dục khác gọi là “thắng dục,” là một thứ dục muốn đi lên
trên con đường tu hành,muốn tới Diệu Lực.
KINH: Tại sao vậy? Vì
tâm Bồ Đề như chủng tử.
HỎI: Tâm bồ đề để đi đến
diệu tâm?
ĐÁP: Khi còn ở dưới thấp
thì nó tách ra thành hai khía cạnh, một khía cạnh là Bát nhã và một khía cạnh
là đại bi. Tâm bồ đề là bao gồm cả bát nhã và đại bi. Chính ra, nếu nói kỹ thì
có nhiều thứ tâm. Như Hỷ Tâm, Xả Tâm, Sám Nguyện
Tâm v.v… nhưng chúng ta chỉ cần nhớ đơn giản về cái tâm có hai khía cạnh,
bát nhã và dại bi là đủ rồi.
Vậy câu hỏi tôi muốn đặt
ra rằng, tâm bồ đề có khác với tâm bát nhã không? Cũng gần giống, nhưng tâm bát
nhã thì các ngài nhấn mạnh vào cái Như Thật Không, còn tâm bồ đề thì tiến tới cả Như Thật Không và Như Thật
Bất Không. Nên ngôn ngữ, nhiều khi không có đủ để diễn nói hết được, như
chữ tâm và chữ thức, nhiều khi chúng ta bắt gặp trong kinh nói rất chùng nhau,
người đọc rất dễ lạc và hay bị bối rối.
HỎI: Trong sách nói về
thực đại thừa và quyền đại thừa. Hai cái đó khác nhau thế nào?
ĐÁP: Quyền đại thừa có
thể nghiêng về có, có thể nghiêng về không. Lên đại thừa viên dung thì phải giữ
cái tâm không nghiêng về có, cũng không nghiêng về không. Tựa như con chim bay
bằng hai cánh, nếu cánh bên này lệch hoặc cánh bên kia lệch cũng đều té cả, hai
cánh phải thăng bằng, tức giữ cái tâm không có, không không, và nếu giữ được
cái tâm ấy thì đi qua chỗ nào, hoạn nạn nào cũng được thoát cả.
KINH: Vì tâm bồ đề như
chủng tử, vì có thể sanh tất cả Phật pháp.
GIẢNG: Tâm bồ đề như là
cái ruộng chứa tất cả chủng tử để sau mọc lên những thứ cây Bạch Tịnh Pháp, nói
tóm lại, tất cả Phật pháp đều là bồ đề tâm. Ngoại đạo thì chưa biết đến chỗ đó,
chưa biết là chính Tâm ấy dệt nên thế gian, cứ nghĩ rằng phải có một vị Thượng
Đế toàn năng sinh ra, điều đó không đúng lắm, vì còn nông.
Tâm bồ đề như chủng tử
có thể sanh tất cả pháp lành, vì vậy trong kinh mới nói rằng phát bồ đề tâm thì
có nhiều công đức. Vì vậy, trong chúng ta, ai không phát bồ đề tâm thì vị đó tự
cô phụ mình, như thấy một viên ngọc vô giá ngay trước mắt, ngay trong mình, mà
ta không biết nhặt lấy.
Từ đây, ngài Di Lặc toàn
dùng những ví dụ rất cao đẹp để nói bồ đề tâm.
KINH: Bồ đề tâm như
ruộng tốt vì có thể sanh trưởng bạch tịnh pháp cho tất cả chúng sanh.
GIẢNG: Pháp Bạch Tịnh là
những thiện căn tốt, sanh từ tâm, bắt đầu bằng tâm bồ đề, cũng như một mảnh đất
phì nhiêu, đã được gieo trồng chủng tử bồ đề tâm, sau sẽ nở lên những cây cỏ lúa
tốt.
KINH: Bồ đề tâm như đại
địa, vì có thể gìn giữ tất cả thế gian.
GIẢNG: Tất cả pháp giới
này đều mọc trên bồ đề tâm ấy. Chúng sanh cứ tưởng chúng ta trụ trên trái đất
này, nhưng trái đất này lại trụ trên hư không, mà hư không ấy trụ phải trụ trên
thức luân,và thức luân trụ trong bồ đề tâm ấy. Đây là ngài nói thí dụ đơn sơ để
cho chúng sanh đời sau như chúng ta hiểu thôi, là đức tính của tâm bồ đề như
đại địa.
Quí vị cứ thử nghĩ, tất
cả tinh hà, đại địa, cả thế giới vũ trụ càn khôn này cứ lửng lơ trong hư không,
ai giữ nó? Còn hư không kia thì sao? nó trụ vào đâu? Chỉ có đạo Phật dạy rằng
quang minh của tâm thức dệt nên sắc tướng này, tất cả những thứ đó hiện ra
trong tâm, trụ trong tâm rồi nó cũng tiêu dung trong tâm. Nên nhiều khi nghĩ
như vậy, thì chỉ còn cách đảnh lễ kinh, vì không có kinh, không có lời của bậc
Đại Giác nói ra, thì không một ai có thể nghĩ ra được cả.
KINH: Bồ đề tâm như tịnh
thủy, (nước thanh tịnh), vì có thể rửa sạch phiền não nhơ nhớp.
GIẢNG: Khi chúng ta phát
tâm bồ đề, thì có thể trừ được phần nào phiền não. Trước sân hận, tham lam bao
nhiêu thì từ khi phát bồ đề tâm, sân hận, tham lam ấy bớt dần đi (tuy không
thể hết được ngay trong kiếp này), vì vậy kinh mới nói rằng rửa những phiền
não nhơ nhớp, những chuyện ái, ố, thị phị v.v…
KINH: Bồ đề tâm như gió
lớn, vì vô ngại khắp ở thế gian.
GIẢNG: Gió lớn đi qua,
lại trong không gian vô ngại thì bồ đề tâm còn ghê gớm hơn nhiều, nó đi qua
đất, qua nước, qua lửa, qua hư không. Vì những thứ kia chỉ như bọt nước tụ lại
hiện ra trong bồ đề tâm ấy. Như trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy, tất cả sơn hà,
đại địa, tinh tú, nhật, nguyệt v.v… đều hiện lên trong tâm như cụm mây trắng
trong vòn trời xanh. Đó là một chân lý vô đẳng đẳng mà không có tôn giáo, hay
khoa học nào có thể ngờ tới được.
KINH: Bồ đề tâm như lửa
mạnh, vì có thể đốt tiêu củi kiến chấp.
GIẢNG: Nếu ta chịu khó
suy nghĩ kỹ, sẽ thấy kiến chấp của ta rất nặng nề, vì sao? Vì ta luôn sống theo
những thói quen cũ, huân tập từ nhiều kiếp, nhất là hay chấp lấy ý kiến của ta,
người khác nói cũng không bao giờ chịu hiểu, cứ tưởng là mình thắng giải. Mà
không hiểu rằng mỗi chúng sanh như một lăng kính lung linh, mỗi cái chiếu rọi
mỗi khác, mỗi người nghĩ mỗi khác vì họ ở vị Irí khác nhau. Đến khi ta thông
suốt mọi quan niệm, hiểu rõ cái lăng kính ảnh hiện của Tâm, lúc đó ta sẽ nhìn
thấy rõ những quan niệm của người khác và tại sao họ lại suy tư như vậy. Tất cả
chỉ là ảnh hiện, không có một lý lẽ nào cố định cả, chỉ tùy chúng sanh nhìn
lăng kính như thế nào thì pháp giới ảnh hiện như thế. Vì vậy, khi ta có tâm bồ
đề, thì nó như lửa mạnh đốt tất cả những củi kiến chấp.
KINH: Bồ đề tâm như tịnh
nhật, vì chiếu khắp tất cả thế gian.
GIẢNG: Tịnh nhật là mặt
trời không bị mây che phủ.
KINH: Bồ đề tâm như mặt
nguyệt sáng, vì những pháp bạch tịnh đều viên mãn. (bỏ một đoạn). Bổ đề tâm như cung điện vì an trụ pháp tam
muội.
GIẢNG: Một hành giả khi
tu tập tam muội sẽ có thiền lạc sung sướng vô chừng. Như là hành giả dạo chơi
trong ấy, trong cung điện Tâm một cách rất thoải mái.
KINH: Bồ đề tâm như khu
vườn, vì trong đó dạo chơi hưởng pháp lạc. …(Bỏ một đoạn)… Bồ đề tâm như đại
hải vì tất cả công đức đều vào trong đó.
GIẢNG: Tất cả pháp giới
không có gì khác, chỉ có mỗi cái tâm ấy. Như nếu chúng ta đi trong vườn cây,
hay đi ra biển, hay xuống phố, nhìn thấy tòa nhà cao chọc trời, khu phố, hàng
quán v.v… mà quán chiếu rằng, cây ấy, biển ấy, khu phố ấy v.v… đều mọc trong
tâm mình, vì một ngày kia, những thứ đó sẽ biến đi, nhưng tâm này còn lại, vẫn
an nhiên.
PHẬT TỬ: Thưa ông, quán
như thế thì quả thật là khó rất khó, vì vô lý quá. Làm sao tất cả những vật ù
lỵ thế mà lại mọc trong tâm mình được? hi.. hi.., mắc cười chịu không nổi!
ĐÁP: Nghĩ cho cùng thì
cũng khó thật. Chính tôi ngày xưa cũng vấp mãi về điểm này. Nhưng mấy năm gần
đây, tôi mới thấy rằng tất cả cũng chỉ có thể mọc trong tâm ra chứ không thể có
một lý thuyết hay lời giải thích nào đúng hơn. Quán chiếu được như thế, thì khi
gặp một điều gì chướng duyên ta sẽ không cảm thấy khó chịu lắm, như khi ta làm
bất cứ chuyện gì trong ngày, khi telephone, nghe tiếng nói léo nhéo lấc cấc,
hỗn hào ở đầu giây bên kia trả lời, thì quán rằng, tiếng vang ấy cũng chỉ mọc
trong tâm ta mà thôi. Hoặc giả, khi ăn cơm,nếu nghĩ rằng miếng cơm ấy, cũng từ
tâm ra, (lấy một phần tâm bên ngoài, đắp vào phần tâm bên trong), cứ thế, quanh
quẩn, lòng vòng như vậy, khi quán chiếu được như vậy thì cho dù thức ăn dở cũng
không lưu ngại được ta. Hay gặp những trường hợp tệ hơn, như có người đến đánh
chửi mình, ta cũng phải quán rằng người ấy, cũng mọc trong tâm mình ra, chứ ở
ngoài không có gì cả. Ngày xưa, lúc đi xe bus hoài,có khi phải ngồi bên cạnh một
bà Mễ, hay anh Mỹ đen to tướng, lúc đầu tôi cảm thấy khó chịu, nhưng sau khi
quán chiếu thấy, bà Mễ, anh Mỹ đen này, từ vô lượng nhân duyên, từ nhiều kiếp
đều từ trong tâm mình, nay hiện ra đến bên ta, nên ta chịu nghiệp khó chịu vì
thế. Tôi nói ra đây để gieo thêm những thiện duyên, chứ không mong quý vị chấp
nhận ngay được đâu, phải mài tâm, suy tư lâu thì hy vọng mới vỡ ra được phần
nào.
Đó là một lối quán chiếu
cho tâm ta nhẹ nhàng được đôi phần và sự thực là vậy. Còn một đều cần nữa là
không nên… nói về mình, đừng nói mình làm được điều này, điều nọ, đừng khoe,
đừng hãnh diện, cũng đừng so sánh mình với người, những gì tốt của ta thì cứ im
đi, càng im lặng thì công đức lại càng lớn, còn nói um xùm, đăng báo tùm lum,
thì công đức co lại. Đến khi chết thì chúng ta chỉ tính với quỉ thần chứ có
tính được với người đâu? Khi ta chết, dù cả thế giới này cũng không kéo được sự
sống cho ta, nhưng nếu có công đức, các vị quỉ thần có thể giúp chúng ta, đưa
ta đến chỗ an ổn được. Nên cần nhớ, đừng nói gì đến “cái ta,” đó là cách tập bỏ
cái ngã tương đối dễ nhất.
HỎI: Nhưng thưa ông,
trong đời sống hằng ngày, chúng ta cũng nên phải nói đến cái hay của mình để
người khác họ lấy đó làm gương chứ!
ĐÁP: Như vậy vẫn là tùy
cái tâm của ông, như tôi đã giảng nhiều lần ở đây. Chúng ta có thệ làm bất cứ
gì, người ngoài trông có vẻ sai trái, nhưng còn tùy tâm mình làm lúc đó, mục
đích việc làm ấy có lợi cho người thì tốt. Nếu ông nói về cái tốt của mình chỉ
với tâm vô ngã, lợi người thì nên làm chứ. Nhưng khó có trường hợp ấy lắm, vì
phần đông, chỉ nói vì có ngã, vì sự hãnh diện khoe khoang, nên tôi mới khuyên
như thế. Tất cả đều do tâm, ông có thể chửi người kia với cái tâm từ bi thì rất
tốt. Trong kinh kể, đức Phật một kiếp họ, ngài làm vua, nuôi 500 Bà La Môn,
khuyên những vị ấy tụng kinh đại thừa, nhưng các vị chỉ biết ăn chơi, không
chịu tu tập, ngược lại cứ giết dê, bò để tế thần thôi, nên ngài phải giết sạch,
để cho 500 vị Bà La Môn này khỏi bị đọa. Vì tâm từ mà giết nên ngài không bị
thọ quả báo.
KINH: Bồ đề tâm như núi
Tu Di, vì bình đẳng nơi tâm các chúng sanh.
GIẢNG: Tại sao lại nói
núi Tu Di bình đẳng? vì trong một ngày, núi Tu Di hiện nhiều màu sắc, óng ánh,
(tâm chúng ta cũng óng ánh nhiều màu khác nhau). Lúc ấy, nếu núi Tu Di
phát ra ánh sáng xanh thì tất cả những chúng sanh nào đến gần, đều mang mầu sắc
xanh. Lúc nó phát ra ánh sáng hồng, hay bất cứ mầu nào chúng sanh đến gần cũng
đều đồng màu với núi Tu Di cả. Vì thế mà gọi là núi Tu Di bình đẳng nơi tâm các
chúng sanh. Cũng như chư Phật có tâm đại bi bình đẳng, độ tất cả chúng sanh,
tùy theo căn cơ mà độ.
KINH: Bồ đề tâm như núi
Thiết Vi vì nhiếp trì tất cả thế gian.
GIẢNG: Trong Hoa Nghiêm
có kể, có những chặng Hương Thủy Hải, trong đó có những rặng núi Thiết Vi. Và
trong kinh Địa Tạng lại dạy, trong núi Thiết Vi ấy có địa ngục.
KINH: Bồ đề tâm như núi
Tuyết Sơn vì sanh lớn tất cả cây thuốc trí huệ.
GIẢNG: Núi Tuyết Sơn là
núi Hymalaiya trong đó có rất nhiều cây thuốc mà chúng ta không thể biết hết.
Trong kinh nói đến những cây thuốc rất lạ, có những cây thuốc đến tận nơi, nếu
chúng ta phước đức kém sẽ không trông thấy nó, không hái được, dù ở ngay trước
mắt. Cũng như chuyện đi biển, tất cả đều do phước đức và trí huệ. Trong kinh
Hiền Ngu kể, ngày xưa, có những đoàn thuyền khoảng năm, sáu trăm người rủ nhau
đi biển, không phải đánh cá mà tìm ngọc ngà châu báu, trong biển có nhiều Long
Vương giữ ngọc ngà, châu báu. Song những người không có phước thì dù có đứng
trước kho tàng ấy cũng không thể nhìn thấy được, người có phước đến đâu thì chỉ
được nhìn đến mức đó thôi. Nói tóm lại, tất cả đều do tâm hiện, cũng như ngài
Thiện Tài, vì đầy đủ phước đức trí huệ, nên khi vừa sanh ra thì dưới đất nứt ra
bao nhiêu kho tàng châu báu, vì đều do phước đức mà ra. Hiểu như vậy, ta không
nên cưỡng cầu làm gì, vì mong cầu cũng là một điều khổ rồi.
KINH: Bồ đề tâm như
Hương Sơn, vì xuất sanh tất cả hương công đức. Bồ đề tâm như hư không, vì những
diệu công đức rộng vô biên….(bỏ một đoạn)… . Bồ đề tâm như liên hoa, vì chẳng nhiễm tất cả pháp thế
gian.
GIẢNG: Đi vào thế gian
này mà không bị nhiễm, không khởi tâm mong cầu vướng mắc vào đâu cả thì cần
phải có bồ đề tâm.
KINH: Bồ đề tâm như
thuốc hay vì trị được tất cả bệnh phiền não. …(bỏ một đoạn)… Bồ đề tâm như bạch
chiên đàn, vì trừ những nóng tham dục làm cho mát mẻ.
GIẢNG: Có thứ hương gọi
là Bạch chiên đàn, bôi hương ấy thì trong người cảm thấy mát mẻ.
KINH: Bồ đề tâm như hắc
trầm hương, vì có thể xông khắp pháp giới.
GIẢNG: Tôi cũng chưa
biết thứ hắc trầm hương này mọc ở đâu, nhưng chỉ cần đốt độ một thù, hơi hương
xông khắp tất cả pháp giới. (Chúng ta nên để ý những thí dụ ngài dùng, đôi
khi những cái đó tuy có ở Diêm Phù Đề của chúng ta, thường xuất hiện trên núi
Tuyết Sơn, mà vì phước mỏng, chúng ta không gặp được, hoặc có gặp cũng không
biết được thuốc hay để dùng, và công dụng của nó ra sao. Nên chịu khó đọc qua,
để biết được trong cõi Ta Bà này cũng có nhiều thứ thuốc hay và lạ.)
KINH: Bồ đề tâm như
Thiện Kiến Dược vương, vì phá được tất cả bệnh phiền não.
GIẢNG: Thiện kiến dược
vương có lẽ là một loại thuốc mọc trên Tuyết Sơn, người uống vào có thể phá
được phiền nảo.
KINH: Bồ đề tâm như
thuốc Tỳ-cấp-ma, vì nhổ được tất cả hoặc tiễn.
GIẢNG: Tỳ-cấp-ma là một
loại thuốc uống vào sẽ hết những mũi tên của sự mê hoặc. Trong kinh nói nhiều
thứ lạ, nhưng đều là có thật cả. Nhiều người đọc kinh, không tin những điều ấy,
họ cho rằng đó chỉ là những thí dụ tượng trưng. Nhưng kinh không bao giờ nói
lời hư vọng, lúc nào lời kinh cũng có hai nghĩa, một nghĩa ở trong, và một
nghĩa ở ngoài. Trong thì nói tâm chúng sanh như thế, nhưng ngoài cũng có vật đó
thật, vì lúc nào trong ngoài cũng tương Ưng, không bao giờ có trong mà không có
ngoài, hoặc ngược lại. Có nhiều vị đọc Hoa Nghiêm, cho rằng những cảnh giới
trùng trùng, đều là những thế giới tưởng tưởng. Đó là một sự lầm lạc ghê gớm.
Lại có vị còn nói rằng, người Ấn Độ nhiều tưởng tượng quá, (Đức Phật đâu có
phải là người Ấn, ngài chỉ thị hiện xuống Ấn để dạy những người ngoại đạo mà
thôi.)
Nên phải hiểu, tất cả
những chữ trong kinh, không có chữ nào hư vọng, chúng ta đọc chưa hiểu vì tâm
thức còn kém cỏi, nghiệp chướng còn quá nặng nề, che mất chân tâm sáng ngời ấy
thôi.
KINH: Bồ đề tâm như Đế
Thích, vì là tối tôn trong tất cả vua chúa. Bồ đề tâm như Tỳ Sa Môn, vì dứt
được tất cả khổ nghèo cùng.
GIẢNG: Trên tầng trời Tứ
Thiên Vương có bốn vị Vua Trời. Nơi tầng trời Tỳ Sa Môn, có một vị tên là Công
Đức Thiên, chuyên trông coi về của cải, vàng bạc châu báu, và sự giàu có ở thế
gian. (Không biết ngài thị hiện là người Nam hay người Nữ, nhưng thường trong
sách nói là người nữ.) Ngài lúc nào cũng đi chung với một người em gọi là
Hắc Ám Thiên.
Nếu ngài Công Đức Thiên
chuyên cho của, ngược lại, ngài Hắc Ám Thiên chuyên cho họa. Trong kinh Đại Bát
Niết Bàn có kể, một hôm, có một người Trí gặp được vị Công Đức Thiên thì sung
sướng lắm, nhưng sau đó lại thấy một người nữ rất xấu xí lù lù theo sau, ông
này vội đuổi bà Hắc Ám Thiên đi mà bảo rằng: “Xin ngươi đi cho, tôi chỉ
tiếp bà đẹp đẽ này thôi (Công Đức Thiên)”. Nhưng ngài Công Đức Thiên
bảo rằng: “Không được, bao giờ chúng tôi cũng đi đôi với nhau, (ý
nói rằng, có phước là phải có họa), nếu ông muốn tiếp phải tiếp
luôn cả hai.” Nghe xong, người ấy vội xua tay mà nói rằng: “Vậy
xin hai vị đi mau cho, tôi thực tình chẳng dám nhận phước của ngài để phải gánh
họa nữa.” Các vị đó đều ở cung trời Tỳ Sa Môn thiên vương cả.
KINH: Bồ đề tâm như Công
Đức Thiên vì trang nghiêm với tất cả công đức.
GIẢNG: Ở đây chỉ
nhắc đến Công Đức Thiên thôi mà không nhắc đến Hắc Ám Thiên, vì bồ đề tâm thuộc
mặt thuần thiện, phước đức.
KINH: Bồ đề tâm như kiếp
hỏa đốt cháy, vì có thể cháy tiêu tất cả hữu vi.
GIẢNG: Khi chúng ta phát
bồ đề tâm, trong tâm ta như có một thứ lửa lớn, có thể đốt cháy tất cả những
phiền não. Tất cả những gì chúng ta chấp trước, hoặc lậu v.v… đều tiêu dung. Nên
những pháp hữu vi đều được thăng hoa thành pháp vô vi.
KINH: Bồ đề tâm như
thuốc vô sanh căn, vì trưởng dưỡng tất cả Phật pháp.
GIẢNG: Thường cây nào
cũng phải có rễ, nhưng không biết có cây nào mà chỉ có thứ rễ vô sanh không?
KINH: Bồ đề tâm như thủy
thanh châu, vì có thể thanh tất cả phiền não trược. Bồ đề tâm như châu như ý…,
bồ đề tâm như áo lông ngỗng, vì chẳng dính bụi sanh tử.
GIẢNG: Khi chúng ta phát
bồ đề tâm ngày càng lớn rộng thì cũng giống như một người mặc áo lông ngỗng
ngày xưa của Tàu, áo ấy không bị dính bụi. Còn bồ đề tâm thì không bị dính bụi
sanh tử.
KINH: …(bỏ một đoạn)… Bồ đề tâm như
gương sáng, vì hiện khắp tất cả tượng pháp môn. Bồ đề tâm dường liên hoa…, bồ
đề tâm như đại long vương vì có thể mưa tất cả diệu pháp.
GIẢNG: Vị Bồ Tát mang bồ
đề tâm có thể thuyết tất cả diệu pháp như Long vương làm mưa thấm nhuần tất cả
chúng sanh.
KINH: Bồ đề tâm dường
như mạng căn, vì chấp trì thân đại bi của Bồ Tát.
GIẢNG: Bồ đề tâm tương
tự như mạng căn, nếu phát bồ đề tâm thì mạng căn sẽ dài ra, vì chấp trì thân
đại bi của Bồ Tát. Nên chúng ta cần phát bồ đề tâm, vì nó như căn rễ, mọc trong
tâm sâu bao nhiêu thì mạng căn dài chừng ấy. Dù số phải đoản thọ, thì các vị
quỉ thần cũng phải làm sao kéo dài hơn để cho ta có dịp tu hành trưởng dưỡng bồ
đề tâm ấy.
Mà khi một vị Bồ Tát có
thân đại bi thì tất cả hộ trùng trong người phải biến đi hết. Chúng ta thường
có 84 ngàn hộ trùng trong người, vì ta chưa phát tâm bồ đề, hoặc nếu có phát
cũng lắt lay, đứt đoạn, rễ bồ đề chưa sâu, cây bồ đề chưa mọc. Nhưng các vị Bồ
Tát lại khác, cây bồ đề của các ngài xum xuê, nên thân căn các ngài rất thanh
tịnh, bước vào mức pháp thân Bồ Tát, các hộ trùng không còn, và Bồ Tát có thể
nương vào một người đàn bà mà thọ sanh nhưng chính ra lại là hóa sanh, không
phải thai sanh. Nhân nói về mạng căn, tôi cũng xin nói qua cho quí vị thấy chữ
“căn” trong nhà Phật rất lạ lùng, mà chắc ít ai để ý. Thường chúng ta chỉ biết
có sáu căn, nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, và ý, thêm nữa thì có dương căn và âm
căn. Nhưng trong đạo Phật lại nói, chúng ta có tới 22 căn, song chúng ta chỉ
biết được những căn hữu hình thôi, còn đạo phật nói thêm những căn vô hình, nếu
tu lên cao, nó cũng sẽ hiện tướng.
Như một người đọc kinh
lâu, người ấy sẽ nảy sinh lòng tin chắc sâu xa, tin nơi chân lý duy tâm sở hiện,
thì tín tâm ấy, lâu dần, phát ra một luồng lực tạo thành một căn. Khi đã có tín
căn, người ấy không bao giờ con nghi ngờ điều gì trong kinh nói, dù có người
bài bác, dù sống giữa ngoại đạo, dù sống trong một thế giới không ai biết đến
Phật giáo là gì, dù khi lâm chung gió nghiệp nổi lên ào ào mà vẫn tin vào kinh
đại thừa, vẫn tin vào đức A Di Đà và có thế giới Cực Lạc và vẫn cầu vãng sanh.
Trong 37 phẩm trợ đạo, ngoài những căn thô kệch thông thường còn nói thêm năm
thứ căn, và tu hành để cốt làm nở thêm năm căn ấy. Sau khi có tín căn, hành giả
sẽ có tinh tấn căn, lúc bấy giờ hành giả hành trì không hề lười mỏi. Như các vị
Bồ Tát có tinh tấn căn, các ngài tu tinh tấn ba la mật, có sự tinh tấn không bờ
mé, có thể ngồi tu trong rừng khổ hạnh, một ngày chỉ ăn vài hạt mè mà không bao
giờ khởi tâm thối thất. Sau đó, sẽ sinh ra niệm căn, lúc đó vị Bồ Tát có một
trí nhớ không bao giờ quên, dù quán chiếu cảnh gì cũng luôn nhớ đến mà không
sao lãng. Sau đó lại được định căn và huệ căn.
Trong đạo Phật, nhiều
khi chúng ta đọc kinh thấy ngơ ngác, vì ngài thường nói từ cái vô hình ra hữu
hình, ngài nói những cái bắt đầu khởi từ tâm, huân tập lâu dần sẽ trở thành
căn, rồi trở thành lực, khi thành lực, các vị Bồ Tát sẽ có tự tại lực. Ở đây
tôi chỉ kể sơ sơ mấy loại căn thôi, còn những căn khác chưa cần nói đến.
Những căn này, người
thường hay khoa học gia chưa thể biết nổi, chỉ một bậc Đại Giác có đủ ngũ nhãn
mới có thể nói ra được. Chúng ta tu hành, mới có một chút tín tâm, một chút
tinh tấn, (thỉnh thoảng lại thối thất), nên chưa hiện được thành căn.
KINH: Bồ đề tâm như cam
lộ, vì có thể làm cho an trụ nơi cõi bất tử.
GIẢNG: Khi có tâm bồ đề
rồi tu hành dần dần sẽ đến cửa bất tử, có thể sống vô lượng kiếp cũng được. Một
thí dụ là sang được nước Cực Lạc.
KINH: Bồ đề tâm như tấm
lưới lớn, vì nhiếp khắp tất cả chúng sanh.
GIẢNG: Trong đạo Phật
thường hay dùng chữ “lưới,” vì tất cả quang minh, pháp môn đều như một tấm lưới
lớn, cũng như người thợ đánh cá, quăng lưới bắt cá, song chư Phật và chư đại Bồ
Tát chỉ quăng lưới bồ đề tâm bắt chúng sanh để đặt sang bờ vô thượng chánh
giác.
KINH: Bồ đề tâm như lưới
chài, vì nhiếp lấy tất cả kẻ đáng được hóa độ.
GIĂNG: Tôi nghĩ ý niệm
về lưới, hay ý niệm về hoa nở là những ý niệm gợi cảm mà ta cần nhớ.
KINH: Bồ đề tâm như câu
mồi, vì bắt những kẻ ở trong bực hữu lậu.
GIẢNG: Ngài ví chúng ta
như những con cá, nếu cá ấy phát được bồ đề tâm rồi thì sẽ vượt được bậc hữu
lậu. (Hữu lậu là còn rỉ sót, tức là còn luân hồi trong tam giới.)
KINH: Bồ đề tâm như
thuốc a-già-đà, vì có thể làm cho người vô bệnh vĩnh viễn được an ổn.
GIẢNG: Trên th ực tế, có
thứ thuốc như vậy, nhưng vì chúng ta không đủ túc duyên nên chẳng biết.
KINH: Bồ đề tâm như
thuốc trừ độc, vì có thể tiêu hết độc tham ái. …(bỏ một đoạn)… Bồ đề tâm như thị
tứ, vì là chỗ đổo63ii chác của thương gia Bồ Tát.
GIẢNG: Trong kinh dùng
nhiều thí dụ thật lạ. Thị tứ là một tỉnh thành lớn, mà ở đó thường có những
thương gia đến đó để đổi chác những vật cần dùng với nhau. Còn Bồ Tát thì đổi
chác những tâm từ, tâm bi, tâm hỉ, tâm xả của các ngài, để thay đổi những tâm
tham, sân, si của chúng sanh.
KINH: Bồ đề tâm như
thuốc luyện vàng, vì có thể trị được cặn phiền não.
GIẢNG: Thường thợ luyện
vàng hay để một chút thuốc luyện vàng cho chất vàng được tốt. Còn khi có bồ đề
tâm, cũng tiêu trừ được những cặn phiền não.
KINH: Bồ đề tâm như mật
tốt, vì viên mãn tất cả vị công đức.
GIẢNG: Ngày xưa, các ông
lang y khi làm thuốc chữa bệnh, họ thường cho mật vào để tăng khí vị của thuốc.
Bồ đề tâm cũng vậy, như mật tốt có thể làm viên mãn những công đức của Bồ Tát.
KINH: Bồ đề tâm như châu
Đế Thanh, vì hơn hẳn trí của thế gian và nhị thừa. Bồ đề tâm như tiếng trống
tan canh, vì đánh thức chúng sanh say ngủ bởi phiền não.
GIẢNG: Phàm phu chúng ta
luôn đam mê chạy theo những phiền não, kiết sử của mình, khiến sống say, chết
ngủ. Bồ đề tâm khiến ta không say ngủ, và thăng hoa trí huệ.
KINH: …(bỏ một đoạn)… Bồ đề tâm là diệu
bửu…, bồ đề tâm như lưới nhơn đà la, vì có thể phục A Tu La phiền não. …(bỏ một đoạn)…. Này thiện nam tử,
bồ đề tâm thành tựu công đức vô lượng như vậy. Tóm lại, phải biết bồ đề tâm
đồng với công đức của tất cả phật pháp. Tại sao vậy, vì nhân nơi bồ đề tâm mà
xuất sanh tất cả bồ tát hạnh. Tam thế Như Lai từ bồ đề tâm mà xuất sanh.
GIẢNG: Tất cả bồ tát
hạnh đều do bồ đề tâm mà ra.
KINH: Vì thế nếu có ai
phát tâm vô thượng bồ đề thời là đã xuất sanh vô lượng công đức, có thể nhiếp
thủ khắp nhất thiết trí đạo. Này thiện nam tử, ví như có người được thuốc
vô úy thời rời năm điều khủng bố. Những là lửa không cháy được, độc không hại
được, gươm dao không đứt được, nước không làm trôi chìm được, khói không xông
ngộp được.
GIẢNG: Khi bồ đề tâm
tăng trưởng, có năm thứ không thể hại được, là nước, lửa, độc, gươm dao và
khói.
KINH: Cũng vậy, đại Bồ
Tát được thuốc nhất thiết trí bồ đề tâm, thời lửa tham không cháy, độc sân
chẳng hại, dao hoặc không đứt, dòng hữu lậu chẳng cuốn trôi, khói giác quán
không thể xông hại.
GIẢNG: Khi Bồ Tát có tâm
bồ đề thì lửa tham không cháy, tức là dứt hẳn tâm tham, độc sân chẳng hại, dứt
hẳn sân hận, dao hoặc lậu không thể cắt đứt, không bị trôi lăn theo dồng nước
hữu lậu, và khói giác quán không thể xông hại. Trong thiền nhà Phật khi tu lên
đến sơ thiền còn giác còn quán, nhị thiền thì bỏ giác, còn quán, tam thiền bỏ
cả quán lẫn giác v.v… Khói giác quán là sự suy nghĩ của hành giả làm cho tâm
chao động. Đây là ý nói về mặt trong tâm thức. Còn mặt ngoài đời thì nếu có rơi
xuống nước, hay rơi vào lửa thực cũng không thể bị hại được, hay cọ người mang
dao đến chém cũng không đứt được. Tóm lại, bên trong thì tiêu trừ những nghiệp
lậu, còn bên ngoài thì thoát những tai nạn như vậy, luôn luôn phải nhìn hai mặt
trong ngoài. Nếu chỉ nghĩ đến ý nghĩa tượng trưng, thì chỉ nhìn thấy một mặt.
cần nhớ trong tâm ra sao, bên ngoài sẽ tương ưng như vậy.
KINH: Ví như có người
được thuốc giải thoát thời vĩnh viễn không hoạn nạn. Cũng vậy, đại Bồ Tát được
thuốc giải thoát trí bồ đề tâm, thời lìa hẳn sanh tử hoạn nạn. Ví như người cầm
thuốc ma-ha-ưng-già, rắn độc nghe mùi thời liền tránh xa. Cũng vậy, đại Bồ Tát
gìn lấy thuốc đại-ưng-già bồ đề tâm, thời tất cả rắn độc ác phiền não nghe hơi,
thảy đều tan mất.
GIẢNG: Chúng ta thấy rõ,
luôn luôn Kinh nói một câu ngoài, một câu trong, luôn luôn có hai vế đi đôi như
thế. Được thuốc đó rắn ngoài nghe hơi thuốc phải tránh xa, đồng thời ở trong
lửa phiền não cũng tiêu dung nếu gìn giữ bồ đề tâm ấy.
KINH: Ví như có người
cầm thuốc thiện kiến, có thể trừ tất cả bệnh tật dã mang. Cũng vậy, đại Bồ Tát
cầm thuốc thiện kiến bồ đề tâm, trừ hết tất cả bệnh phiền não.
***
Đến đây, tôi xin tạm
ngưng, xem vị nào cần hỏi, xin cứ hỏi.
HỎI: Thưa ông, trong sách
thường nói đến cái “tâm bình thường nhi kiến đạo.” Nhưng từ nãy giờ ông ca ngợi
đến cái “tâm bồ đề” quá, vậy thì giữa hai tâm đó khác nhau ra sao? Có thể coi
tâm bát nhã, hay tâm bồ đề và tâm bình thường là một hay không?
ĐÁP: Trong nhà thiền, ý
nghĩa,của tâm bình thường là cái tâm không yêu ghét không chao động, tĩnh lặng.
Đó chỉ có một chút phần bát nhã,(huệ khô) mà thiếu đại bi. Nói rõ hơn, chữ
“bình thường” ấy chỉ ở mức độ bát nhã còn thấp. Song tu để được cái tâm bình
thường ấy, với căn cơ thấp kém của chúng ta, thì cũng khó đạt lắm rồi, chứ
không phải dễ đâu. Nhưng nhìn lên cao hơn, y vào lời kinh, thì tâm bình thường
chỉ mới đi được 1/3 đường thôi. Trong nhà thiền, các vị thiền sư sau khi được
tâm bình thường rồi (tức là đã có satory, hoặc thoáng kiến tánh, thoảng thấy
được tánh), phải vào núi tu thêm 30 năm đễ cho cái tâm bình thường ấy vững,
không bị lay chuyển, sau đó phải khởi đại bi, “thõng tay vào chợ,” tức là vào
giả, vào nhân gian độ sanh, không biết bao nhiêu ngàn kiếp mới được cái tâm vừa
đại bi, vừa bát nhã.
HỎI: Trong Lão giáo, còn
nói đến cái “tâm hồn nhiên,” thì cái tâm này thế nào? có “kiến” được gì không?
và cái thấy đó lên đến mức độ nào?
ĐÁP: Lão Tử là một vị
Bích Chi Phật (nếu so sánh mức độ tu chứng trên con đường Phật giáo), ngài nói
đến cái tâm hồn nhiên. Nhưng tâm hồn nhiên chưa phải là tâm bát nhã, cũng chưa
phải là tâm đại bi, mà đó chỉ là sự hồn nhiên của một người “anh nhi hạnh,” chưa
biết yêu, ghét, chưa khởi vọng tình. Từ cái tâm hồn nhiên ấy, đến được tâm bát
nhã, đại bi còn là một con đường rất xa. Ngài Lão Tử chỉ nói thế thôi,không
triển khai gì, vì ngài là một vị Độc Giác, ngài giảng pháp môn tự độ, giữ cái
“anh nhi hạnh.” Nhưng sau người Tàu lại lập thêm Thần Tiên Phái, muốn tu tập
làm sao cho được trường sinh bất tử, tức là cố giữ cho thân xác này sống
lâu. Kinh Lăng Nghiêm gọi đó là tu theo vọng niệm.
Tâm lý người thế gian,
bao giờ cũng muốn níu lấy sắc thân này, muốn níu lấy tham dục vì nó là khoái
lạc nhất của trần gian. Nếu chúng ta chịu khó đọc kỹ sẽ thấy rất rõ, nhiều tôn
giáo khác từ mật thừa của Tây Tạng, Ấn Độ giáo, Thần Tiên giáo, Ai Cập v.v… đều
có một phái cánh tay trái, luôn muốn níu giữ lại sắc thân lại. Vì loài người có
khuynh hướng nắm chặt cái thân xác này, nên người tu hành chánh pháp phải cố
vượt qua dục giới. Phật dạy, cửa ải dục giới rất khó qua, khi qua rồi ta sẽ có
thân hào quang rất dễ tu lên, như thuyền buồm ra được đến bể, gặp gió đi rất
nhanh. Gần đây, Việt Nam chúng ta cũng có những xu hướng “tân tăng,” có nghĩa
là sư cũng có thể cưới vợ, đẻ con được, bên Nhật cũng thế, khắp nơi, không chỗ
nào không có sự “lủng củng” về vấn đề đó. Cũng phải thông cảm cho những vị ấy,
vì sao, vì con đường về Phật đạo xa xôi cần khổ quả, nên thà cứ chọn phù du
trái đất này cho… xong chuyện!
Ở bên Nhật, xưa kia Thần
Loan tuyên bố rằng ngài Quán Thế Ẩm hiện lên nói tôi phải… lấy vợ. Như thế mà
dân Nhật cũng tin, vì họ phục vị này lắm. Bên đó, phong trào tân tăng rất mạnh,
tiền bạc nhiều, kỷ luật chặt chẽ nhưng tâm linh thì rất sút kém. Con đường đi
vào tâm thức có rất nhiều đường rẽ, mà tâm lý chúng sanh chỉ muốn kiếm những
đường rẽ dễ tu, dễ chứng, hoặc đem lại một sự bình an nhất thời nào đó cũng đủ
rồi, hoặc có cao lên nữa cùng lắm cũng chỉ đến những tầng trời, chứ chưa thể
đưa con người đến sự giải thoát tột cùng.
HỎI: Xin ông cho một vài
thí dụ cụ thể làm thế nào để phát được bồ đề tâm?
ĐÁP: Thứ nhất là phải
đọc tụng kinh đại thừa, suy tư về giáo lý nhiệm mầu của kinh. Thứ hai là phải
tụng chú, và sau những thời kinh, thường có những lời nguyện như tứ hoằng thệ
nguyện mà ta vẫn thường đọc tụng là “chúng sanh vô biên thề nguyện độ, phiền não
vô tận thề nguyện đoạn, pháp môn vô thượng thề nguyện học, Phật đạo vô thượng
thề nguyên thành.” Nên cố gắng trong bất cứ trường hợp nào, từ
những trường hợp làm ông vừa ý hay không vừa ý, làm o6ng yêu thích
hay làm ông cáu giận, ông cũng nên khởi tâm hiểu biết thông cảm, để trưởng
dưỡng từ bi tâm. Nhất là nên tập quên mình, bớt lo về mình đi, mà nên san sẻ
bớt mọi thứ cho những người chung quanh.
Thật ra, những điều này
nghe có vẻ đơn giản nhưng thực hành cũng khó, vì sao? Vì chúng ta cả ngày có
rất nhiều tâm niệm, song, nếu đem những tâm niệm ấy ra soi sét cho kỹ thì chắc
có khoảng 98% là nghĩ về mình cả, ít khi nghĩ đến người khác. Tất cả đều là vì
cái ngã. Đó chỉ là nói đến những tâm niệm thôi, còn những sự tạo tác, thi vi
nữa thì cũng vậy. Nên muốn phát bồ đề tâm phải luôn nhớ đến kinh, tụng chú,
quán tưởng đến pháp giới trùng trùng để hồi hướng cho tất cả chúng sanh, sau đó
đưa dần đến những hành động làm cho người khác được vui lòng v.v…
Mà thật ra, tôi cũng
khuyên các Phật tử không nên có tâm gấp gấp, cứ thong thả làm trong khả năng
của mình, vì tâm chúng ta đã lang bang từ vô lượng kiếp rồi, càng gấp thì càng
hỏng.
HỎI: Tâm bồ đề là tâm
bát nhã hay tâm đại bi?
ĐÁP: Tâm bồ đề chính là
cả tâm bát nhã và cũng là tâm đại bi. Nó như cái gương có hai khía cạnh, một
mặt là bát nhã, (như thật không). Một mặt là đại bi, (như thật bất không). Tâm
bát nhã thì chỉ nói riêng về khía cạnh rỗng không của tâm bồ đề ấy.
HỎI: Sao cứ phải cầu kỳ
nói “như thật bất không” làm chi cho thêm mất công? Cứ nói “có thật” cho tiện
việc hơn không?
ĐÁP: Nếụ nói “có” thì
lại bị chấp vào khía cạnh ‘ “thật có”. Còn nói “như thật bất không” thì không
bị vướng trong nhị biên, cũng là có, mà cũng là không. Tùy theo sự lắt lay của
tâm thức. Cái bất không ấy là như thật, mà cái không đó cũng là như thật, nên
Phật mới nói “bất không thành tựu Như Lai,” để chỉ nhấn mạnh cho chúng ta thấy
rõ sự thật mà không chấp vào một bên nào cả.
HỎI: Theo tôi nghĩ, có
ba thứ bậc, phàm phu chúng ta thường chấp là có, người tu thì chấp là không,
(tức là đã cao hơn một bực rồi), nhưng cao hơn nữa là bất không, tức là cũng
bác luôn cái không ấy, nên đó thuộc vào bậc thứ ba, chứ không phải cái “bất
không” ấy có nghĩa là có. Không hiểu thiển ý đó có đúng hay chăng?
ĐÁP: Như vậy, ông chưa
nghe buổi giảng về “tứ cú” ở đây. Tôi xin nhắc sơ lại cho quí vị nghe. Phật
dạy, đối với tất cả những vật gì, tâm thức chúng ta có khả năng có nhiều thái
độ,, có thể hư vô hóa vật ấy, hay chấp nó là có. Như chúng ta, từ vô lượng kiếp
chấp rằng thân này là có, hay cái bàn, cái cây, tòa nhà, sơn hà đại địa này đều
là có cả. Nhưng tâm thức cũng có thể coi sơn hà đại địa này là không cũng được,
vì chỉ cần quán chiếu ngược lại lâu dần nó sẽ trở thành không. Chẳng hạn những
vị trong tiểu thừa, quán vạn pháp đều do nhân duyên hợp thành, hay quán lý vô
thường. Hoặc quán cao hơn như chư bậc Bồ Tát, quán tất cả đều chỉ là mộng,
huyễn v.v… những lối quán ấy đều là đi vào không. Nhưng khi vượt lên trên cái
có, cái không ấy, thì sẽ đến một mức độ khác là cũng có, cũng không. Mức thứ tư
là chẳng có, chẳng không. Đó là tứ cú, nhưng tột cùng thì đến chỗ “vô ngôn,”
như ngài Duy Ma Cật im lặng, không nói, vì không có một ý niệm nào có thể áp
dụng để giảng giải cải Như Như của Tâm được.
Thế giới của kinh, khác
hẳn những gì chúng ta hiểu biết, nên nhiều khi đi vào ta cảm thấy lạc lõng, lâu
dần thì thấy lạ, suy tư thêm sau cùng lại thấy đúng, nên nó rất lạ lùng mầu
nhiệm, nó cùng tiêu bớt cho chúng ta được nhiều phiền não.
Tôi thành thật khuyên
quí vị rằng, khi chúng ta tụng Kinh Đại Thừa, nhiều khi thấy khô khan và thấy
nản, nhưng cũng đừng nên nản, vì sau cũng quen dần với lối biện chứng của tâm
thức. Và Phật cũng hay nói về công đức tụng kinh. Đừng tưởng rằng chúng ta dự
trong đạo tràng thưa thớt này, bên ngoài trời mưa, lạnh lẽo, hay thấy chỉ có một
ít người đến dự mà thấy nản, vì càng ít người bao nhiêu thì các chư Thiên càng
xuống nhiều bấy nhiêu để nghe chúng ta tụng. Điều này đức Phật đã nói rõ trong
kinh như thế, vì ngài cũng biết kinh khó tin, khó hiểu, khó vào, và chúng sanh
rất dễ nản, nên ngài phải nói nhiều phẩm về công đức của người trì kinh là vậy.
Tôi xin tạm ngừng nơi
đây.
Hẹn quí vị kỳ sau…
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
Ngày 6 tháng 1 năm 1991
Hôm nay là buổi thuyết
giảng thứ 118 về kinh Hoa Nghiêm phẩm Nhập Pháp Giới.
Trước khi đi vào kinh,
và ngài Thiện Tài, chúng tôi muốn nói với quí vị về một vấn đề quan thiết là:
Người là một chúng sanh như thế nào? có những sở trường, sở đoản gì? Và “Người”
ỡ tôn ti trật tự nào của chúng sanh trong pháp giới? Nếu chúng ta hiểu rõ vấn
đề này thì con đường tu hành sẽ dễ dàng hơn.
Khoa học dùng danh từ
“vũ trụ” để chỉ thế giới này, còn đạo phật thì dùng danh từ “pháp giới.” Nhưng
“vũ trụ” của khoa học là chỉ để nói về những gì có hình tướng thôi, như núi,
sông, tinh hà, không gian, thái dương hệ v.v… Còn chữ “pháp giới” của nhà Phật
thì rộng lớn hơn nhiều, không những gồm những vật có hình tướng mà chúng ta
nhìn thấy bằng mắt thịt, lại còn bao gồm tất cả chúng sanh và sự vật mà chúng
ta không nhìn thấy bằng nhục nhãn, như núi Tu Di và các từng trời cao hơn. Nên
“pháp giới” trong đạo phật rộng hơn vũ trụ của thế gian và khoa học rất nhiều.
Vậy thì cái pháp giới kỳ
ảo này, chúng ta cũng cần biết, để hiểu rõ thân phận “Người” như chúng ta
ở mức độ nào?
Chúng ta thường chỉ nhìn
thấy hai loại chúng sanh. Loài người và súc sanh. Ngoài ra, không thấy những
loài chúng sanh khác. Tỷ dụ như trên cung trăng, khoa học nói không có chúng
sanh, là vì họ không nhìn thấy, nên chưa chắc gì đã đúng. Trong đạo Phật lại
khác, Kinh kể cho chúng ta nghe ngoài loài người và súc sanh, còn có nhiều loài
chúng sanh khác nữa, ngay trong hư không này cũng có nhiều loài chúng sanh cư
ngụ. Như trong hư không, có một vị thần cai quản gọi là Thuấn-Nhã-Đa (Akasa),
và có nhiều chúng sanh sống trong ấy, nhưng thân họ không giống sắc thân máu
thịt này, nên chúng ta không nhìn thấy.
Vấn đề đặt ra: “Người là
gì?” Nếu xét qua lịch trình tư tưởng của nhân loại. Ngày xưa, cũng có một vài
vị đã đặt ra câu hỏi ấy, còn phần đông chúng ta cũng chỉ biết ta là một sinh
vật gọi là người thôi, chứ không biết rõ mình là thế nào. Ngay cả tư tưởng gia,
hay khoa học gia, cũng chưa chắc có thể trả lời được.
Có một triết gia rất nổi
tiếng của Hy Lạp là Aristote, có thể coi ông đứng chấn nhiều cửa ải của tư
tưởng,lại viết những cuốn sách rất dầy, tôi không đọc nhiều lắm, nhưng chỉ nhớ
ông nói một câu: “Người là một sinh vật, hay là một súc vật có lý trí.” Như
vậy, Aristote đặt trọng tâm vào lý trí. Đến thế kỷ thứ 17 bên Pháp, Decartes là
một triết gia cũng rất nổi tiếng, ông ta tuyên bố về người là: “Tôi suy
nghĩ, tức là tôi hiện hữu.” Ý Decartes muốn nói rằng, người là con vật
biết suy nghĩ, do sự suy nghĩ đó, nên tôi hiện hữu. vẫn là đặt trọng tâm ở lý
trí. Nhưng trong kinh Lăng Nghiêm, khi đức Phật hỏi ngài A Nan rằng, “Này
ông A Nan, ông lấy gì để nghe kinh và hiểu pháp?” Ngài A Nan trả
lời “Bạch đức Thế Tôn, con lấy cái tâm suy nghĩ của con để nghe kinh và
hiểu pháp.” Đức Phật bác ngay, đó chỉ là cái vọng tâm chứ không phải
cái tâm thật của ông đâu. Ý Phật dạy cho chúng ta thấy rõ rằng, ngoài cái ý
thức ấy, còn có cái tiềm thức và vô thức hết sức quan trọng và trong cùng là
CHÂN TÂM.
Lắm lúc, sau khi nghiên
cứu về đạo Phật, tôi thấy những vị triết gia chỉ như những đứa trẻ thơ, tuyên
bố những câu thật ngớ ngẩn, sự hiểu biết của họ về pháp giới này thật là ngây
thơ và cục hạn. Tương tự những những đứa trẻ chơi ngoài biển, đi nhặt những vỏ
trai, vỏ ốc múc được tí nước biển lên mà cứ tưởng rằng mình múc tất cả nước
biển rồi. Phần lớn triết học Tây Phương đều đặt trọng tâm vào Ý Thức. Đến triết
gia Pascal, tuyên bố rằng: “Cơn người là một cây sậy yếu ớt, nhưng lại
là cây sậy biết suy tư.” Qua đến những giáo lý Trung Hoa, đạo Khổng và
Dịch học đưa ra quan niệm cao hơn, quan niệm “thiên nhơn tương giữ.” Thiên
là trời, nhơn là người, Trời người liên hệ nắm giữ lẫn nhau. Rồi đến Thần Tiên
Phái, thì thấy rõ sự tu luyện của Trung Hoa chưa đến mức độ của Chân Tâm. Vì về
sau, Trung Hoa phát triển ra thuyết “ngũ hành” để xem bói toán hoặc chữa bệnh
v.v… cùng Iối tu “tinh khí thần.” Tu “tinh” là phương diện vật chất phía
dưới, lên đến “khí” là phương diện khí hóa thôi, còn thần thì vẫn ở bình diện
vọng tâm, chưa hiểu được chân tâm. Bước sang Cơ Đốc Giáo, Kinh thánh nói theo
lối “ngụ từ,” cô đọng.
Đại khái kể rằng, thuở
nguyên sơ, có ông Adam và bà Eva. Ông Adam do Thượng Đế lấy cát bụi nặn thành
hình người, rồi hà hơi vào lỗ mũi (tức là phổ tâm thức vào). Sau ‘
đó,thấy Adam sống một mình buồn, Thượng Đế thương tình lấy xương sườn của Adam
tạo thành Eva. Trong thời kỳ nguyên sơ, hai người sống ngây thơ mà chưa có sắc
dục, cả hai chưa biết hổ thẹn, sống trần truồng trong vườn địa đàng. Một ngày
kia, Thượng Đế bảo họ rằng: “Ta cho các ngươi sống trong vườn địa đàng của ta,
Trong vườn có hai thứ cây, một cây gọi là “cây của sự sống” và
một là “cây của sự biết.” Rồi Ngài bỏ đi. Sau, con rắn sui dục
Eva, (con rắn này tượng trưng cho chiều hướng muốn đi xuống) Nói rằng:
“Cô ăn thứ cây Biết này,sẽ biết được mọi điều, sau sẽ được
ngang hàng với Thượng Đế.” Eva ăn xong lại cho Adam ăn theo, sau khi ăn có được
sự biết, lúc ấy mới có tâm tưởng phân biệt, biết có nam, có nữ, biết sự hổ
thẹn. Rồi hai người nhìn nhau, chấp mình là nữ, người kia là nam, từ đó trở đi,
có sự phân chia nam, nữ nên bắt đầu khởi tâm tham dục. Trong Cơ Đốc giáo mới
gọi đó là tội tổ tông truyền. Tội này tương tự như bên đạo Phật nói về lòng ái
dục của con người, phần nhiều tội lỗi là do ái dục mà có.
Đại cương các triết gia
và những giáo lý nói về con người như thế. Còn khoa học thì sao? Họ cũng chưa
hiểu gì hơn mấy đỗi, tuy rằng mổ sẽ rất nhiều, hay gắn vào óc con người những
máy điện để đo lường những làn sóng não bộ v.v… Nhưng thực sự họ chưa hiểu gì
mấy đỗi, vì họ phạm một sai lầm lớn là sau khi nghiên cứu những bộ phận trong
người, họ vẫn nghĩ rằng, thân xác là có thật và tất cả những gì thuộc về tinh thần,
tâm tưởng, tâm từ, bi, hỉ, xả v.v… là do bộ óc tiết ra thành những tâm tưởng
ấy. Tóm lại, họ cho rằng bộ óc hữu hình chất sinh ra cái vô hình chất. Đạo Phật
nói ngược lại, rằng bộ óc ấy không phải tiết ra những tâm tưởng ấy mà nó chỉ là
một công cụ để tâm thức dùng chi phối cái thân xác này, đồng thời để tiếp xúc
với pháp giới bên ngoài.
Lấy một thí dụ như con
mắt, khoa học cứ nghĩ rằng con mắt nhìn sự vật, nhưng đạo Phật lại bảo, đó chỉ
là một ống kính để cho tâm thức nhìn sự vật mà thôi, nếu tỷ dụ không có con mắt
ấy một hành giả, vẫn có thể nhìn thấy được nếu biết cách tu luyện. Như trong
kinh, có ngài A Nâu Luật Đa, bị Phật quở rằng ưa ngủ như súc sanh, ông khóc đến
lòa cả hai mắt. Sau đó Phật dạy ông tu một pháp môn gọi là “Lạc chiếu
minh tam muội,” sau có thiên nhãn, nhìn thấy rõ tất cả, không những
thế giới Ta Bà này, ông còn nhìn suốt tam thiên, đại thiên thế giới mà chúng ta
với con mắt thịt không thể nhìn thấy nổi. Một thí dụ khác, gần chúng ta hơn. Có
một người Nga mù từ thưở nhỏ, bà bèn dùng tay sờ mọi vật, ngay cả những
chữ trong sách, sờ riết bà có thể đọc được bằng tay. Đủ chứng tỏ rằng, ta có
thể nhìn thấy mà không cần đến mắt, nếu ta biết tu tập.
Nên trong đạo Phật dạy
rằng, tất cả như cái hoa nở, do sự hiện hành chủng tử của tâm thức.
Trở lại vấn đề người…
Trước hết, trong pháp
giới này, đạo Phật nói có nhiều loại chúng sanh, chính yếu thì có sáu loại: Có
những loại chúng sanh ở địa ngục, rồi đến ngạ quỉ, rồi súc sanh, rồi đến người,
A Tu-La và chư Thiên.
Vậy trong sáu loài ấy,
thân phận người ra sao? hơn chỗ nào, kém chỗ nào? Trong 6 loại chúng sanh này,
đặc biệt chỉ có hai loại là người và súc sanh có thân máu mủ thô kệch, dệt bằng
quang minh thô kệch nhất, nên hiện tướng, còn những chúng sanh khác đều mang
một sắc thân hào quang, ngay cả trong địa ngục và loài ngạ quỉ cũng vậy, chỉ có
điều là hào quang cao hay thấp mà thôi. Chúng ta mang thân máu mủ thai sanh,
thì chúng ta bị những nhược điểm sau đây: Thứ nhất là thường đói khát, phải
kiếm cái gì mà ăn, lại ăn theo lối đoạn thực, tức là nuốt từng khúc thức ăn vào
người. Nhiều chúng sanh khác họ không cần ăn đoạn thực. Thứ nhì là chịu nóng
lạnh, thứ ba là bị bệnh tật, mà đến tuổi nào đó thì bệnh tật có thể xảy ra liên
miên, thứ tư là việc thai sanh rất đau khổ. Sang đến loài súc sanh cũng vậy,
chúng cũng bị đói khát, cũng bị nóng lạnh, song những điều này có phần bớt hơn
người, không bị rày vò nhiều, và bệnh tật cũng ít hơn. Nên Lão Tử nói rằng, đã
có thân là có khổ, mà muốn không có thân, cần diệt vọng tâm.
Nay sang đến sự so sánh
giữa người và ngạ quỉ. Trong kinh nói rõ, có ba mươi sáu thứ quỉ, từ những quỷ
thần có chút oai đức, đến loài nghiệp nặng nhất là ngạ quỉ. Loài người thường
chỉ hơn loài quỷ ở một điểm duy nhất là trí huệ mà thôi, còn những cái khác thì
người rất dở, vì loài quỉ có thần thông khá nhiều. Loài ngạ quỉ cũng bị đói,
khát, cái khát của nó rất nặng, như khi đi đến một dòng sông, muốn uống vào thì
nước sông biến thành lửa. Nhưng về cái nóng, lạnh thì loài quỷ bị nhẹ hơn loài
người, về tật bệnh thì loài ngọa quỉ lại không bị, còn loài người lại hay đau
ốm liên miên. Ngoài ra, loài quỷ lại có thần thông, có thể đi qua tường, qua
núi đá, cây cỏ, ngay cả thân căn chúng ta cũng được, loài người chúng ta không
làm được điều ấy. Thứ nữa, ngạ quỉ chuyển động rất nhanh, có thể bay một vòng
trái đất trong vòng vài phút, chúng ta thì phải chế tạo ra tầu bay hì hà, hì
hục mãi mới bay được, loài này cũng có thể đi xuống nước được, còn chúng ta
thì… chịu! Còn nữa, loài quỷ thần có chụt oai đức có thể tiên tri được, họ có
thể biết các việc sắp xảy ra trong mấy ngày trước, hay một vài tháng trước, vì
họ có thân hào quang, mắt có một chút thiên nhãn có thể nhìn thấy trước những
việc sẽ xảy ra trên tại thế gian này, vì những việc ấy luôn luôn hiện trên
những bình diện cao hơn trước khi hiện tướng. Vì vậy, nhiều gia đình hay thờ
quỉ thần, vì họ có thể cầu được ngay những chuyện thiển cận, trong khi những
người ưa đạo lớn rất ít, vì xa vời quá, lâu có kết quả, mà đường lại dài xa cần
khổ, nên ít ai theo.
Những đạo càng thấp bao
nhiêu lại càng dễ phổ biến bấy nhiêu, vì quỉ thần có một ít thần thông, có thể
giúp người tin được một chút lực, có thể chuyển được những lộ tuyến lực chạy
trong người bệnh khác đi một chút, thay đổi một chút thọ ấm thì sẽ thấy người
khỏe ra đôi chút, nhưng chưa chắc đã khỏi được, sau đó người bệnh cũng phải trả
một giá nào đó cho việc mượn lực quỉ thần. Đó là đại cương những điểm khác biệt
giữa loài người và quỉ thần.
Còn đối với loài súc
sanh, thì trí huệ thấp hơn người rất nhiều, nhưng về sức lực lại hơn loài
người. Nay ta nói về cái mắt trước, mắt của súc sanh nhìn tinh hơn loài người
nhiều, như mắt con ó, có thể nhìn xa hàng mấy dặm. Còn một loài bàng sanh đặc
biệt mà mắt thịt chúng ta không thể thấy, đó là loài Rồng. Trong
kinh nói, loài Rồng so với người thua về trí huệ, nhưng phước báo lại hơn người
nhiều. Rồng thường sống ngoài biển khơi hay nơi trung giới và có thần thông
biến hóa, ngoài ra Rồng có rất nhiều ngọc ngà, châu báu, điện đài lâu các, sống
lâu và khỏe mạnh. Loài Rồng thường có phước nhiều, nhưng thiếu trí huệ. Loài
Rồng thua loài người ở một điểm là không hiểu được kinh, không thọ giới được,
mà nếu có thọ giới cũng không thể đắc giới. Như trong kinh kể, có một con Rồng
thọ giới xong đến hỏi đức Phật, thì Ngài trả lời rằng, Rồng thọ giới thì rất
tốt, nhưng chỉ thêm thiện căn thôi chứ chưa đủ trí huệ để hiểu giới và đắc
giới.
Qua đến loài A Tu La.
Đây là một loài trên loài người một bậc, sống gần cung trời và có nhiều thần
thông. Những ai có nhiều lòng hào hiệp, thích bố thí, nhưng lại còn nhiều tâm
sân hận,nóng nảy, hay chửi bới, quát mắng, đánh người v.v… thì có thể thọ sanh
vào A Tu La. Thỉnh thoảng, cũng có những vị tu hành nghiêm túc, nhưng vẫn còn
dễ nổi quạu, vì các vị phải đè nén tham dục nhiều quá, nên có thể sau này trở
thành loài A Tu La được.
Lên đến chư Thiên thì
rất sung sướng, vì vậy có nhiều tôn giáo tu hành chỉ là muốn lên thiên thôi.
Thọ mạng của chư Thiên rất dài, khoảng năm trăm năm, mà một ngày trên trời bằng
một trăm năm dưới trần gian, họ không bị đói khát, ăn bằng xúc thực,chỉ ngửi mùi
hương hoa trân bửu trên cõi trời cũng đủ no rồi. Lên cao hơn nữa là tư thực, và
thức thực, những vị này thường ở tầng trời sắc giới và vô sắc giới, cả ngày chỉ
ngồi thiền định, dùng cái sức của tâm tư để nuôi dưỡng thân mình và kéo dài thọ
mạng, có thể dùng quang minh đọc được tư tưởng của nhau. Nên phải hiểu rằng
pháp giới kỳ ảo này hiện những hình thái biến hiện ghê gớm thần kỳ. Con người,
với tất cả trí tưởng tượng, cũng khó thể tưởng tượng nổi, thường chỉ biết rằng,
trong vũ trụ này, có một vài hành tinh, xa hơn nữa nhiều giải ngân hà, gần hơn
nữa thì những nhà máy, đường xá, vợ con, nhà cửa v.v… Đó là những chướng ngại
ghê gớm của bộ óc loài người, vì thực ra so với pháp giới này chẳng đi đến đâu
cả, và “Người” chỉ là một thứ sâu bọ biết suy tư thôi.
Tóm lại, loài người gần
như thua những loài khác nhưng chỉ hơn độc nhất là có trí huệ. Có trí huệ để
hiểu được kinh, hiểu được giới, hiểu được con đường ta đi lên. Người, nếu thọ
giới thì có thể đắc giới, và một ưu điểm khác của người là có thể phát bồ đề tâm,
và trong 6 loài, chỉ có loài Người và Trời mới phát được bồ đề tâm. Và phải
phát bồ đề tâm thì con đường tu hành mới đi xa được, nên trong kinh thường nói
được thân người rất quí. Trên cái diễn trình của Diệu tâm nở ra một con đường
đi xuống hiện tướng hóa, khi xuống đến mức cuối cùng, tức là loài người, đồng
thời cũng là cái mầm bắt đầu đi lên để trở về diệu tâm. Vì vậy, Người không
phải là thần linh mà cũng không phải là súc sanh, vì nó là nơi chiến trường của
sự giằng co giữa thiện và ác, giữa súc sanh và thần linh. Nếu ta chiến thắng về
phía thần linh, thì trở thành thần linh, mà nếu để buông trôi theo dục vọng,
thì trở lại súc sanh. Vì vậy, cửa tu thứ nhất mà ta phải vượt chính là ái
dục, phải ra khỏi Dục giới mới dễ đi lên được.
Đạo Phật cũng giải thích
rõ, loài người bao gồm năm Ấm. “Ấm” theo tiếng hán có nghĩa là chứa nhóm, đồng
thời cũng có nghĩa là “che ngăn.” Năm lớp ấm ấy giống như năm lớp sương mù,
ngoài cùng, thô kệch nhất là sắc ấm, sau đến lớp sương mù của cảm giác là thọ
ấm, sâu hơn là lớp sương mù của tâm tưởng, sâu hơn nữa là lớp sương mù của hành
ấm, là cái chấp ngã kiên cố của chúng ta, sau cùng mới đến
biển thức sơ năng biến. Tất cả những lớp sương mù ấy, che kín Chân tâm nên ta
không nhìn thấy được diệu tâm, mà luôn luôn có khuynh hướng đi xuống, chạy theo
vật.
Thuở nhỏ thì chạy theo
những cánh diều, bong bóng, hòn bi v.v… Lớn lên đi học thì chạy theo quần áọ,
một vài bóng người nữ đi qua, rồi chạy theo bằng cấp, lấy vợ, chạy theo người
vợ đẹp, có con, chạy theo những đứa con, lớn lên nữa thì tậu xe hơi, nhà lầu,
chạy theo công danh, sự nghiệp v.v… Không bao giờ có thì giờ thảnh thơi nhìn
lại cái Tâm mình. Gần về già, do cơ duyên từ nhiều kiếp trước, mới bắt đầu biết
đọc kinh, bắt đầu hiểu được một chút, lúc đó bắt đầu quay lại nhìn tâm ấy, chợt
thấy rằng, tất cả những điều ta làm gần cả một đời đều là … chuyện tầm phào cả.
Không có một chút lợi nhỏ bé nào cho giới-thân-huệ-mạng này, ngược lại còn tạo
nghiệp thêm là đằng khác. Nhưng nếu biết ra, chỉ cần ngồi đọc kinh độ vài ngày,
nghiền gẫm lời kinh, cảm thấy vui mừng hớn hở, rồi theo đó mà tu hành thì công
đức ấy, ăn cả nhiều kiếp cũng không hết.
Theo tôi thiển nghĩ,
chúng ta thông thường chỉ nên để khoảng độ hai phần ba đời mình để đi vào cuộc
đời, biết tất cả cảnh giới, hiểu cuộc đời, còn một phần ba cuối cùng thì nên
tìm đường đi ra. Phải đi vào rồi lại đi ra, nếu chỉ đi vào mà không đi ra thì…
hỏng, mà chưa vào thì khó hiểu được kinh Đại Thừa. Điều này, nhà Phật gọi là
“Thiện Thệ” (khéo qua lại).
Tôi cũng xin nói thêm về
mấy cái “ấm” trong nhà Phật. Chúng ta nên nghĩ thân của chúng ta như tỉnh Los
Angeles, có mười triệu dân. Trong thân ta còn hơn thế nữa, có hàng tỷ tỷ những
tế bào lổm ngổm, nếu tất cả mọi thứ đều bình thường thì thành phố yên ổn. Nhưng
nếu một ngày nào đó, bất thình lình bị tắt điện, hay có một biến cố nào, thì
lập tức những người trong tỉnh nhốn nháo, cướp bóc nổi lên. Trong thân căn ta
cũng y hệt như thế, khi có bệnh thì những con hộ trùng cùng lăng nhăng, nhộn
nhạo làm ta mệt mỏi không ít. Nay tôi nói riêng về sắc âm, cho quí vị thấy sự
quan trọng của tâm thức. Thường chúng ta sống khoảng độ sáu, bảy chục năm, chỉ
trụ tâm thức trên bình diện sắc ấm (thân sắc) nhiều nhất, và một ít trên bình
bình diện ý thức. Đó là vì nghiệp lực sinh ra như thế. Khi chúng ta trụ trên
sắc ấm, ta thường phải chịu nhiều khổ lụy về thân như đói, khát, nóng, lạnh,
bệnh tật v.v… Đồng thời có một sự khoái lạc trên bình diện sắc ấm mà phần đông
năm tỷ người trên thế giới này đều ưa thích, là sự khoái lạc về sắc dục nam,
nữ. Khi tu hành phải trừ bỏ cái đó để tiến lên được những bình diện trên của
thọ ấm, của tưởng ấm.
Có nhiều người hỏi tôi,
trên đời chỉ có một cái đó là khoái lạc nhất, tu hành bắt phải bỏ để đi lên
trên, vậy lên trên ấy được cái giống gì? Có gì khoái lạc hơn? Ta nên nhớ một điều,
chư Phật dạy không có điều gì dư thừa luống uổng cả. Trong kinh nói rõ, khoái
lạc thể chất này không ăn thua gì cả vì khi lên đến bình diện thọ ấm, tưởng ấm
làm chư Thiên, hay vào sâu hơn nữa, lúc đó chúng ta có được một sự an lạc ghê
gớm, mà tất cả khoái lạc thế gian này không thể bì được. Vì vậy mới có những vị
tu trên núi ba mươi năm mà cũng không cảm thấy nhàm chán, vì họ ngồi trong cơn
thiền định rất an lạc nên không bao giờ thèm ngoái cổ lại thế gian này. Nên cần
hiểu, khi tâm thức mở ra, nó là một nguồn suối an lạc vô tận, và từ sơ thiền
đến đệ tam thiền đã là vào được niềm an lạc, thế mà vẫn chưa ăn thua gì cái
Diệu lạc trên cao hơn, sâu hơn nữa. Điều này cần biết rõ thì mới chí tâm tu
hành được.
Ái dục là khoái lạc thấp
nhất và rất phù du. Cũng như trong kinh Lăng Nghiêm nói, các vị tu lên được cõi
trời dục giới, mỗi khi nghĩ lại chuyện tình dục, mới thấy rõ con người đang
ngụp lặn trong biển ái dục tương tự nhưng một đám ròi đương ngụp lặn trong đống
phân, cũng thấy ái dục vô vị như ăn sáp vậy. Tu là đi tìm hạnh phúc, tự do miên
viễn, không hệ lụy và nếu tu không có hạnh phúc, tự do thì tu làm gì? Giải
thoát tức là tự do, an lạc (thường, lạc, ngã tịnh). Tự do đến mức độ ta
có thể cầu bất cứ gì cũng được. Đừng nói chi phải tu thành Phật, chỉ tu lên đến
cung trời Tha Hóa Tự Tại hay cung trời Lạc Biến Hóa trong tầng trời dục giới
này thôi, lúc đó cần gì thì có ngay cái đó, muốn có cả trăm thiên nữ múa hát
cho nghe cũng có ngay. Vì mức độ tự do và tự tại biến hóa rất ghê gớm. Còn
chúng ta đây, cả ngày chỉ lẩm cẩm cầu mong những chuyện lăng nhăng, một cái áo
đẹp, một chiếc xe đẹp, nhà cửa v.v…, thế là đã mãn nguyện hài lòng lắm rồi.
Nhưng ta quên một điều, nếu được làm thần linh thì có thể hóa hiện cả một cõi.
Đó là sự khẳng định của kinh nói như thế. Nên trong kinh thường hay gọi người
thế gian là có tâm hạ liệt. Hạ liệt là một tâm hèn kém, chỉ thích những thứ tầm
thường lăng nhăng, mà không nghĩ đến cầu sự tự tại lớn lao.
Tiện đây, tôi cũng xin
nói một chút về vân đề tu hành. Thường thường người là như vậy, chỉ có trí huệ
là hơn một vài loài khác, nên ta cần phải nhìn vào tâm mình, bắt đầu tập chơi
với Tâm ấy. Biết chơi với tâm ấy, ta thấy rất tự tại, không cần tốn tiền bạc
của cái gì để mua nó, cũng không cần chạy đông, sang tây tìm cầu. Chỉ cần tịnh
tâm một chút, khép hờ mắt lại là có thể thấy nó, rồi đếm những tâm tưởng. Tu
hành chỉ là ngồi đếm tâm tưởng của mình thôi. Ngồi thiền là gì? Chỉ để soi Tâm
ấy, và đếm những tâm niệm. Tại sao phải soi tâm niệm? Như tôi đã trình bày ở
trên, con người là một bãi chiến trường giằng co giữa thiện và ác. Và trong tâm
chúng ta chỉ có ba loại tâm niệm thôi. Tâm niệm thứ nhất là tâm niệm của súc
sanh, tâm niệm thứ hai là tâm niệm của yêu quái, tâm niệm thứ ba là tâm niệm
của thần linh. Tu hành để cốt loại trừ hai loại tâm niệm đầu, chỉ giữ lại tâm
niệm thần linh thôi.
Còn tâm niệm của súc
sanh là thế nào? Là chỉ thích ăn, thích ngủ, thích ái dục, và thích chiều
chuộng sắc thân này như mặc áo đẹp, bôi nước hoa v.v… Ngày nào còn muốn nâng
niu chăm sóc thân xác này thì ngày đó vẫn còn tâm niệm súc sanh. Thân này, nhà
Phật nói nó là pháp khí thôi, chỉ cần nuôi dưỡng vừa đủ. Theo trong tứ y nhà
Phật dạy, khi đau thì uống thuốc thừa của thiên hạ, không nên rối rít, coi cái
thân quá quan trọng, vì như vậy sẽ rơi vào tâm niệm xúc sanh. Có nhiều người,
chịu khó bỏ ra mỗi ngày mấy giờ đồng hồ chạy bộ, hì hục tập thể dục cho bắp
thịt nở nang, sau đó đi chơi phố, chỉ mặc áo maillot phơi bày
bắp thịt vạm vỡ, như khoe cho thiên hạ trầm trồ. Đó chỉ là nuôi dưỡng tâm niệm
súc sanh thôi. Và nếu ta có nhiều tâm niệm ấy, thì sẽ chỉ thọ sanh được thân
bầy nhầy máu mủ này, không thể hơn được. Nhưng nếu những giờ tập thể dục ấy,
chúng ta dành khoảng một tiếng tụng kinh, ngồi thiền hay tụng chú, thì công đức
ấy sẽ theo chúng ta nhiều đời, nhiều kiếp, ta sẽ có cơ hội đi lên, có nhiều cơ
hội bỏ thân máu thịt này mà khoác một thân hào quang hơn, thanh tịnh. Nên người
trí biết chọn những gì có lợi, mà bỏ những việc ít lợi ích, chỉ cần dụng công
ít mà được lợi nhiều.
Qua đến tâm niệm yêu
quái. Tâm niệm yêu quái là gì?
Khi nào chúng ta còn
chấp vào cái “ngã” như muốn có một khuôn mặt đẹp đẽ để mê hoặc người khác, hoặc
vào đời tranh đấu hơn thua, muốn quyến dụ cho người khác nghe mình, hùng biện
đủ cách để chứng minh rằng cái lý của mình là đúng v.v… Tóm lại, những tâm niệm
có ngã là tâm niệm yêu quái. Chúng ta phần đông đều có những tâm niệm này.
Còn tâm niệm của thần
linh là thế nào? Là những tâm niệm vô ngã, không còn nghĩ đến mình nữa mà chỉ
có tâm từ, bi, hỉ, xả, tâm bát nhã, biết pháp giới và thân căn mình cũng chỉ là
mộng huyễn. Người nào có nhiều tâm niệm này, người đó đã một nữa là thần linh
rồi.
Nên khi ta gặp một người
nào, vỗ ngực tự nhận mình là đạo sư, thiền sư, hay khoe khoang sự chứng đắc của
mình, tham dục còn đầy rẫy, vẫn lấy vợ, sinh con, hoặc ngủ với tín đồ, và có
thể vì có một chút lực của ma, hay của một loài tinh mị nào đó gá vào, nên
chiêu dụ được đông người nghe, rồi vênh vang tự đắc, có thể được chút thần
thông của loài quỉ, mị tạm gá cho, tự cho mình đắc thánh, tuyên bố nhiều điều
trái với luật nghi của nhà Phật, thì người đó là đại vọng ngữ, họ chưa nếm được
mùi thiền định, vì nếu có thiền định, hưởng, được an lạc trong thiền thì không
bao giờ họ nghĩ đến chuyện lấy vợ, hay vênh vang tự ngã cả.
Nay xin trở về kinh…
Trong kinh Hoa Nghiêm có
dạy, khi một người phát bồ đề tâm thì tất cả những công đức từ lúc mới phát tâm
đến lúc thành Phật, họ đã được một nửa rồi, nên tôi muốn nhắc lại cho quí vị
nhớ. Đồng thời, khi phát bồ đề tâm là trụ thọ mạng của mình dài thêm ra. Chúng
ta cũng đừng ngại tâm còn hạ liệt, chưa có tâm từ bi, và tâm bát nhã, cứ dũng
mãnh phát bồ đề tâm rồi những vị quỉ thần sẽ giúp cho chúng ta thêm tinh tân,
thêm trí huệ, thêm từ bi…
Tôi cũng xin nhắc lại về
ý nghĩa bồ đề tâm để quí vị nhớ. Bồ đề tâm chính là diệu tâm của chúng ta,
nhưng nói bồ đề tâm là để triển khai hai mặt. Một mặt là như thật không (bát
nhã). Một mặt là như thật bất không (đại bi). Khi chúng ta phát bồ
đề tâm, chúng ta đồng thời phải chiếu soi theo hai mặt, một mặt hiểu rằng tất
cả pháp giới này, và ngay cả tâm mình đều Không, đồng thời không có nghĩa rằng
“Không” như thế là buông suôi, mặc kệ đâu. Biết rằng Không, nhưng cũng hiểu
rằng trong Không ấy chuyển hiện ra tất cả cái có, nên phải làm tất cả mọi việc
vị tha, giúp đỡ người khác, mà không cho riêng mình. Trong một ngày, nếu ta có
khoảng một trăm tâm niệm, mà trong đó có bôn chục đến năm chục tâm niệm ta nghĩ
đến người, hoặc vì người thì đã khá rồi.
KINH: Ví như có người
cầm thuốc ma-ha-ưng-già, rắn độc nghe mùi thời liền tránh xa. Cũng vậy, đại Bồ
Tát gìn lấy thuốc đại ưng già bồ đề tâm, thời tất cả rắn độc ác phiền não nghe
hơi thảy đều tan mất.
GIẢNG: Ở đây, ngài
Di Lặc nói đến rất nhiều thứ thuốc,ngoài đời có loại thuốc ma ha Ưng già thật
làm cho rắn nghe mùi tránh xa, nhưng nghĩa bên trong khi đại Bồ Tát gìn bồ đề
tâm cũng giống như thuốc ưng già, các ác phiền não đều tan mất.
KINH: Ví như có người
cầm thuốc vô thắng, tất cả oán địch không hơn được. Cũng vậy, đại Bồ Tát cầm
thuốc vô thang đại bồ đề tâm, thời hàng phục được tâ’t cả ma quân.
GIẢNG: Phần nhiều các
loại thuốc trong kinh nói đến đều lấy ở núi Tuyết Sơn. Từ đây về sau, kinh nói
đến mấy chục thứ thuốc mà vì phước mỏng, chúng ta không hề biết tới. Nhưng có
nhiều người đọc đến đoạn kinh này, cứ cho rằng trong kinh nói chỉ có nghĩa tượng
trưng thôi, chỉ là tưởng tượng, nhưng chính nó có thật, nhưng phải có người có
đủ phước đức, trí huệ mới nhìn thấy và lấy được. Tuyết Sơn là ngọn núi cao
nhất, tượng trưng cho tâm địa, vì vậy trong đó có đủ mọi thứ thuốc chữa được
bệnh của chúng sanh. Trong kinh còn nói trong ấy có một cái ao gọi là ao A Nậu
Đạt do một vị Long Vương, một vị Bồ Tát ở thất địa (Viễn hành địa) trông
coi, do thần lực của vị Bồ Tát đó nước ao không bao giờ đầy, không bao giờ vơi,
và nó chảy ra bốn sông lớn, trong đó có sông Hằng.
KINH: Ví như có người
cầm thuốc tỳ cấp ma, có thể làm cho độc tiễn tự nhiên rơi rớt. Cũng vậy, đại Bồ
Tát cầm thuốc tỳ cấp ma bồ đề tâm, làm cho tên độc tham, sân, si ác kiến tự
nhiên rơi rớt.
GIẢNG: Nếu người cầm
thuốc tỳ cấp ma thì tên bắn chưa tới mình đã bị rớt rồi. Như trong kinh kể câu
chuyện, có một bà hoàng hậu tu được từ tâm tam muội, nhưng bị một cung phi khác
ghen ghét, súi dục vua giết hoàng hậu, nhà vua liền cầm cung bắn bà nhưng tên
bay đến gần đều rơi xuống hết, không đụng được người bà. Đến lần thứ ba vua
cũng dương cung lên muốn bắn nữa thì hoàng hậu bảo rằng: ” Vua chớ nên
bắn nữa, vì còn chút tình nghĩa vợ chồng, nên thiếp bảo thật, vua không thể
giết được thiếp đâu, vì thiếp là đệ tử của Phật, đã được từ tam muội, tức là
tâm không muốn hại người, thì tất cả độc tiễn không thể hại được.” Thuốc
tỳ cấp ma trong kinh này cũng vậy.
KINH: Ví như có người
cầm thuốc thiện kiến, có thể trừ tất cả bệnh tật đã mang. Cũng vậy, đại Bồ Tát
cầm thuốc thiện kiến bồ đề tâm, trừ hết tất cả bệnh phiền não.
GIẢNG: Sở dĩ chúng ta
chưa kiếm được những thuốc này là vì phước đức và trí huệ của chúng ta kém quá,
chưa tương Ưng, nên phải dùng tạm thuốc thế gian vậy.
KINH: Như có dược thọ
tên san đà na, có ai lấy được vỏ dùng thoa ghẻ, thời ghẻ liền lành, vỏ cây ấy
vừa lấy là sanh lại liền, lấy không hết dược. Cũng vậy, đại Bồ Tát từ bồ đề tâm
sanh cây nhất thiết trí, có ai thấy mà sanh lòng tin, thời ghẻ phiền não nghiệp
đều được tiêu diệt, cây nhất thiết trí không hề tổn. Như có cây thuốc tên là vô
sanh căn, do sức của cây này mà tăng trưởng tất cả cây ở Diêm Phù Đề…
GIẢNG: Trong núi Tuyết
sơn có một loại cây vô sanh căn, do sức của cây đó mà tất cả cỏ cây ở trái đất
này mọc lên được. Lời kinh có ý nghĩa tượng trưng rằng, chính ra tất cả cỏ cây
đều mọc từ biển tâm mà ra, nhưng đồng thời cũng có cây vô sanh căn thật. Pháp
giới này rất kỳ ảo, tâm chúng ta với phước đức trí huệ nào thì sẽ thấy pháp
giới ở mức độ đó, chứ không phải pháp giới này ù lỳ thế này mãi đâu, mà luôn
biến hiện tùy theo nghiệp tương ưng của chúng sanh.
KINH: Cũng vậy, do sức
cây của Bồ đề tâm của Đại Bồ Tát làm cho tất cả thiện pháp của hàng hữu học, vô
học và chư Bồ Tát đều được tăng trưởng.
GIẢNG: Đai Bồ Tát phát
bồ đề tâm rồi làm tăng trưởng cây bồ đề tâm ấy. Bồ đề tâm là cây của tâm thức mọc
một cách vô hình tướng. Vị Bồ Tát mang bồ đề tâm ấy qua lại trong thế gian, đi
đến đâu giúp ích chúng hữu tình ! Đến đó, tùy theo phương tiện độ sanh, hoặc
bằng lời thuyết pháp, hoặc bằng bát cơm, hay bằng manh áo ấm v.v… Do bồ đế tâm
cũa các ngài đi qua lại, khiến cho những người khác cũng sanh tâm bồ đề. Như
vừa rồi, chúng ta tụng một đoạn kinh đại Bát Nhã, nói rõ, có những vị Bồ Tát
qua lại thế gian này làm phát sanh tất cả những thiện pháp cho những vị Thanh
Văn, Bích Chi Phật và những Bồ Tát khác. Dụ như trong một nhà, có một chủ rất
nhân từ, đạo đức, thì không khí trong nhà rất vui vẻ, an nhiên, vì người nào
cũng sanh tâm hòa nhã, ngược lại nếu người chủ ác độc, hay nói những lời thô
tháo, hay mắng chửi, dằn vặt, tâm thức luôn quanh co, vặn vẹo v.v… thì cả nhà
dễ sinh ác tâm, không khí luôn luôn nặng chích, ít khi nghe được tiếng cười hồn
nhiên, thoải mái. Đó là chỉ lấy khung cảnh ngôi nhà nhỏ hẹp, huống chi trong
một , thành phố, một làng, một quốc độ, một thế giới… Nên khi có một vị Bồ Tát
mang bồ đề tâm xuất hiện, thì tâm bồ đề của ngài khiến kẻ khác dễ khởi tâm từ,
bi, hòa nhã.
Nên phải hiểu, chúng ta
là những cái đèn, ta phải mang ngọn đèn bồ đề tâm của mình thắp vào những ngọn
đèn khác. Nói một cách dễ hiểu, lúc nào chúng ta cũng nên cư xử hòa nhã, từ, ái
với mọi loài, trải rộng lòng mình để những người khác thấm được những gì tốt
đẹp, và cố tránh đừng gây phiền não, cáu kỉnh, khó chịu, tham lam, tật đố v.v…
cho những người chung quanh. Đó cũng là một cách tích tập bồ đề tâm rồi vậy.
KINH: Ví như thuốc
a-lam-bà, nếu dùng thoa thân, thời thân và tâm đều co kham nắng. Cũng vậy, bồ
đề tâm của đại bồ tát làm cho thân tâm tăng trưởng pháp lành. Ví như có người
được thuốc niệm lực, phàm những người đã được nghe thời ghi nhớ chẳng quên. Đại
bồ tát được tâm bồ đề thời nghe trì tất cả Phật pháp đều không quên mất. Ví như
thuốc đại liên hoa, nếu ai uống thuốc này thời sẽ sống lâu một kiếp. Cũng vậy,
đại bồ tát uống bồ đề tâm thời được thọ mạng tự tại trong vô số kiếp.
GIẢNG: Thuốc đại liên
hoa chắc là thuốc hoa sen trong Tuyết Sơn, khi uống vào thì tuổi thọ tăng lên
một kiếp, nhưng nếu ta có bồ đề tâm tròn đầy “thời được tự tại trong vô số
kiếp.” Ta dùng thuốc thế gian chỉ để dùng tạm thời thôi, còn muốn đến mức độ
tuyệt vời thì phải dùng chính tâm lực của ta, phải biết mở nguồn suối vô cùng
tận ấy, mà muốn mở được nguồn suối ấy, điều căn bản là phải phát bồ đề tâm.
KINH: Ví như thuốc ẩn
hình, người cầm thuốc này thời nhơn và phi nhơn đều không thấy được.
GIẢNG: Có thứ thuốc ẩn
hình, không ai thấy được, muốn bắt cũng không thấy, ví như người đến số chết,
mà có thuốc này, quỉ đến bắt đi cũng không thấy được.
KINH: Đại Bồ tát cầm bồ
đề tâm thời tất cả ma chúng không thấy được.
GIẢNG: Vì vậy, bồ đề tâm
rất quan trọng. Bồ đề tâm là tất cả Phật pháp, tất cả Chư Phật, các đại Bồ Tát,
những người tu hành, nhơn, phi nhơn v.v… đều là những bông hoa nở trên cây bồ
đề tâm, ngoài ra không có một pháp nào là có thật, chỉ có bồ đề tâm ấy, là một
cây vô căn, mọc trên biển tâm ấy là có thật thôi.
KINH: Này thiện nam tử,
như biển có châu vương tên là Phổ Tập Chúng Bửu.
GIẢNG: Phổ là rộng rãi.
Tập là tập hợp lại. Chúng là bao gồm tất cả những hòn ngọc khác. Bửu là quí
giá.
KINH: Châu này nếu còn,
giả sử kiếp hỏa đốt cháy thế gian cũng không thể làm cho biển này giảm được một
giọt nước.
GIẢNG: Ở đây, cần nhắc
qua kiếp hoại là gì? Khi đến kiếp hoại, có bảy mặt trời mọc lên đốt khô tất cả
nước ở biển, sức nóng lúc đó thật khủng khiếp, không có vật gì ra ngoài sự tàn
phá của sức nóng ấy. Nhưng nếu trong biển có hạt châu Phổ Cập Chúng Bửu này,
thì sức nóng ấy cũng không thể làm biển giảm đi một giọt nước. Đủ biết sức kỳ
ảo của hạt châu này đến thế nào. Nhưng chúng ta hay bị cái nghi ám chướng nên
khó có thể tin lời Kinh.
KINH: Cũng vậy, tâm bồ
đề ở trong biển đại nguyện của Bồ Tát, nếu thường ghi nhớ gìn giữ chẳng thối
thất, thời không thể hư hoại một thiện căn của Bồ Tát.
GIẢNG: Tâm như biển lớn,
nếu có những thiện căn thì như những chủng tử nhỏ, và tâm bồ đề khiến không bao
giờ những thiện căn ấy mất, ngược lại, những thiện căn ấy ngày càng tăng
trưởng. Vì vậy, chúng ta nên gấp phát bồ đề tâm, vì không có cái gì trên thế
gian mà hơn cái tâm bồ đề này, không có gì quí hơn tâm ấy. Dù muốn mong cầu
những phước báo hữu lậu,(kiếp sau được sung sướng, được làm người nữ có thân
căn đẹp đẽ, hay một nam tử tài trí, có thể là vương làm Tướng v.v…) hoặc
cầu làm Tiên Nữ, Bửu Nữ, Ngọc Nữ, hay Vua trời Đế Thích, Chuyển Luân Vương, các
hàng Đại Bồ Tát v.v… cũng đều phải phát bồ đề tâm, để khiến cho những thiện căn
không mất mà ngày càng tăng trưởng. Đó là sự bảo đảm chắc chắn đời đời giữ
chúng ta không bị đọa, và cuộc sống thật an ổn.
KINH: Nếu thối tâm bồ đề
thời tất cả pháp lành đều diệt tan.
GIÁNG: Nếu chúng ta phát
nản, vì một lý do nào đó, khiến tâm bồ đề bị thối thất, thì tất cả những pháp
lành đều dễ tiêu mất.
KINH: Như có châu ma ni
tên là Đại Quang Minh, nếu ai đeo châu này thời bao nhiêu quang minh của tất cả
đồ trang sức khác đều bị che chói khuất cả. Cũng vậy, bồ đề tâm trang nghiêm
nơi thân củạ Bồ Tát thời tất cả tâm nhị thừa đều khuất mất.
GIẢNG: Một vị Bồ Tát
mang tâm bồ đề cũng tương tự như người đeo một hạt châu lớn có thể ánh sáng của
những hạt châu khác. Đi đến đâu, tâm bồ đề sáng chói, che mờ những tâm thấp kém
khác.
KINH: Như thủy thanh
châu có thể lóng trong nước đục. Cũng vậy, bồ đề tâm của bồ tát có thể lóng
sạch phiền não. Như có người đeo châu tỵ thủy xuống biển không bị nước làm hại.
Cũng vậy, đại bổ tát được bồ dề tâm vào trong tất cả biển sanh tử trọn không bị
chìm.
GIẢNG: Những của báu ở
trần gian rất ít và chỉ có một chút quang minh óng ánh, nhưng báu ở cõi trời
thì đẹp hơn, sáng chói hơn, lại có huyền lực lớn. Trong bộ Đại Trí Độ Luận có
giảng rõ sự khác biệt về những báu vật của trần gian, của chư Thiên và của các
vị Đại Bồ Tát. Khi một người đeo châu Tỵ Thủy xuống biển không bị nước làm hại.
Cũng vậy, khi ta có tâm bồ đề thì đi đến chỗ nào cũng dễ thoát nạn, đi đến đâu
cũng có cơ duyên đưa đẩy để cứu chúng ta. Vì vậy, có những vị ngồi thiền cao
trong rừng sâu chung quanh hổ, báo đến chầu hầu, chim chóc mang hoa đến cúng
dường, vì tâm vị đó cao.
KINH: Như có người được
bửu châu của Rồng rồi cầm đi vào long cung, không bị các loài rồng răn làm hại.
GIẢNG: Trong kinh Hiền
Ngu kể rõ có một vị Thái Tử tên là Đại Thí, khởi tâm muốn bố thí cho chúng
sanh, nhưng kho tàng của vua cha vẫn không đủ ngài bèn xuống Long Cung xin châu
như ý của Long Vương. Con đường xuống Long Cung thật dài xa, cần khổ, qua bao
nhiêu gian nan chướng ngại. Sau cùng, trước khi vào đến Long cung thì chung
quanh cung có rất nhiều rắn độc nằm cuộn mình trên hoa sen. Nhưng khi ngài đi
qua hàng rào rắn độc, ngài chỉ đề khởi tâm từ, không muốn sát hại ai, ngược
lại, tâm từ ấy chỉ muốn tất cả chúng sanh đều sung sướng, vì vậy, quang minh
của ngài tác động vào tâm thức những con rắn độc, nên con nào cũng ngoan ngoãn
nằm yên.
Ta cũng nên biết một
điều, rồng chính là rắn biến hóa ra, khi một con rắn sống lâu năm tu hành có
thần thông thì có thể biến thành rồng, dưới rắn là con giun, chỉ khác nhau ở
thứ bậc tâm thức thôi.
KINH: Cũng vậy, đại Bồ
tát được tâm bồ đề vào trong dục giới, tất cả phiền não không làm hại được.
GIẢNG: Dục giới là nơi
dễ bị đọa, dễ sa ngã nhất vì nơi đó có ái dục, có ăn, ngủ, thai sanh, bệnh tật
v.v… Nhưng những vị đại Bồ Tát phát tâm đi vào trong những cảnh khó khăn ở Dục
Giới, nếu bồ đề tâm vững, sẽ không còn bị những phiền não làm hại, cũng tương
tự như người cầm ngọc châu của rồng, đi vào biển sâu mà không bị rồng rắn làm
hại.
KINH: NhưThiên Đế Thích
đội mão ma ni, che khuất tất cả thiên chúng khác.
GIẢNG: Trên tầng trời
thứ 33 có vua trời Đao Lợi là vua Đế Thích, người thế gian vẫn gọi là Ngọc
Hoàng Thượng Đế, khi ngài đội mão ma ni thì hào quang chiếu ra khiến tất cả hào
quang của thiên chúng khác đều mờ đi.
KINH: Cũng vậy, đại Bồ
Tát đội mão đại nguyện bồ đề tâm thời vượt hơn tất cả chúng sanh trong tam
giới.
GIẢNG: Khi một vị Bồ Tát
phát những đại nguyện, như: “Tôi sẽ cứu độ tất cả chúng sanh, cho đến khi chúng
sanh hết thì tôi mới thành Phật.” Dần dần bồ đề tâm của Bồ Tát lóe sáng, vượt
hơn tất cả chúng sanh trong tam giới, cũng như vị vua đội mão ma ni, khiến hào
quang che mờ những hào quang khác.
KINH: …(bỏ một đoạn)… Như Chuyển Luân
Vương có ma ni bủu để trong cung, phóng ánh sáng lớn phá tất cả tối. Cũng vậy,
đại Bồ Tát dem bồ dề tâm để ở trong dục giới phóng đại trí quang phá vô minh
của mọi loài.
GIẢNG: Ngày xưa, có
những vị vua Chuyển Luân Vương có bửu châu để trong cung, bửu châu đó tự nó
phát ra ánh sáng diệt trừ tất cả tối tăm. Cũng vậy, đại Bồ Tát có bồ đề tâm
sống giữa dục giới, (sống giữa một nơi tối om, nhiều chướng ngại), quang
minh của bồ đề tâm cũng phát ra, khiến cho chung quanh đều được sáng sủa, đỡ
khổ đau đi nhiều.
KINH: Như châu lưu ly
trăm ngàn năm ở trong chỗ nhơ uế mà chẳng nhiễm nhơ uế, vì tánh nó bổn lai trong
sạch. Cũng vậy, bồ đề tâm của dại Bồ Tát ở dục giới trăm ngàn kiếp mà chẳng bị
sự lỗi ác của cõi dục làm nhiễm, vì tánh nó thanh tịnh như pháp giới.
GIẢNG: Trong kinh luôn
nhắc đến dục giới, vì dục giới của chúng ta là chỗ đáng sợ nhất, chúng ta
thường có rất nhiều cơ hội đi xuống, mà chỉ có ít cơ hội đi lên.
Nên tất cả sự tu hành
đều phải bắt đầu từ chỗ ly dục, phải ra khỏi dục giới, sau đó được lên đến sắc
giới, vô sắc giới thì sự tu hành có phần dễ dàng hơn.
KINH: Như trong biển có
vô giá bửu, người đi buôn châu báu lượm được đem về thành thị, tất cả quang sắc
của những châu ngọc khác không bằng được. Cũng vậy, bồ đề tâm ở trong biển lớn
sanh tử, đại Bồ Tát dùng thuyền đại nguyện chở đem vô thành giải thoát, công
đức của hàng nhị thừa không bằng được.
GIẢNG: Tâm bồ đề của Bồ
Tát khác xa với tâm Thanh Văn, vì tâm thanh văn chỉ muốn tự cứu lấy mình thôi,
còn tâm bồ đề không nghĩ đến chuyện cứu mình, mà chỉ nghĩ đến cứu người trước,
nên cái tâm đó vô giá bửu.
KINH: Như có bửu châu
tên là tự tại vương ở tại châu Diêm Phù Đề cách mặt nhật, mặt nguyệt bốn vạn do
tuần, bao nhiêu cảnh vật trang nghiêm của nhật nguyệt đều hiện bóng rõ ràng
trong bủư châu này. Cũng vậy, công đức thanh tịnh của đại Bồ Tát phát bồ đề tâm
ở trong sanh tử chiếu pháp giới không, tất cả công đức của phật trí đều hiện
trong đó.
Đến đây cũng hết giờ
rồi, tôi xin tạm dừng. Không biêt có vị nào cần hỏi điều gì không?
Vậy xin dừng nơi đây.
Hẹn quí vị kỳ sau.
Xin cảm ơn quí vị.
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
Ngày 20 tháng 1 năm 1991
Hôm nay là buổi thuyết giảng thứ 119 về kinh Hoa Nghiêm, phẩm
Nhập Pháp Giới.
Lần trước, chúng ta
đương dừng lại ở đoạn ngài Di Lặc nói về bồ đề tâm. Ngài dùng nhiều thí dụ,
nhân duyên để ví dụ về bồ đề tâm, từ các thứ thuốc, các thứ bửu châu ma ni, và
còn nói rõ rằng, bồ đề tâm ấy có thể trụ được thọ mạng của mình nữa. Tới đoạn này,
ngài lấy thí dụ các thứ hương để nói về bồ đề tâm.
KINH: Như hắc chiên đàn
hương trên trời, nếu đốt một chỉ thời hơi hương xông khắp tiểu thiên thế giới,
giá trị của tất cả chân bửu trong đại thiên thế giới đều không bằng.
GIẢNG: Chỉ cần đốt một
chỉ thôi, mà hương ấy xông khắp một tiểu thiên thế giới, tức là khoảng 1000
thái dương hệ này. Vì vậy, trong kinh nói rõ, khi ta vừa thắp một nén hương
khấn nguyện, thì múi hương đã xông ngay lên cung trời các vị Tứ Thiên Vương
rồi.
KINH: Cũng vậy, một niệm
công đức của bồ đề tâm của đại Bồ Tát xông khắp pháp giới, tất cả công đức của
Thanh Văn, Duyên Giác đều không bằng được.
GIẢNG: Từ thí dụ hương
hắc chiên đàn ấy, bồ đề tâm cũng vậy. Khi Bồ Tát phát bồ đề tâm lớn mạnh, chỉ
cần phát một niệm thôi, công đức của niệm đó xông khắp pháp giới, với một niệm
ấy, nếu lấy tất cả công đức của những vị A La Hán cộng lại cũng không bằng
được. Tại sao một niệm bồ đề tâm lại ghê gớm đến thế? Vì công đức của hàng
Thanh Văn, Duyên Giác chỉ vì tự lợi, như giữ giới, tu thiền định, hay tu huệ
đôi chút cốt làm sao cho chính mình được giải thoát, vì vậy tâm không thể rộng
lớn được, do đó công đức cũng hạn hẹp. Ngược lại, một niệm bồ đề tâm của Bồ Tát
tuy về giới hạnh và định lực chưa nhiều bằng một vị A La Hán, nhưng bao trùm
pháp giới, và sẽ đạt đến chỗ không hư ấy, vì vậy công đức rất ghê gớm.
KINH: Như bạch chiên đàn
thoa trên thân thời có thể trừ tất cả nhiệt não làm cho thân tâm được thanh
lương. Cũng vậy, bồ đề tâm của đại Bồ Tát có thể trừ tất cả hư vọng phân biệt
phiền não, làm cho được trí huệ.
GIẢNG: Khi có bạch chiên
đàn thoa lên thân, thì trừ được những nóng bức, phiền não làm cho tâm được
thanh lương. Bồ đề tâm cũng vậy, chỉ cần khởi một niệm mà cố thổ tiêu diệt
những phân biệt phiền não, khiến Bồ Tát được trí huệ. Chúng ta là người đang
tập tễnh đi vào đường Bổ Tát đạo. Và trong ban kinh này, đã có một số lớn phát
bô đề tâm rồi, song những phân biệt phiền não vẫn còn vì bồ đề tâm chưa nở
rộng, nhưng đến một kiếp nào đó, chúng ta cũng đến mức độ trong kinh.
KINH: Như núi Tu Di, nếu
ai ở gần thời đồng một màu sắc với núi này. Cũng vậy, nếu ai ở gần bồ đề tâm
của đại Bồ Tát thời đồng màu với nhất thiết trí của Bồ Tát.
GIẢNG: Trong kinh kể
nhiều ví dụ mà chúng ta hoàn toàn không biết, cũng không nhìn thấy. Kinh kể như
thế là để cho ta biết thêm về pháp giới kỳ ảo này, nó không ù lì như chúng ta
thấy bằng mắt thịt đâu. Như núi Tu Di, là xương sống của tiểu thế giới thái
dương hệ này, mặt trời, mặt trăng xoay quanh núi ấy, phải có thiên nhãn mới
nhìn thấy vì nó được dệt bằng thứ quang minh vi diệu hơn ánh sáng mặt trời
nhiều, nó óng ánh và đổi màu sác luôn, hễ chúng sanh nào tới gần, (như loài
kim súy điểu, loài rồng, hay loài thần tiên v.v.) tới gần núi ấy thì đều
mang một màu sắc cùng với núi. Cũng vậy, nếu vị Bồ Tát mang bồ đề tâm đi đến
đâu thì cũng tác động vào tâm thức của những người tiếp xúc với ngài, nên họ
bớt đi những tâm tham, sân, si v.v… và dần dần cùng một tâm thức với vị Bồ Tát
ấy. Nên trong kinh thường nói Bồ Tát nhiều khi chưa làm gì cả, mà chỉ qua lại
trong thế gian thôi cũng đủ rung chuyển và tác động tâm thức của chúng sanh,
khiến họ khởi tâm hòa ái, có tâm từ, bi, hỉ, xả.
Đó là những thí dụ về
hương. Nay ngài Di Lặc lại qua đoạn khác nói thí dụ về cây…
KINH: Như cây Ba Lợi
Chất Đa…
GIẢNG: Ba Lợi Chat Đa là
một loại cây rất đặc biệt, chỉ có trên cõi trời thôi.
KINH: Hương khí của vỏ
cây này không có cỏ cây hoa nào ở Diêm Phù Đề thơm bằng.
GIẢNG: Trên cung trời
Đao Lợi có một cây tên Ba Lợi Chất Đa, mọc trong khu vườn Hoan Hỉ, đó là chỗ
chư Thiên thường hay đến đó dạo chơi với tâm rất an lạc. Nếu so sánh những sự
khoái lạc của trần gian như ăn, uống, ngủ, nghỉ, đàn ca, xướng hát, và ngay đến
những chuyện ái dục nam nữ v.v… tất cả cũng không bằng một phần nhỏ niềm hoan
lạc trên cõi trời. Đời sống chư Thiên trên đó chỉ rong chơi suốt ngày, ăn thì
bằng xúc thực, ngửi hương của các loài hoa là đủ no. Các ngài thựờng đến chơi
hơi vườn Hoan Hỉ, vào đó, tâm thần phơi phới, sung sướng vô chừng. Vì vậy nên
Phật dạy, các ông không nên sinh lên cõi trời vì sẽ sướng quá, không thấy được
sự khổ để muốn tiến tu.
Đến nỗi, trong kinh có
kể một chuyện. Ngày xưa, ngài Mục Kiốn Liên có một người đệ tử, ông ta là một
vị danh y rất giỏi, khi chết, vì có sự tu hành, phước báo nhiều, thần thức của
ông ta thọ sanh vào cõi Đao Lợi. Một thời gian sau, ngài Mục Kiền Liên lại có
một người đệ tử khác bị ốm nặng mà không ai chữa được, nên ngài dùng thần thông
lên cõi trời Đao Lợi kiếm vị đệ tử danh y của mình hỏi xem trường hợp ốm như
thế, như thế sẽ phải chữa làm sao? Lên đến nơi, ngài nhìn thấy chư Thiên lũ
lượt ngựa xe sênh sang đang kéo nhau đến vườn Hoan Hỉ vui chơi, khi người đệ tử
thấy thầy Mục Kiền Liên, vì quá mải chơi, chỉ đưa tay vẫy vẫy thầy rồi bỏ đi
luôn, chẳng chào hỏi, lễ lạy gì thầy. Ngài Mục Kiền Liên liền dùng thần thông
giữ xe ngựa người đệ tử lại, lúc bấy giờ ông này mới xuống xe lễ thầy. Lúc đó
ngài Mục Kiền Liên quở trách người đệ tử sao lại đối với thầy như thế? Người đệ
tứ thưa, vì tôi có ơn với thầy dưới nhân thế, nên hôm nay gặp mặt, nể tình, vẫy
tay như thế đã khá lắm rồi, chứ vì ở đây vui quá, các thiên tử, thiên nữ không
còn nhớ đến chuyện gì khác. Ngài Mục Kiền Liên lúc bấy giờ mới biết chuyện và
hỏi thăm về bệnh của người đệ tử mình, trường hợp như thế chữa bằng cách nào?
Người đệ tử trả lời xong vội vã bái biệt đi ngay. Đủ chứng tỏ, trên ấy nhiều an
lạc vui thú quá, nên khó tu được. Trở lại cây Ba Lợi Chất Đa, thường chưThiên
hay dạo chơi dưới bóng mát của cây, hoa thì vô số kể, buổi sáng hiện đầy hoa,
chiều về thì úa tàn và biến đi. Vỏ cây này rất thơm, không có một loài hoa nào
ở cõi Ta Bà thơm bằng.
Cây ba lợi chất đa trên
trời như vậy, còn cây dưới nhân gian thế nào? Theo quí vị nghĩ, cây cối có cần
thiết cho cuộc sống của chúng ta không? Rất cần! Vì cây tương tự như một thứ
vọng tình của trái đất, nhưng là một thứ vọng tình mát mẻ. Thử tưởng tượng, một
ngày kia, trái đất này không còn cây nữa thì đời sống khô khan, có lẽ con người
cũng héo khô đi mà chết. Chúng ta sống nhờ những bóng mát của những vọng tình
ấy. Người Mỹ hay chặt cây làm đủ chuyện, chúng ta cho rằng Mỹ ít có tình người,
tức là không có vọng tình nhiều, chỉ nhiều tình dục cùng vọng tưởng mà thôi.
Con người đối với nhau rất sòng phẳng, ít tình nghĩa, chỉ còn những tương quan
về quyền lợi, về tưởng thôi. Nên cây cối hiện diện trên mặt đất rất quan trọng
cho loài người. Nếu nhìn về phương diện hóa học, cây còn hút bớt những thán khí
và nhả ra dưỡng khí, tức là làm cho không khí được mát mẻ.
Càng nghĩ, càng thấy
pháp giới này biến hiện một cách rất lạ. Này nhé, ở nhân gian có cây, thì vọng
tình, vọng tưởng của loài người vừa phải, nhưng dưới địa ngục thì không có cây,
toàn là thành ốc, vách sắt đen sì. Ở dưới ấy, vọng tình bị đặc quánh đến độ vón
lại, còn lên cõi trời dục giới thì chỉ có cây ba lợi chất đa, vọng tình của họ
nhẹ nhàng thanh thoát hơn, họ thường có những cơn an lạc lớn, sung sướng vô
cùng, tình dục nam nữ cũng chỉ còn rất ít. Rồi lên đến cõi trời sắc giới lại
hoàn toàn không có cây, các ngài thường đắm mình trong thiền định, thân các
ngài thanh tịnh và phóng quang minh mà không cần đến những vọng tình mát mẻ của
cây nữa, vì vọng tình mát mẻ của cây ở tầng lớp thấp hơn các quang minh cúa các
ngài. Lúc đó những vọng tưởng, tâm tư của các ngài đều mát mẻ và tự phóng
quang. Nhưng sang Cực Lạc thì lại có cây, có chim luôn phát ra diệu pháp. Quí
vị thấy có lạ chăng? Đó là những vọng tình từ lòng Đại từ, đại bi của ngài A Di
Đà, hóa hiện ra thành cây, phổ lên thánh chúng bên đó cho thân tâm họ cảm nhận
được sự mát mẻ an lạc, vì chúng sanh khi sang đó, đôi khl rất cần những bóng
mát của thánh tình để tiến tu lên nữa. Cây bên Cực Lạc cũng không giống cây cõi
trần gian này, vì lúc nào cũng phát ra lời thuyết pháp.
Nên những người viết
văn, hay những vị nghệ sĩ làm thơ họ thường ca tụng những vọng tình mát mẻ, nhẹ
nhàng. Đối tượng ca tụng của họ thường là mây, trăng, gió và cây. Ta thấy rất
ít người làm thơ ca tụng những vọng tưởng lắm, vì nó quá khô và quá cao. Nên
một nhà văn được gọi là nổi tiếng, chỉ là họ biết quyện vọng tình vào mình, và
đó cũng là một cái nghiệp trói họ lại khó có thể đi lên, giống như con tằm
quyện kén vậy.
HỎI: Như vậy những nhà
văn lớn nổi tiếng như Léo Toilstoi cũng vậy sao?
ĐÁP: Cũng thế, họ như
một con tằm quyện cái kén rất đẹp và có khi vĩ đại, nhưng càng vĩ đại bao nhiêu
lại càng khó ra khỏi cái kén ấy bấy nhiêu. Thế gian này nguy nhất là người nào
cũng hay nói đến những vọng tình, do đó tình chướng rất lớn, vì vậy mới có
những ca sống chết vì tình. Khi đi sâu vào luân hồi, vọng tưởng sau sẽ trở
thành sở tri chướng, vọng tình thành phiền não chướng.
KINH: Cũng vậy, hương
công đức đại nguyện của bồ đề tâm của đại Bồ Tát hơn hẳn công đức của hương
giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến của tất cả hàng nhị thừa.
GIẢNG: Chĩ cần một tâm
đại nguyện của Bồ Tát khởi lên thì công đức hơn tất cả những vị A La Hán tu về
giới, định, huệ, giải thoát và giải thoát tri kiến. Chỉ có trong kinh Phật mới
kể rõ chuyện trên trời, còn hơn thế nữa, ngài nói rõ các cõi khác, nói rõ ràng
đủ mọi chuyện cho chúng ta nghe. Tất cả những tôn giáo khác không nói đến vì các
giáo chủ của những tôn giáo ấy không có đủ thiên nhãn nên không thể nhìn
thấy hết. Phải là một vị Đại Giác có đủ ngũ nhãn, đủ thần túc thông đi hết tất
cả các cõi mới có thể mô tả được như thế.
KINH: Như cây
ba-lợi-chất-đa dù chưa đơm hoa, nhưng nên biết chính, nơi cây này là chỗ sản
xuất vô lượng hoa. Cũng vậy, tâm bồ đề của đại Bồ Tát dầu chưa phát sanh nhất
thiết trí, nhưng nên biết tâm này là chỗ xuất sanh trí giác cho vô số chúng
nhơn, thiên.
GIẢNG: Khi Bồ Tát phát
bồ đề tâm tương tự như cây ba lợl chất đa sẽ lớn lên, rồi nở hoa, không những
nở vô số hoa cho Bồ Tát ấy, mà đồng thời các ngài chỉ di động trong pháp giới
như đi xuống địa ngục, súc sanh, ngạ quỉ, người, trời, A Tu La v.v… tất cả
những người chung quanh tiếp xúc với các ngài thì tâm thức cũng được nở hoa.
Lấy một thí dụ cụ thể như vị Bồ Tát ấy xuống địa ngục chẳng hạn, lửa địa ngục
sẽ tắt, hoặc hàn băng của địa ngục không còn, thì những chúng sanh đương bị tội
khổ có sự lạnh, nóng ấy hoát nhiên tâm thức nhẹ nhàng, cởi mở, lúc ấy cũng bắt
chước ngài niệm Phật, tâm thức cũng nở hoa như các ngài vậy. Còn ở trần gian
chúng ta, khi ta gặp một vị thầy đạo hạnh cao, tâm vô ngã và có tâm từ, bi, hỉ,
mà chẳng cần nói năng điều gì, chỉ cần ngồi dưới gối thầy lập tức tâm thức
chúng ta tan đi hết những nghi vấn, tâm ta hoát nhiên cảm thấy an ổn, yên vui.
KINH: Như dùng hoa ba
lợi chất đa để ướp y phục trong một ngày, thời mùi thơm hơn hẳn dùng các thứ
hoa thơm khác ướp y phục trong ngàn năm. Cũng vậy, tâm bồ đề của đại Bồ Tát
huân tập công đức trong một đời hơn hẳn công đức vô lậu của hàng nhị thừa huân
tập trong trăm ngàn kiếp.
GIẢNG: Bồ tát khi tu
tập, khởi tâm từ bỉ hỉ xả độ sanh, thanh tịnh Phật độ, chỉ trong một đời hơn
hẳn tất cả các bậc A La Hán, Bích Chi Phật, Thanh Văn, Duyên Giác trong trăm
ngàn kiếp. Vì tâm bồ đề là tâm vô hạn, còn tâm của nhị thừa là tâm có hạn. Vì
vậy, làm bất cứ điều gì, quan trọng nhất là cái tâm lượng mình phát, tâm mở
càng lớn bao nhiêu thì công đức càng nhiều bấy nhiêu.
KINH: Như trong hải đảo
mọc cây gia tử, cây, rễ, nhánh, lá, bông, trái của cây này mọi người thường lấy
ăn dùng mà vẫn không hết.
GIẢNG: Nếu có những
người đi biển, bị chết đói, lạc vào một hải đảo, nếu đủ túc duyên gặp cây gia
tử ấy, thì có thể dùng cây đó ăn rễ, hoặc lá, hoặc bông, hoặc trái ăn hoài hoài
vẫn không hết, ăn đến đâu nó lại mọc ra đến đấy, pháp giới rất kỳ ảo, tùy theo
túc duyên của chúng ta mà biến hiện.
KINH: Cũng vậy, tâm bồ
đề của đại Bồ Tát từ sơ phát tâm đến thành phật, chánh pháp trụ thế luôn lợi
ích tất cả thế gian không lúc nào tạm dứt.
GIẢNG: Tâm bồ đề của Bồ
Tát như cây gia tử, mọc hoài không hết, nó làm lợi ích chúng sanh không lúc nào
dứt.
KINH: Như có nước thuốc
tên là ha-trạch-ca, nếu dùng một lượng nước thuốc này thời biến được ngàn lượng
đồng đều thành chân kim, chẳng phải đồng biến được thuốc này. Cũng vậy, đại Bồ
Tát dùng thuốc trí hồi hướng của Bồ đề tâm, biến tất cả pháp nghiệp hoặc làm
cho đều thành tướng nhất thiết trí, chẳng phải nghiệp hoặc biến được tâm này.
GIÁNG: Cho thuốc
ha-trạch-ca vào đồng thì thuốc biến đồng thành vàng chứ không phải đồng biến
thành vàng. Cũng vậy, bồ đề tâm của Bồ Tát làm bất cứ gì mà ngài dùng trí để
hồi hướng, thiện căn hồi hướng ấy tăng trưởng rất nhiều tới chỗ trở thành rễ
của nhất thiết chủng trí, đồng thời tất cả những nghiệp hoặc từ trước (như
các pháp đều vô thường, hay đều thường, các pháp là khổ, vul v.v...)
sẽ biến thành tướng nhất thiết chủng trí, biết rõ không có gì là trường tồn cả.
Tôi cứ muốn nhắc mãi ở đây, giáo lý nhà Phật-nhất là trí huệ bát nhã-nó là một
vị thuốc rất mầu nhiệm để có thể tăng trưởng thiện căn nhỏ của chúng ta đến chỗ
vô cùng tận, tất cả đều do sức huyền nhiệm của tâm.
KINH: Như một ngọn đèn
đem thắp trăm ngàn ngọn đèn khác, mà ngọn đèn này không tổn giảm. Cũng vậy, bồ
đề tâm của đại Bồ Tát sanh thành tam thế Phật trí, mà tâm này không giảm, không
hết.
GIẢNG: Nếu một vị phát
bồ đề tâm mà khuyến tấn người khác tu hành, thì cũng như họ thắp ngọn đèn tâm
thức của họ vào ngọn đèn của người khác, ngài Duy Ma Cật gọi đó là “vô tận
đăng.” Khi ta thắp hàng trăm ngọn đèn tâm thức mà đèn tâm thức của vị đó không
những không tổn giảm mà cái tâm ấy còn sáng thêm nữa. Còn nếu cho một vật hữu
hình, như tiền bạc cho người nghèo, ít lâu cũng phải tận, nhưng nếu mang cho
cái tâm ấy thì tâm càng ngày càng nở ra.
KINH: Như đem một ngọn
đèn vào trong nhà tối, thời có thể phá trừ sự tối tăm đã trăm ngàn năm. Cũng
vậy, bổ đề tâm của đại Bồ Tát đem vào trong tâm của chúng sanh, thời có thể trừ
hết những phiền não nghiệp chướng trong trăm ngàn vạn ức bất khả thuyết kiếp.
Như tim đèn, tùy lớn hay nhỏ mà phát ánh sáng, nếu thêm dầu thời ánh sáng chẳng
tắt. Cũng vậy, đèn bồ đề tâm của đại Bồ Tát, dùng đại nguyện làm tim quang minh
chiếu pháp giới, thêm dầu đại bi thời giáo hóa chúng sanh, tịnh Phật dộ, thi
hành phật sự không thôi dứt. …(Bỏ một đoạn)… Như Tha Hóa TựTại Thiên vương đội thiên quan Diêm phù
dàn kim, tất cả vật trang nghiêm của chư thiên từ cõi dục đều không bằng
được.
GIẢNG: Trong dục giới có
sáu tầng trời. Tầng trời cao nhất là Tha Hóa Tự Tại, vị vua ở tầng trời này đội
thiên vương quang minh lộng lẫy. Tất cả quang minh trên mũ của chư thiên khác
đềù không bằng được.
KINH: Cũng vậy, đại Bồ Tát
đội bồ đề tâm đại nguyện, thời tất cả công đức của phàm phu nhị thừa đều không
bằng được.
GIẲNG: Ý kinh muốn nói
rằng bồ tát đạo hơn hẳn Thanh Văn và Duyên Giác thừa, hơn hẳn vì có bồ đề tâm
ấy thôi.
KINH: Như lúc sư tử
vương gầm rống, sư tử con nghe Hống đều thêm mạnh mẽ, còn các muôn thú khác đều
kinh sự, lẩn trốn. Cũng vậy, bồ đề tâm của Pháp Vương gầm rống, chư Bồ Tát Pháp
Vương Tử nghe tiếng Phật thời thêm công đức, còn người có sở đắc nghe tiếng
Phật thời đều thối tán.
GIẢNG: Tu mà còn chấp
ngã thì gọi còn là có sở đắc, nhưng vị ấy nghe Phật giảng về Bát Nhã, hay giảng
về Diệu Tâm biến hiện, hoặc giảng về Hoa Nghiêm thì họ đều có tâm thối tán.
Trái lại, người có bồ đề tâm nghe những câu kinh ấy thấy thân tâm phơi phới,
tâm lúc đó nở lớn ra.
KINH: Như có người lấy
gân sư tử làm dây đàn, tấu đàn này thời tiếng của những đàn khác đều tắt mất.
GIẢNG: Không biết có ai
lấy gân sư tử làm dây đàn chưa, vì tôi chỉ nghe người ta lấy ruột mèo làm dây
đàn thôi, nhưng nếu lấy gân sư tử làm dây đàn thì át hết cả tiếng của đàn khác.
KINH: Cũng vậy, đại Bổ
Tát dùng tâm bồ dề làm dây pháp nhạc, khi tấu lên thời tất cả ngũ dục và công
đức của nhị thừa đều đoạn tuyệt.
GIẢNG: Bồ Tát khi dùng
tâm bồ đề làm dây pháp nhạc, khi tấu lên tất cả lòng ham muốn, mong cầu, và
những công đức của nhị thừa đều đoạn tuýệt. Ý kinh nói rằng, khi những vị tu
theo tiểu thừa mà nghe được pháp nhạc của bồ đề tâm, thì tất cả tâm Thanh Văn
rihị thừa không còn cảm thấy ham thích nữa, chỉ muốn phát tâm bồ đề tu lên
thôi.
KINH: Như có người chứa sữa
dê, sữa bò nhiều như biển lớn, đem một giọt sữa sư tử nhỏ vào trong đó, thời
đều biến hoại, sữa sư tử xuyên thẳng qua không bị trở ngại.
GIẢNG: Chỉ cần nhỏ một
giọt sữa sư tử vào trong biển sữa dê, sữa bò thì các sữa ấy đều hỏng cả, vì tất
cả sữa ấy có thể bị hoại. Sữa sư tử xuyên qua không bị trở ngại.
KINH: Cũng vậy, đại Bồ
Tát đem tâm bồ đề vào trong biến phiền não nghiệp đã chứa từ vô lượng kiếp,
thời đều hư hoại, (tức là các nghiệp từ vô
lượng kiếp đều bị phá tan), mà bồ đề tâm thẳng
qua vô ngại, trọn không trụ quả giái thoát của nhị thừa.
GIẢNG: Bồ Tát mang bồ đề
tâm đi vào biển phiền não, thì biển phiền não ấy tự tiêu dung, đồng thời bồ đề
tấm đi thẳng lên mà không trụ vào những quả nhị thừa. Ngài ví dụ các cây, các
thuốc, các bửa châu v.v… bây glờ ngài qua vị dụ của chim.
KINH: Như chim Ca Lăng
Tần Già lúc còn ở trong vỏ trứng đã có thế lực, các loại chim khác đều không
bằng được. Cũng vậy, bồ đề tâm của đại Bồ Tát có những thế lực công đức đại bi,
hàng Thanh Vãn, Duyên Giác không bằng dược.
GIẢNG: Có một loại chim
Ca Lăng Tầng Già, tiếng hót rất hay, khi còn ở trong trứng mà oai lực của nó đã
hơn các chim khác, thì bồ đề tâm của đại Bồ Tát cũng vậy, tuy chưa chứng đắc,
định lực còn thua hàng Nhị thừa mà thế lực công đức lại hơn nhiều.
KINH: Như chim Kim Sí
lúc mới sanh cặp mắt sáng lanh, bay liệng mau chóng, tất cả các chim khác dầu
đã sanh lâu, đã trưởng thành, vẫn không bằng được.
GIẢNG: Trong kinh thường
nhắc về một loài thần điểu, đó là Kim Sí Điểu, nhục nhãn chúng ta không nhìn
thấy, chỉ có thiên nhãn mới thấy, nó có hai cánh rộng đến hàng vạn dặm, đập một
cái có thể bay rất xa, nó cũng là những vị hộ pháp thường đi theo hầu các vị
Phật và Đại Bồ Tát, có lúc nó hiện hình thành chim, có lúc hiện hình thành phi
nhơn. Chim Kim Sí Điểu thường đến bãi biển Hương Thủy Hải bay bổng trên cao,
cặp mắt rất sáng soi suốt đáy biển để bắt những con rồng con để ăn nuốt, trừ
những con rồng nào đã qui y Phật, Pháp, Tăng thì nó lại không bắt.
KINH: Cũng vậy, đại bồ
tát phát bồ dề tâm làm Pháp vương Tử thời trí huệ thanh tịnh, đại bi dũng mãnh,
tất cả hàng nhị thừa dầu đã tu hành trăm ngàn kiếp vẫn không bằng được. Như đại
lực sĩ Ma-Ha Na-Già, nếu phấn khởi oai lực, thời trên trán nổi bóng ghẻ.
GIẢNG: Trong kinh có kể
những vị lực sĩ, khi phấn khởi oai thần thì tự nhiên trên trán nổi lên một cục
thịt, lúc đó vị lực sĩ đó khỏe vô cùng, trong đây dùng chữ “bóng ghẻ” để chỉ
cục thịt ấy.
KINH: Nếu bóng ghẻ chưa
lặn thời tất cả người trong Diêm Phù Đề không ai đấu sức lại. Cũng vậy,
đại Bồ Tát nếu khởi đại bi thời tất định phát bồ đề tâm, lúc chưa xả tâm này
thời tất cả thế gian, những ma và ma dân không làm hại được. Như người tập bắn
tên, trước đặt chân, sau mới tập bắn. Cũng vây, đại Bồ Tát muốn học đạo nhất
thiết trí của Như Lai, trước phải an trụ tâm bồ đề, rồi sau mới tu hành tất cả
Phật pháp.
GIẢNG: Như người muốn
học bắn tên, trước phải tập cách đứng cho vững. Bồ Tát tu hành cũng thế, trước
phải phát bồ đề tâm đã, làm cho tâm vững vàng tăng trưởng, sau đó mới tu các
pháp hạnh khác.
KINH: Như ảo thuật,
không có hình sắc mà hiện ra hình sắc. Cũng vậy, bồ đề tâm của đại Bồ Tát dầu
không hình sắc thấy dược, nhưng có thể khắp thập phương pháp giới thị hiện
những công đức trang nghiêm.
GIẢNG: Chỉ riêng có tâm
bồ đề ấy thôi mà có thể tùy ý hiện tất cả các hình sắc trang nghiêm để cúng
dường chư Phật, để thanh tịnh Phật độ và hóa độ chúng sanh.
KINH: Như mèo chồn vừa
nhìn thấy chuột, thời chuột Iiền rút vô hang chẳng dám ra. Cũng vậy, đại Bồ Tát
phát bồ đề tâm tạm dùng huệ nhãn xem nghiệp hoặc, thời nghiệp hoặc liền lẩn
trốn chẳng còn sanh.
GIẢNG: Khi Bồ Tát phát
bồ đề tâm, dùng huệ nhãn của ngài nhìn các nghiệp hoặc như các phiền não
chướng, các vọng tình, vọng tưởng thì tất cả những thứ đó đều tiêu dung hết,
giống như con chuột thấy mèo thì chui vào trong hang không còn dám ra nữa.
KINH: Như có người giỏi
vào biển lớn, tất cả loài thủy tộc không làm hại đựợc, giả sử vào miệng cá Ma
Kiệt cũng không bị cắn nuốt.
GIẢNG: Trong kinh Hiền
Ngu, có kể chuyện về cá Ma Kiệt. Kể rằng: Có những vùng biển rất kỳ ảo, ngay
bây giờ có lẽ cũng có hai nơi, một nơi là tam giác Bermuda ở ngay sát nước Mỹ,
chỗ này, người đi biển hay bị mất tích, đến độ không còn để lại một dấu vết gì,
ngay cả tàu bè cũng không. Chỗ thứ hai được mệnh danh là Devil Sea (Biển Quỉ),
chỗ này cũng rất nhiều trường hợp tàu bè bị mất tích, nhưng không bằng ở
Bermuda (hai vùng biển đó có thể có cá Ma Kiệt hoặc quỷ La Sát). Kinh
cũng kể trường hợp như sau: Người đi biển nếu tự nhiên thấy trên không hiện ra
hai mặt trời, rồi lại thấy có một hàng núi lởm chởm sừng sững trước mặt, thì đó
có thể là cá Ma Kiệt rồi vậy. Hai mặt trời là hai cái mắt của nó, còn hàng núi
lởm chởm là răng của nó, cá đó thường là hậu thân của những vị bạo chúa, như
Tần Thủy Hoàng, Mao Trạch Đông hoặc Stalin v.v…
Sau khi những bạo chúa
này chết đi, quả báo sẽ bị đọa địa ngục trong trăm ngàn vô số kiếp, sau đó còn
dư báo lên làm cá Ma Kiệt. Cá Ma Kiệt phải chịu một đau khổ vô biên vì mình nó
rất lớn, dài hàng trăm dặm, trong vẩy bao giờ cũng lúc nhúc những con côn
trùng, suốt ngày cán rỉa thịt cá, thỉnh thoảng cá đau quá phải quẫy lên đập tan
tành một khoảng biển rộng nhuốm đầy máu của nó, vì nó quẫy quá mạnh. Sau đó nó
ngủ luôn một trăm năm, khi nó tỉnh dậy, bèn há miệng thở phì phò, nước biển nổi
cơn giông tố tất cả thuyền bè đều trôi tuột vào miệng cá. Không biết quí vị có
tin không, tôi thì tin chắc như vậy, vì kinh không nói lời hư vọng. Trong kinh
Hiền Ngu, đức Phật hay kể những câu chuyện thật hiếm có, kể nhiều cái lạ mà tâm
thức chúng ta không tưởng tượng nổi, nên nhiều khi chúng ta thấy vô lý và không
chịu tin. Nhưng nếu chịu khó suy tư kỹ thì sẽ thấy cũng đúng thật.
KINH: Như có người giỏi
vào biển lớn, tất cả loài thủy tộc không làm hại được. Giả sử vào miệng cá Ma
Kiệt cũng không bị cắn nuốt.
GIẢNG: Chúng ta thấy rõ,
tất cả đều do phước báo của chúng ta. Nếu ta có đủ phước báo trang nghiêm, hoặc
bồ đề tâm, thì dù có đi trên một chiếc tau năm trăm người mà cho dù có bị trôi
tuột vào bụng cá cũng không bị chết. Cách đây độ vài tháng, trên báo có đăng
câu chuyện một người bị cá nuốt vào bụng, ông ta ở trong bụng cá mấy ngày cũng
chưa chết, sau con cá bị bẫy đem lên mổ bụng họ mới thấy người ngư phủ trong
ấy. Chưa chết! Nên chúng ta phải tin sâu chắc ở nghiệp quả, trong kinh nói sức
của nghiệp rất mạnh, có thể bắn chúng ta vào địa ngục, tương tự như sức bắn của
mũi tên vậy, mà nghiệp nó đeo đẳng theo chúng ta cả hàng trăm, hàng ngàn, ngàn
kiếp, không có cách gì thoát khỏi được, ngoại từ chúng ta biết tu hành, để
chuyển,tâm, chuyển nghiệp, và nhất là phải phát bồ đề tâm, ngoài ra không còn
cách nào khác.
KINH: Cũng vậy, đại bổ
tát phát tâm bồ đề vào biển sanh tử, những nghiệp phiền não không làm hại được,
giả sử vào trong pháp thiệt tế của Thanh Văn, Duyên Giác cũng chẳng bị họ làm
lưu ngại.
GIẢNG: Khi chúng ta đang
sống đây, đang tưởng mình làm “những chuyện lớn” với đầy tham vọng, chính là
đang bơi lội trong biển sanh tử mà không biết, vi bất cứ cái gì cũng có thể làm
ta sa đọa. Nhưng nếu ta có bồ đề tâm, một tâm thật thanh tịnh thì không một tai
họa nào có thể hại được, ngoại trừ những định nghiệp. Những nghiệp ấy, nhiều
khi chúng ta cũng phải trả, nhưng thay vì trả quả báo rất nặng thì nó sẽ chuyển
thành quả báo nhẹ hơn. Một thí dụ như vị vua Lưu Ly con của vua Ba Tư Nặc, mang
quân diệt tất cả dòng họ Thích Ca, giết mấy chục ngàn phụ nữ, đức Phật cũng
biết điều đó, và ngài Mục Kiền Liên muốn cứu mà không được .vì định nghiệp quá
kiên cố của dòng Thích Ca. Ngài Mục Kiền Liên cứu bằng cách để hết người của
dòng Thích Ca vào trong bình bát của mình đưa lên cõi trời, nhưng rồi khi mở
bình bát ra thì thấy các vị ở trong cũng bị chảy máu ra mà chết, đức Phật cũng
không cứu vì đó là để cho họ trả nghiệp cũ của họ. Nhưng về sau, có khoảng 2000
người phụ nữ dòng Thích Ca bị vua Lưu Ly chặt chân tay và bị chôn sống, (có
lẽ do túc duyên từ nhiều kiếp trước) đức Phật nhập từ tam muội để cứu tất
cả 2000 người ấy. Sau đó ít lâu, vua Lưu Ly bị quả báo khi vua đóng quân bên bờ
sông lớn, ban đêm thác lũ nổi dậy, cuốn trôi hết cả vua lẫn quân.
Nên nghiệp báo trước hết
là có hoa báo, tức là hiện đờl này phải chịu rồi, nếu kiếp này sát sanh nhiều
thì ngay đời này ta sẽ bị đau yếu bệnh tật luôn. Khi chết phải xuống địa ngục
thì gọi là quả báo, bị khổ không biết bao nhiêu kiếp, sau đó nghiệp báo đã dứt
thì được đầu thai trở lại làm người, nhưng bị tàn tật, què quặt, hoặc mới xinh
ra thân căn đã bị thiếu sót, như đui, què, ngọng, điếc v.v… thì gọi là dư báo.
Đó là những định nghiệp mà chúng sanh phải chịu, nhưng nếu tu hành khá thì
nghiệp ẽ được nhẹ bớt, quả báo cũng nhẹ hơn.
Còn bất định nghiệp là
những nghiệp nhẹ, bình thường, có thể chuyển hóa được nghiệp đó nếu chúng ta
biếtt tu hành, hoặc làm lành, tránh dữ. Nếu biết sám hối đến chảy máu mắt thì
nghiệp nặng cũng tiêu.
Trong kinh, có một đoạn
ngài Xá Lợi Phất hỏi đức Phật rằng, nếu một người nằm mộng giết người có tội
hay không? Phật trả lời, cái đó còn tùy tâm người ấy, vì khi tỉnh dậy, nếu còn
lấy làm đắc chí thì tội thêm nặng, ngược lại nếu sám hối ngay thì tội sẽ teo
lại. Nên trong kinh Đại Bát Niết Bàn nói rằng, trí lực biết về các nghiệp của
chúng sanh chỉ có Phật mới biết rõ, vì ngài có được ngũ nhãn. Nhưng người trí
có thể chuyển nghiệp lớn như núi Tu Di thành nhỏ như cây kim, còn người ngu thì
cũng có thể làm nghiệp nhỏ như cây kim biến thành nghiệp lớn như núi Tu di
được.
Tôi xin dừng nơi đây,
không biết có vị nào cần hỏi gì không?
HỎI: Thưa ông vừa dạỵ nên phát bồ đề tâm, xin ông cho những thí dụ
cụ thể vì có nhiều người thắc mắc không biết phát bồ đề tâm như thế nào. Có thể
họ sẽ hiểu rằng phát những thiện nghiệp như thương người, bố thí v.v… thì theo
tôi quan niệm, những việc làm thiện này chỉ là tâm phúc báo chứ không phải tâm
bồ đề, thuộc về phúc báo hữu lậu. Nên ông vừa giảng phải chuyển tâm, hoặc phát
tâm. Nhưng tôi lại trộm nhớ trong kinh Kim Cang có câu “Ưng vô sở trụ, nhi sanh
kỳ tâm” mà nhờ câu đó mà tổ Huệ Năng ngộ được dạo.
Vậy thì cái tâm không có
chỗ trụ thì làm sao phát được bồ đề tâm, vậy thì lấy cái gì để phát, lấy cái gì
để chuyển?
ĐÁP: Chúng ta cũng phải nhớ rằng tâm bồ đề có hai mặt, một
mặt là bát nhã, đi vào không. Một mặt là đại đại bi vào có, đi vào giả. Còn câu
“Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” trong kinh Kim Cang tức là chỉ nói đến mặt Bát
Nhã mà thôi. Muốn phát bồ đề tâm thì phải phát cả hai mặt rằng: “Xin được trí
huệ không tuệ (bát nhã), đồng thời cũng xin được lòng đại bi bình đẳng (đại
bi).” Không phải cho riêng mình, mà chỉ là để độ tất cả chúng sanh và xin tịnh
tất cả quốc độ. Cũng vậy, thường trong phần cuối của các buổi lễ vẫn có phần
“tứ hoằng thệ nguyện” mà chúng ta vẫn thường tụng: Chúng sanh vô biên
thề nguyện độ, phiền não vô tận thề nguyện đoạn, pháp môn vô lượng thề nguyện
học, phật đạo vô thượng thề nguyện thành. Chúng ta thường đọc tụng như
thế, nhưng phần đông chưa ý thức được rõ tầm sâu rộng ghê gớm của nó, nên khi
tụng niệm các vị sư thường khuyên chúng ta nên chuyên tâm là vì vậy.
Cách đây khoảng mười hai
năm, khi tôi còn ở nhờ trong một ngôi chùa nhỏ miền Seattle, lúc ấy, gần như
mỗi ngày tôi hay đắm mình trong những trang kinh, và nhiều khi hoang mang không
biết làm cách nào để phát bồ đề tâm bây giờ. Chúng ta làm gì có lòng đại từ bi
như chư Phật và chư Đại Bồ Tát, mà cũng không thể có trí huệ bát nhã, nên ngần
ngại, không dám phát bồ đề tâm. Một đêm nọ, tôi đọc được phẩm số 17 của kinh
Hoa Nghiêm về sơ phát tâm bồ đề, lúc bấy giờ tôi mới hiểu ra. Ở đời này, mình
nên phát bồ đề tâm như ta gieo một hạt lúa, sau sẽ mọc lên cây. Lúc bấy giờ
khoảng 11 giờ đêm, tôi ra chánh điện thắp nén hương và xin phát bồ đề tâm ngay.
Chúng ta đừng ngại rằng căn cơ hạn hẹp, chưa đủ để phát, vì chúng ta cần phải
gieo trồng hạt giống trước, sau mới mọc lên cây được, mà cây lá càng xum xuê
bao nhiêu thì bồ đề tâm càng tăng trưởng, trí huệ càng cao, lòng từ bi càng
bình đẳng.
Tất cả những chuyện
chúng ta làm, từ lúc mới đi tu cho đến khi thành Phật, bao nhiêu công đức đó,
nếu ta phát bồ đề tâm thì đã được một nửa rồi. Phát bồ đề tâm là “Đại thệ trang
nghiêm, cầu trí huệ thần thông, biết tất cả các pháp, để độ tất cả các chúng
sanh.” Nói tóm lại, chúng ta tự lập cho chúng ta một nguyện lớn (đại thệ) là độ
tất cả chúng sanh và trang nghiêm tất cả tịnh độ. Vì chư Phật buồn nhất là
chúng ta chỉ đi một phần ba đường, rồi ngừng lại, không chịu đi tiếp nữa. Vì
vậy, Phật lúc nào cũng khuyến cáo định tánh nhị thừa Thanh Văn, Duyên Giác, vì
các vị ấy cho như vậy là đủ rồi, và ngừng chân ở đó thôi.
HỎI: Nếu ông cho phép, tôi xin kể một vài câu chuyện điển hình mà
tôi biết rõ xảy ra có thật, một vài mẫu người có thể họ có tâm bồ đề và làm
phật sự trong đời này. Mục đích chỉ để gây thêm tín tâm và sự tinh tấn cho
người nghe mà thôi.
ĐÁP: Chúng tôi hoan hỉ muốn nghe, xin ông cứ kể.
HỎI: Trong đời tôi có quen một vài người rất lạ. Khoảng năm 1960,
ông ta đậu nha sĩ ở Sàigòn. Không biết đây có phải tâm này là tâm bồ đề của ông
không, ông không hề biết đến một quyển kinh, đọc một trang sách. Nhưng trong
con người ông thể hiện một sự từ bi rất cao. Sau khi đậu xong bằng nha sĩ,
không như những người khác, xêng xang quần chùng áo dài mở một phòng mạch thật
đẹp để kiếm tiền của, mà cứ mỗi thứ Bảy, Chủ nhật đến chùa Vĩnh Nghiêm, chữa
bệnh không công, còn những ngày thường thì mở một phòng mạch nhỏ ở nhà, ai có
tiền thì trả, không thì thôi. Đồng thời, ông nuôi rất nhiều dân bụi đời. Đến
ngày Sàigòn mất, ông được hội nha sĩ đưa qua Pháp, ông cũng tiếp tục hành nghề
bên ấy, và đồng thời cũng mở một quán ăn, tôi có hỏi ông rằng: Công việc của
anh đã bận như thế rồi, còn mở quán ăn làm gì nữa? Ông ta trả lời rằng, để cho
những người đói ăn. Sau hai năm thì kiệt, không còn đủ tiền tài và sức lực để
ôm đồm như thế nữa, ông bỏ sang Algérie mấy năm, kiếm thêm một mớ tiền về Pháp
lại mở quán ăn tiếp.
Một nhân vật thứ hai tôi
cũng may mắn được bỉết.
Tôi quen anh ta năm anh
21 tuổi, anh là một người rất đẹp trai, anh dạy toán trong một trường trung
học. Mới 21 tuổi mà đã đậu được bằng toán học đại cương (ngày đó mà đỗ được
bằng này là rất giỏi). Sau đó tự nhiên anh bỏ trường, không dạy nữa, không ai
biết lý do tại sao. Tình cờ sau này tôi gặp lại mới biết anh đi học thuốc của một
thầy lang địa phương cách đó khoảng năm chục cây số, đồng thời anh học thêm hán
văn. Chỉ cần học sáu tháng mà hán văn anh rất giỏi và thông suốt. Bẳng đi đến
năm 1958 tôi lại gặp anh ở Sàigòn thấy anh mặc một bộ quần áo bà ba trắng, đầu
cạo trọc, chân đi đôi dép rất thường. Tôi mừng rỡ hỏi anh đi đâu đấy? Tôi đi
bốc thuốc. Hiện giờ nhà anh ở đâu? Anh trả lời rất hồn nhiên vui vẻ, nhà tôi
bây giờ chỉ là một cái thuyền trên sông, mỗi năm về Sàigòn bốc thuốc hai lần,
rồi đi các vùng sông lạch để chữa bệnh cho những người nghèo. Được biết trước
đó anh đã qua Ấn tu được ba năm, sau đó mới về làm những hạnh chữa bệnh cho mọi
người.
Tóm lại, hai mẫu người
này, thực tình tôi thành tâm rất đáng kính phục, nếu trong đời này còn được
những người như thế cũng đáng khích lệ cho chúng ta tinh tấn phát bồ đề
tâm để tu hành lắm chứ!
ĐÁP: Những mẫu người như thế, theo tôi nghĩ chắc có lẽ
nhiều kiếp đã tu Bồ Tát đạo rồi, nên với dục lạc thế gian không còn bị thu hút,
đắm nhiễm nhiều nữa.
Thân tâm họ nhẹ nhàng,
không còn thô tháo trần trược như chúng ta, vì tôi thấy chúng ta chưa thể làm
được như họ. Nhưng cũng không phải thế mà chúng ta phát nản. Chúng ta vẫn có
thể trưởng dưỡng bồ đề tâm bằng những việc nhỏ, tùy theo tâm niệm mình làm, và
nhất là tùy theo khả năng hiện có của mình. Tỷ dụ như khi ra di đường, nhìn
thấy con giun nằm quằn quại trong nắng, ta chỉ cần nhón tay để nó vào trong
bóng mát với một tâm bình đẳng từ bi, hay gặp một con chim sắp chết, hoặc xuống
phố gặp kẻ tàn tật, đói kém thì giúp họ v.v… Đó cũng là những hành động tuy
không có gì có vẻ ghê gớm om sòm nhưng cũng trưởng dưỡng được bồ đề tâm rồi.
Nhưng phải làm bằng một hành động tự nhiên, bỗng động lòng thương xót. Ngược
lại, nếu chỉ vì muốn làm thế dể cho mình tăng thêm phước đức hay cầu gia đạo
được bình an thì tâm ấy cũng tốt, nhưng vẫn còn rất kém, chỉ gieo thêm căn lành
cho phước đức hữu lậu thôi (tức là vẫn còn ở trong tam giới). Tóm lại, điểm
quan trọng nhất vẫn là cái tâm mình tịch nhiên hoặc chấp trước như thế nào thì
sự dội lại của nó mạnh nhiều hay ít. Nói một cách dễ hiểu, những gì chúng ta
làm khiến cho tâm rộng ra, phá bỏ ranh giới tự và tha thì đó là trưởng dưỡng
tâm bồ đề.
HỎI: Thưa, ông nói chữ “chuyển tâm” và chữ “phát tâm” thì hai cái
đó giống nhau hay khác nhau?
ĐÁP: Phát tâm là chúng ta quyết tâm lập đại thệ trang nghiêm
như vậy. Còn chuyển tâm là sám hối, hay suy nghĩ những lời dạy trong kinh, dùng
con mắt trí huệ chiếu soi để thấy tất cả tánh không của mọi vật, hoặc tăng tâm
từ bi v.v… để sửa đổi lối nhìn và sử sự đều gọi là chuyển tâm cả. Thường là nên
phất tâm trước, sau mới tập đến chuyển tâm. Kinh Hoa Nghiêm có phẩm Ly Thế Gian
dạy ta chuyển tâm.
Không biết còn vị nào
muốn hỏi nữa không?
Vậy xin ngừng ở đây, hẹn
gặp quí vị kỳ sau.
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
Ngày 3 tháng 2 năm 1991
Hôm nay là buổi thuyết
giảng thứ 120 về kinh Hoa Nghiêm phẩm Nhập Pháp Giới.
Kinh Hoa Nghiêm chúng ta
có thể coi là một bộ kinh nói vồ diệu hữu, về vô số, vô lượng, còn kinh Đại Bát
Nhã chính là kinh của hư không, của Chân Không. Trong Đại Đại Nha, có nhiều
phẩm (khoảng bốn, năm phẩm) đức Phật nói về về thần lực của Bát Nhã. Tỷ
dụ như có người nào ngồi tụng Bát Nhã, mà đằng xa có một số người muốn đến làm
hại, khi tới gần rồi tự nhiên tâm ý thay đổi ma đi ra chỗ khác, không còn
muốn làm hại nữa. Vì người ngồi tụng kinh Bát Nhã thường có nhiều quỉ thần
hộ trì, như các vị Tứ Thiên Vương, Quỉ Thần Vương, La Sát Vương, Ma Hầu La Già
Vương v.v… Vị nào cũng hay phát nguyện hộ trì cho những người tụng kinh Đai Đát
Nhã hoặc kinh Đại Thừa.
Nay, xin trở về ngài
Thiện Tài, trong đoạn Bồ Đề Tâm.
Đoạn này, ngài Di Lặc
vẫn giảng tiếp về bồ đề tâm. Đoạn này rất hay và cần thiết, có đọc đi đọc lại
càng tốt, vì sẽ có rất nhiều công đức, vì nói thẳng vào cái tâm lớn nhất và kỳ
diệu.
KINH: Như có người giỏi
vào biển lớn, tất cả loài thủy tộc không làm hại được, giả sử vào miệng cá Ma
Kiệt cũng không bị cắn nuốt. Cũng vậy, đại Bồ Tát phát tâm bổ đề vào biển sanh
tử.
GIẢNG: Ngay chúng ta
đây, đã phát tâm bồ đề và cũng đang đi vào biển sanh tử. Tuy rằng chưa có gì
ghê gớm lắm nhưng chính chúng ta đang đi giữa biển sanh tử, và vẫn muốn mang
một thứ tâm muốn cải hóa biển sanh tử ấy.
KINH: Những nghiệp phiền
não không làm hại được, giả sử vào trong pháp thiệt tế của Thanh Văn, Duyên
Giác cũng chẳng bị họ làm lưu ngại.
GIẢNG: Ý đoạn này muốn
nói rằng, một người giỏi đi biển, hay giỏi về chú thuật, hoặc người có sức ủng
hộ của rồng khi đi vào biển không thể bị nạn, dù có bị cá Ma Kiệt cắn nuốt cũng
không chết. Cũng vậy, người phát bồ đề tâm các nghiệp phiền não không làm hại
được, và giả sử Bồ Tát mang bồ đề tâm đi vào pháp thiệt tế của hàng Thanh Văn,
Duyên Giác cũng không bị lưu nạn. Trong kinh Đại Bát Nhã, Phật luôn luôn lưu
tâm chúng ta đừng sa vào hàng Thanh Văn, Duyên Giác, vì các vị chỉ chứng được
cái “Không” thôi, mà trong đạo Phật nói đó chỉ là cái “thiên Không,” (một
cái Không bị thiên lệch), chứ không phải là rốt ráo Không, là Chân Không, (cũng
được gọi là Chân Như). Trong Không định ấy, các vị Thanh Văn, Duyên
Giác hưởng thú trầm không thú tịch, ngồi lâng lâng trong định mà không chịu tu
lên, không chịu độ sanh, nên trong kinh nói khi một vị có bồ đề tâm thì không
lạc vào hàng Thanh Văn, Duyên Giác nữa, vì đó là tâm cứu độ, không phải tâm tự
lợi.
KINH: Như có người được
thuốc an-thiện-na dùng thoa lên đôi mắt dù di trong nhân gian mà không ai ngó
thấy. Cũng vậy, đại Bồ Tát dùng bồ đề tâm, có thể dùng thiện phương tiện nhập
cảnh giới ma, nhưng tất cả chúng ma không thấy được.
GIẢNG: Trong Pháp giới này
rất kỳ diệu, vì nó biến ảo khôn lường, nó có rất nhiều thứ thuốc kỳ dị mà chúng
ta không có túc duyên gặp được. Cũng thế, đại Bồ Tát dùng bồ đề tâm dù có đi
vào động La Sát, chúng có muốn ăn thịt cũng không thể được. Một là các vị quỉ
thần tác động vào tâm thức của quỉ La Sát để họ tự nhiên khởi tâm từ bi, bỏ tâm
ác mà đi chỗ khác. Hai là Bồ Tạt dùng tâm bồ đề che mắt khiến La Sát không nhìn
thấy được Ngài. Như tôi vẫn nói ở ban kinh này, người tu như-huyễn-tam- ma-đề,
lên đến mức độ khá, khi đến hạn phải chết, tử thần đến tìm hồn để bắt cũng
không nhìn thấy được. Đó là điều mà, nếu ta suy tư lâu ngày, sẽ thấy không có
gì gọi là hoang đường cả.
Nhân đây, tôi muốn nhắc
một điểm giữa sự thật và huyền thoại hoang đường. Tất cả những điều trong kinh
nói đều là sự thật, nhưng người đời không tin vì họ trụ ở một bình diện tâm
thức khác. Khi tâm thức còn thấp, còn thô kệch, không nhìn thấy được, nên không
thể tin được. Nhưng khi tâm thức lên mức độ cao hơn, vi tế hơn thì lúc đó tất
cả những gì kinh nói đều thấy là đúng, và trái lại, lúc đó nếu quay lại nhìn ở
bình diện thô kệch này thì thấy cảnh giới trần gian này, (như người, xe cộ,
nhà lầu v.v…) đều là mộng ảo, chỉ còn là một mớ hào quang chập chùng, ẩn
hiện. Sự thật và hoang đường chỉ khác nhau ở chỗ đó, ở mức độ tâm thức mà thôi.
KINH: Như Thiên Đế Thích
cầm chầy Kim Cang đánh dẹp tất cả chúng A Tu La. Cũng vậy, đại Bồ Tát cầm giữ
tâm bồ dề xô dẹp tất cả những ma ngoại đạo.
GIẢNG: Nếu ta mang tâm
bồ đề đi bất cứ đâu, dù chúng ta chưa có thần thông thì các vị quỉ thần cũng
phải gìn giữ cho chúng ta. Như ngài Đế Thích, đôi khi đánh nhau với A Tu La
đuối quá, ngài tụng “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa” thì tự nhiên A Tu La phải
chạy. Nhưng phải tụng đến mức nào đó tương ưng thì mới được, hay là những người
trong xứ đều cùng đọc tụng thì mới hiệu lực.
Ở trên trời, A Tu La là
một loài rất hiếu chiến và có nhiều thần thông, hay khiêu chiến với chưThiên
cõi dục, nhưng trên ấy đánh nhau có một cái lạ là người không bị chết, vì sắc
ấm dệt bằng một hào quang vi diệu hơn sắc ấm của người nhân thế, chỉ có sự đánh
đập và chạy đuổi thôi.
KINH: Như có người uống
thuốc diên mạng…
GIẢNG: Diên mạng là kéo
dài sự sống…
KINH: Thời mãi mãi được
tráng kiện chẳng già, chẳng ốm. Cũng vậy, đại Bồ Tát uống bồ dề tâm thời
trong vô số kiếp thật hành bồ tát hạnh không nhàm mỏi, cũng không nhiễm trước.
GIẢNG: Đoạn kinh này,
nhắc lại rằng bồ đề tâm là phương thức cho người nào muốn sống lâu, kéo dài thọ
mạng của mình. Bên Mật Tông có một ngôi sao gọi là Bắc Đẩu Thất Tinh Diên Mạng
Bồ Tát, nếu ai muốn sống lâu, nên cầu vị đó thì mạng sống có thể được kéo dài.
Nhưng trong Hoa Nghiêm không nói đến những điều đó, vì đó là cầu những lợi
thấp, mà nói ngay đến bồ đề tâm là cách thức cao nhất, nhưng cũng khó nhất đề
có thể trụ thọ mạng, có thể vô số kiếp thật hành bồ tát đạo không nhàm mỏi,
cũng không nhiễm trước, chúng ta đang tập tễnh đi trên con đường bồ tát đạo,
đôi khi cảm thấy nhàm chán, nhọc mỏi, và nhiều khi phiền não vẫn còn bời bời,
vì bồ đề tâm của chúng ta còn lắt lay, kém cỏi, khi có, khi không. Ngược lại,
các vị đại Bồ Tát tâm bồ đề vững chắc, nên không bao giờ cảm thấy nhàm mỏi.
KINH: Như người giữ gìn
thân thể, thời trước hết phải gìn giữ mạng căn. Cũng vậy, đại Bồ Tát hộ trì
phật pháp thời phải hộ trì bồ đề tâm trước.
GIẢNG: Một người khôn
ngoan, muốn giữ gìn thân thể thời phải giữ mạng căn. Rất tiếc, trong kinh không
nói rõ mạng căn ở đâu cả. Nhưng theo sách thuốc ta thì có lẽ mạng căn ở chỗ
Mệnh Môn giữa hai quả thận, nhưng không biết có đúng không. Người khéo giữ gìn
mạng căn thì được sống lâu, cũng vậy, đại Bồ Tát giữ gìn bồ đề tâm có thể theo
nguyện của mình mà trụ thọ mạng.
KINH: Như người nếu mạng
căn dứt thời không thể làm lợi ích cho cha mẹ tôn thân. Cũng vậy, đại Bồ Tát
nếu xả bỏ bồ đề tâm thời không thể làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, không thể
thành tựu phật công đức.
GIẢNG: Nếu người tu hành
xả bỏ bồ đề tâm đi thì sau chỉ còn được phước đức thường thôi, không làm được
công đức lớn nữa. Công đức là cái đức ăn sâu vào tâm.
KINH: Như đại hải không
ai làm hư hoại được. Cũng vậy, những nghiệp hoặc và tâm nhị thừa chẳng thể làm
hư hoại được.
GIẢNG: Biển lớn kia có
ai làm hư hại được nó? Cũng vậy, người có bồ đề tâm thì những nghiệp hoặc và
tâm nhị thừa chẳng thể làm hư hoại được. Tâm nhị thừa là tâm chỉ nghĩ đến tự
giải thoát cho mình thôi.
KINH: Như Vương Tử dầu
chưa được tự tại nơi tất cả các quan, nhưng đã đủ vương Tướng nên chẳng đồng
với tất cả các quan.
GIẢNG: Tuy rằng vị Vương
Tử còn ít tuổi, kiến thức ở đời không bằng các vị quan, nhưng vì dòng dõi tôn
thắng nên chẳng đồng với tất cả các quan.
KINH: Cũng vậy, đại Bồ
Tát dầu chưa được tư tại trong tất cả nghiệp hoặc, nhưng đã đủ tướng bồ đề nên
chẳng đồng với tất cả hàng nhị thừa, vì là chủng tánh Phật đệ nhất.
GIẢNG: Chưa được tự tại
có nghĩa là chưa đủ trí huệ để xét soi như thế nào và đây là nghiệp hoặc gì.
Tôi vẫn thường nói ở đây, nếu so sánh một vị sơ phát tâm bồ tát và một vị A La
Hán thì về định lực và giới lực của Bồ Tát sơ phát tâm cũng giống như con đom
đóm mà các vị A La Hán như mặt trời vậy, nhưng về huệ lực thì những vị sơ phát
tâm lại hơn hẳn. Vì các vị A La Hán không tin diệu tâm, không tin tâm biến
hóa và nhất là không tin rằng mình có thể độ sanh thành Phật được. Và Bồ Tát
khi có bồ đề tâm thì không bao giờ còn bị rơi vào hàng nhị thừa nữa.
KINH: Như có thuốc được
chú lực gia trì, nếu ai được thấy nghe cùng ở chung, thời tiêu
diệt được tất cả bệnh. Cũng vậy, bồ đề tâm của đại Bồ Tát được tất cả thiện
căn, trí huệ, phương tiện, nguyện, trí, đồng nhiếp trì, nếu có chúng sanh thấy,
nghe, ở chung, ghi nhớ thời tất cả bệnh phiền não đều trừ diệt.
GIẢNG: Sỡ .dĩ chúng ta
còn mang bệnh là vì chúng ta chưa đủ thiện căn và trí huệ. Nhưng nếu thiện căn
lên cao, trí huệ thông suốt thì bệnh như đám mây nổi tự nhiên tan biến. Cũng
như một người ngồi thiền khi thúc liễm thần thức rút lên thọ ấm, qua tưởng ấm
mà bỏ rơi các sắc ấm thì bệnh không móc vào thân được. Nhưng khốn nỗi, chúng ta
chưa làm được điều ấy, nên cứ phải chịu cảnh bệnh tật, khổ đau.
KINH: Như có người uống
nước cam lồ, thân người này chẳng biến chẳng hoại. Cũng vậy, nếu đại Bồ Tát ghi
nhớ gìn giữ bồ đề tâm thời thân nguyện trí rốt ráo chẳng hụi.
GIẢNG: Khi bồ đề tâm của
đại bồ tát lớn rộng gần bằng pháp giới thì trụ thân mạng này bao iâu cũng được.
KINH: Như người máy bằng
gỗ, nếu không có chốt thời ly tán chẳng vận động được. Cũng vậy, đại Bồ Tát nếu
không bồ đề tâm thời công hạnh phân tán chẳng thể thành tựu tất cả phật pháp.
Như Chuyển Luân vương có trầm hương bửu tên là Tượng Tạng, nếu đốt hương này
thời bốn binh chủng của Luân vương đều bay lên không trung. Cũng vậy, đại Bồ
Tát có bồ đề tâm, nếu phát tâm này thời tất cả thiện căn của Bồ Tát thoát hẳn tam
giới đi trong trí vô vi của Như Lal.
GIẢNG: Chuyển Luân Vương
thường có bảy bửu (bảy thứ quí giá nhất), trong đó hương bửu là một
trong bảy bửu của vua Chuyển Luân. Khi vua Chuyển Luân muốn đánh dẹp châu khác
thì ngài đốt hương tượng tạng này, tự nhiên cả người lẫn xe cùng tất cả bốn
binh chủng đều bay lên hư không, sang châu nào vua muốn đánh dẹp. Cũng vậy, khi
đại Bồ Tát có bồ đề tâm và làm cho tăng trưởng nẩy nở thì tất cả thiện căn của
Bồ Tát đương là hữu lậu trong tam giới, trở thành thăng hoa vô lậu ra ngoài tam
giới, đồng thời những thiện căn ấy đi trong trí vô vi của Như Lai, tức là nhập
vào trí của Như Lai. Tôi cũng xin nhắc lại, kinh luôn luôn có nghĩa bóng và
nghĩa thực, không bao giờ chỉ nói với một nghĩa tượng trưng. Nghĩa bóng là nói
tâm thức vị Bồ Tát có bồ đề tâm lên cao vào trong trí vô vi của Chư Phật. Còn
nghĩa thực là thực tình ở ngoài Vua Chuyển Luân khi đốt hương tượng tạng, có
thể mang cả xe cộ, thân xác cùng quần thần bay lên hư không được. Đó là sự
tương quan giữa trong và ngoài, giữa y báo và chánh báo, giữ thực và hư.
KINH: Như chất kim cang
chỉ sản xuất từ mỏ kim cang hoặc mỏ vàng, chẳng phải sản xuất từ mỏ báu khác.
GIẢNG: Kim cang chỉ có
thể sanh từ mỏ kim cang, tức từ mỏ đá thành kim cang, sau khi bị sức ép của lửa
trong lòng đất lên đến một mức độ nào thì nó thành kim cang. Mỏ vàng cũng vậy,
nếu sức nóng dưới lòng đất mạnh quá thì một số vàng có thể chuyển thành kim
cang, còn những mỏ báu khác có lẽ không thể chuyển thành kim cang được.
KINH: Cũng vậy, bồ đề
tâm của đại Bồ Tát chỉ phát sanh từ lòng đại bi cứu hộ chúng sanh, và từ cảnh
giới thù thắng nhất thiết chủng trí, chẳng phải xuất sanh từ những thiện căn
khác.
GIẢNG: Bồ đề tâm chỉ
xuất sanh từ lòng đại bi, cùng với lòng cầu nhất thiết chủng trí (trí huệ
bát nhã). Vì bồ đề tâm chính là bát nhã và đại bi, chỉ có hai tâm sở đó là
cốt thiết của bồ đề tâm thôi.
KINH: Như cây vô căn
chẳng có rễ mà nhánh, lá, bông, trái đều xum xuê.
GIẢNG: Trong kinh nói
nhiều thứ thật lạ, chẳng cần phải nghĩ đâu xa, chỉ nói đến những loại cây mà từ
xưa tới nay chưa ai hề nghe thấy, như cây vô căn chẳng hạn, không có rễ, không
biết nó mọc như thế nào? mọc dưới đất hay lơ lửng trên không? nhưng tuy nó
không có rễ, không bám hay nương tựa vào đâu, có thể chỉ nương vào hư không
thôi, mà cành lá xum xuê, mà nó có thực đấy nhé! không phải chỉ có nghĩa tưởng
tượng đâu. Còn nghĩa bóng của nó chính là tâm. Bồ tát phát bồ đề tâm tức là
giống cây trên hư không, không dùng nước tưới bón, không dùng ánh sáng mặt trời
để tăng trưởng mà chỉ tưới bón bằng lực tâm của mình thôi. Nương vào tâm lực vô
trụ ấy, khi cây bồ đề tâm vững mạnh thì nó nở hoa, lá, cành trùm khắp pháp
giới. Tuy gọi là vô căn, nhưng nó có tất cả các căn, vì tâm ở chu biến mọi nơi.
Trong Phật pháp cần nhớ một điều này, khi nói đến vô trụ, tức là trở thành vô
lượng trụ, còn khi có một vài trụ thì là hữu trụ (trụ trong một giới hạn nào
đó).
KINH: Cũng vậy, bổ đề
tâm của đại Bồ Tát vốn không căn vô sở đắc mà có thể trưởng dưỡng nhất thiết
chủng trí thần thông đại nguyện che mát khắp thế gian.
GIẢNG: Càng vô sở đắc
bao nhiêu càng trưởng dưỡng nhất thiết chủng trí, để có thần thông đại nguyện
che mát khắp tất cả pháp giới. Nên khi ta làm một việc thiện càng vô hình
tướng, vô trụ, càng ít người biết bao nhiêu, quỉ thần sẽ biết nhiều ngần ấy và
thiện căn càng lớn. Tóm lậi, chớ nên khoe khoang điều thiện gì đã làm, vì khoe
là hỏng lắm, vì càng khoe khoang, càng nói nhiều, công đức càng teo nhỏ lại.
KINH: Như chất kim cang
chẳng phải chậu xấu, chậu bể đựng được, chỉ trừ chậu lành thật tốt.
GIẢNG: Không có văn
chương nào trong kinh hay bằng đoạn này, ngài nói tất cả những kỳ bí, kỳ diệu
của pháp giới khắp đều được phơi bày rất rõ. Kim cang là chất bồ đề tâm, phải
là pháp khí tốt lắm mới có thể chứa đựng được bồ đề tâm ấy.
KINH: Cũng vậy, những
chúng sanh hạ liệt tham, sân, phá giới, giải đãi, vọng niệm, vô trí, không thể
chứa đựng bồ đề tâm, chỉ trừ Bồ Tát thâm tâm.
GIẢNG: Nếu trong tâm còn
nhiều hoặc lậu, nhiều tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến v.v… thì không thể chứa
được bồ đề tâm, nếu có phát thì sau cũng bị rỉ lậu tiêu mất, nhưng cũng có thể
phát lại. Trái lại, nếu bồ tát có thâm tâm, tức là tâm không tham sân si rĩ lậu
thì chứa đựng bồ đệ tâm như chậu tốt đựng kim cang vậy.
KINH: Như kim cang có
thể soi lủng các chất báu khác. Cũng vậy, bồ đề tâm có thể xuyên thấu tất cả
pháp bảo.
GIẢNG: Nói một cách dễ
hiểu, bồ đề tâm có thể xuyên qua tất cả các nghiệp lậu của chúng ta cũng như
kim cang cắt được tất cả những vật cứng vậy.
KINH: Như kim cang có
thể làm hoại tất cả các hòn núi. Cũng vậy, bồ đề tâm có thể phá vỡ nhữhg
núi tà kiến.
GIẢNG: Tất cả những tà
kiến từ xưa của chúng ta, khi phát bồ đề tâm dần dần những tà kiến bị tiêụ dung
hết.
KINH: Như kim cang dầu
đã bể nhưg các thứ báu khác vẫn không bằng. Cũng vậy, bồ đề tâm vì chí liệt mà
có chút suy tổn, nhưng vẫn còn hơn tất cả công đức của hàng nhị thừa.
GIẢNG: Bồ Tát sơ phát
tâm khi phát bồ đề tâm rồi, nếu có hành trì kém sút hoặc giải đãi không được
đến mức ba la mật, nhưng công đức vẫn hơn hẳn hàng nhị thừa.
KINH: Như kim cang chẳng
phải người phàm có được. Cũng vậy, chẳng phải những chúng sanh ý liệt mà có
được bồ đề tâm.
GIẢNG: Dụ như một người
chuyên cho vay lời cắt cổ, hay một người bán hàng hay nói điêu ngoa ngoài chợ, những
hạng người đó đều thuộc hàng ý liệt, không thể nào có bồ đề tâm được.
KINH: Như kim cang, nếu
là người chẳng biết rành chất báu thời không biết được công năng tác dụng của
nó. Cũng vậy, người chẳng biết chánh pháp thời không biết được công năng tác dụng
của bồ đề tâm. Như kim cang không gì làm tiêu diệt được. Cũng vậy, tất cả pháp
không thể tiêu diệt được bổ đề tâm.
GIẢNG: Chúng ta chỉ có
chút bồ đề tâm thôi, sau vì cớ nào đó, có thể quên đi để nó
suy tổn, nhưng nếu thực chúng ta có phát bồ đề tâm, thì bồ đề tâm ấy vẫn tồn
tại và sau này vẫn có thể nuôi dưỡng trở lại được. Nên ngài Di Lặc luôn luôn ví
bồ đề tâm như kim cang, vì kim cang không gì có thể tổn hại được.
KINH: Như chày kim cang,
những người có sức khỏe đều không cầm được, chỉ trừ người có sức
đại-na-la-diên. Cũng vậy, bồ đề tâm, tất cả hàng nhị thừa đều không Cầm giữ
được, chỉ trừ Bồ Tát có thiện lực kiên cố nhơn duyên quảng đại. Như kim cang,
chỉ trừ đất kim cang, những chỗ khác không thể giữ chịu được. Cũng vậy, Thanh
Văn, Duyên Giác đều không thể giữ chịu được bồ đề tâm, chỉ trừ người xu hướng
Phật trí.
GIẢNG: Một vị A La Hán
còn chưa mang nổi bồ đề tâm ấy, chỉ trừ người nào cầu nhất thiết chủng trí và
lòng đại bi bình đẳng để có thể độ hết tất cả chúng sanh.
KINH: Như kim cang tế có
thể giữ vững đại địa. Cũng vậy, bồ đề tâm có thể giữ vững hạnh nguyện bồ
tát chẳng sa vào tam giới.
GIẢNG: Khoa học chưa
biết, nhưng tuệ giác của nhà phật thì biết rằng trái đất này lưng lững, vững
vàng không bị tan hoại vì dưới đất có một lớp gọi là lớp kim cang tế, gần chỗ
của vua Diêm Vương. Lớp kim cang tế này rất cứng, có lẽ là do tất cả sức ép và
sức nóng trong lòng trái đất, nó là cái cốt giữ trái đất này vững. Bồ đề tâm
cũng thế, như lớp kim cang tế giữ chúng sanh đi trên con đường bồ tát đạo.
KINH: Như trên tòa kim
cang trong Đại Thiên thế giới có thể giữ vững chư Phật ngồi đạo tràng, hàng ma,
thành đạo Vô Thượng Chánh Giác, tất cả những tòa khác không kham được.
GIẢNG: Bất cứ vị Phật
nào cũng vậy, thị hiện thành Phật dưới nhân thế, sau khi tu khổ hạnh, rồi tắm ở
sông Ni Liên Thuyền, bước lên chỗ ngồi ở bồ đề đạo tràng, phát thệ chỉ xuống
đất nói rằng: “Tơi sẽ ngồi đây không đứng lên nữa cho đến khi nào thành
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.” Rồi tự nhiên có người đến rải cỏ cho
ngài ngồi, khoảng đất ở đó đều biến thành kim cang, để có sức chịu đựng một bậc
Thế Tôn ngồi mà không bị tan vỡ, không những quán chiếu thành Vô Thượng Bồ đề
còn phải hàng ma nữa, nên đất ở đó phải cứng ghê gớm như kim cang vậy, tất cả
các tòa khác không thể kham được.
KINH: Cũng vậy, bồ đề
tâm có thể giữ vững tất cả hạnh nguyện, các môn ba la mật, các nhẫn, các địa,
hồi hướng, thọ ký, tu tập pháp bồ đề trợ đạo, cúng dường chư Phật, nghe pháp
thọ hành của Bồ Tát, tất cả tâm khác không có công năng này.
GIẢNG: Bồ đề tâm tương
tự như tòa kim cang, khiến cho vị Bồ Tát giữ vững những hạnh nguyện, đồng thời
đạt được các môn ba la mật, cùng đạt được các nhẫn, Trong kinh Hoa Nghiêm có
nói đến thập nhẫn: âm thanh nhẫn, như hưởng nhẫn, như diệm nhẫn, như hóa nhẫn,
như hư không nhẫn v.v…, và các địa (từ sơ địa đến đệ thập địa), ngồi
trên đó để hồi hướng, rồi để phóng hào quang thọ ký cho những vị tu hành, và tu
tập 37 phẩm trợ đạo, cúng dường chư Phật, nghe pháp thọ hành của Bồ Tát mà tất
cả những tâm khác không thể có những công năng này. Chỉ có tâm bồ đề mới đủ sức
rộng, đủ sức sáng, đủ sức bền vững như kim cang để chứa đựng những biển công
hạnh ấy.
KINH: Này thiện nam tử,
bồ đề tâm thành tựu vô lượng vô biên nhẫn đến bất khả thuyết, bất khả thuyết
công đức thù thắng. Nếu có chúng sanh phát tâm vô thượng bồ đề thời được công
đức thù thắng như vậy. Vì thế nên ngươi (là ngài Thiện Tài) đã được lợi lành lớn,
vì ngươi đã phát tâm vô thượng bồ đề cầu bồ tát hạnh, đã được công đức lớn như
vậy.
GIẢNG: Tóm lại ngài Di
Lặc nói lên công đức bất khả thuyết của bồ đề tâm, vì thế nên ngài mới ngợi
khen.
KINH: Này thiện nam tử,
ngươi hỏi Bồ Tát thế nào học bồ tát hạnh, thế nào tu bồ tát đạo. Ngươi nên vào
trong lâu các Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm này, ngươi quán sát khắp nơi thời
có thể biết rõ học bồ tát hạnh, học rồi thời thành tựu vô lượng công đức.
GIẢNG: Sau khi nói về
công đức của bồ đề tâm cho Thiện Tài nghe, ngài bảo Thiện Tài nếu muốn biết thế
nào học bồ tát hạnh, tu bồ tát đạo thì hãy vào Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm
lâu các này. Ý ngài muốn nói rằng hãy đi vào Bạch Tịnh Thức của ngài, vì bạch
tịnh thức ấy cũng ánh ra thành pháp giới và trong pháp giới ấy vẫn còn lại tất
cả những hình ảnh về sự tu học của ngài và của vô lượng đại Bồ Tát khác từ xưa
đến giờ.
KINH: Thiện Tài đồng tử
cung kính hữu nhiễu Di Lặc Bồ Tát, rồi thưa rằng: “Xin Đại Thánh
mở cửa lâu các cho tôi được vào.” Lúc ấy Di Lặc Bồ Tát đến trước cửa
lâu các đàn chỉ ra tiếng, cửa liền mở. Bồ Tát bảo Thiện Tài vào.
GIẢNG: Đàn chỉ ra tiếng
là búng tay một cái, sự búng tay ấy cũng có nghĩa là ngài thúc liềm thần thức
đưa lên một bình diện trên, qua sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm, qua cột gút
của cái ngã, vào đến thức ấm sơ năng biến, rồi lặn sâu xuống đến bạch tịnh thức.
Đó cũng là một cách ngài dạy Thiện Tài quán, đồng thời ngài cũng gia trì cho
Thiện Tài để có thể vào được biển bạch tịnh thức đó, đồng thời nhập pháp giới.
Nói một cách khác, Thiện Tài được ngài Di Lặc gia trì để nhập vào được pháp
giới. Trong suốt các vị thiện tri thức mà Thiện Tài đã đi qua, nhất là sau ngài
Bất Động Ưu Bà Di, hay ngài Ma Gia Phu Nhơn v.v… các ngài điều gia trì cho
Thiện Tài nhập pháp giới cả, nhưng những vị trước gia trì còn nông hơn, đến khi
gặp ngài Di Lặc thì mới lặn được sâu gần đến đáy, rồi đến ngài Phổ Hiền lúc đó
Thiện Tài mới được nhập pháp giới trọn vẹn.
KINH: Thiện Tài rất hoan
hỉ đi vào trong lâu các, cửa liền đóng lại. Thiện Tài thấy trong lâu các rộng
vô lượng đồng như hư không…
GIẢNG: Bắt đâu từ đây
kinh tả pháp giới, đồng thời cũng tả bạch tịnh thức của ngài Di Lặc. Trước hết
kinh tả y báo sau đó mới tả đến chánh báo.
KINH: Vô số chất báu làm
đất, vô số cung điện, vô số cửa cái, vô số cửa sổ, vô số thềm bậc, vô số lan
can, vô số đường xá, tất cả đều bằng thất bửu. Vô số tràng, vô số phan, vô số
lọng hàng liệt khắp nơi. Vô số chuỗi báu, vô số chuỗi
châu châu, vô số chuỗi xích châu châu, vô số chuỗi sư tử châu, thòng rũ khắp
nơi.
GIẢNG: Đoạn kinh này có
thể thử so sánh với hai chỗ, thứ nhất là ở Cực Lạc, thứ hai là
chỗ của ngài Ma Gia Phu Nhơn, xem chỗ nào đẹp hơn, thanh tịnh hơn, nói cách
khác là lặn sâu vào bạch tịnh thức hơn.
Vậy câu hỏi đặt ra là:
Nếu so với cảnh giới Cực Lạc, cảnh giới nào thanh tịnh hơn, đẹp đẽ hơn?
PHẬT TỬ 1: Theo tôi
thấy, có lẽ… có lẽ… thế giới Cực Lạc trang nghiêm hơn, vì ở nơi ấy, có đủ thứ
chim hót, cây, cỏ cũng đều nói pháp, và có vẻ… thích hơn.
PHẬT TỪ 2: Còn theo tôi
thì cả hai đều là.,, pháp giới cả, nên có lẽ… như nhau, không sai khác.
PHẬT TỬ 3: Tôi cũng đồng
ý cô phật tử vừa trả lời. Có nghĩa là như nhau, cho xong chuyện, nghĩ mãi, khó
quá, chẳng thể biết chắc được!
PHẬT TỬ 4: Theo tôi thì
tôi chỉ thích Cực Lạc, nên cũng không cần đặt vấn đề chỗ hơn kém.
ĐÁP: Ở đây, không phải
chúng ta so sánh để khen, chê chỗ nào hơn kém, mà chỉ là để hiểu mức độ nông
sâu, thanh tịnh như thế nào thôi, tàng thức của các ngài gần như trùm pháp giới
rồi, các ngài chỉ tùy duyên và nghiệp lực của chúng sanh đứng nhìn để hiện ra y
báo tương đương.
Để trả lời tất cả, theo
tôi nghĩ thì Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm của ngài Di Lặc sâu hơn. Vì sao ? Và
thế nào thì được vãng sanh Cực Lạc? Khi còn sống, nếu ta có thể quán được và đi
qua những tầng lớp của sắc ấm, thọ ấm, tựởng ấm, rồi đi qua hành ấm, vào đến bờ
mé của thức ấm. Hoặc lúc chết, do diễn trình tự nhiên của thần thức, giựt lên
phía trên, đi sâu vào đến bờ mé của thức ấm là tức là vào đến lớp hào quang của
Cực Lạc. Không phải vì thế mà đức Phật A Di Đà kém ngài Di Lặc Bồ Tát đâu, chỉ
vì ngài phải hiện thấp xuống thì chúng ta mới có cơ hội qua được, chứ cao quá,
thanh tịnh quá, mà chúng ta căn cơ lại cạn cợt, nghiệp chướng sầu dầy, thì có
thể nói, khó có thể được vãng sanh.
KINH: Vô số bán nguyệt,
vô số dải lụa, vô số lưới báu dùng để trang sức. Vô số lục lạc báu gió động
thành tiếng, rải vô số hoa trời đẹp, treo vô số tràng báu cõi trời, vô số lư
hương báu trang nghiêm, rưới vô số bột chân kim, treo vô số gương báu, trải vô
số y báu, giăng vô số trướng báu.
GIẢNG: Nếu ta giở kinh
Quán Vô Lượng Thọ để đọc lại chỉ thấy tả cảnh cây, ao báu, chim hót chứ không
dùng đến chữ “vổ số” như ở đây, thì chắc trong Tỳ Lô Giá Na Đại Lâu Các Trang
Nghiêm của ngài Di Lặc sâu hơn và mênh mang hơn.
KINH: Trần thiết vô số
tòa báu, vô số lụa báu trải trên tòa, vô số tượng đồng nữ bằng vàng diêm phù
đàn, vô số hình tượng bằng nhiều thứ báu…
GIẢNG: Sau khi kinh nói
vô số tràng phan báu, sau lại nói đến vô số tượng đồng nữ mà không nói đến
tượng đồng nam, qua mấy trang sau mới thấy nói đến tượng đồng nam. Ở điểm này,
tôi cũng chưa hiểu tại sao. Lời kinh thường mang theo một ý nghĩa nào đó, mà
căn cơ chúng ta hạn hẹp chưa hiểu nổi, chứ không bao giờ kinh nói lời hư vọng.
Như sau đây kinh kể có “vô số bản nguyệt…” Tại sao không nói
mãn nguyệt (trăng tròn đầy) mà chỉ nói bán nguyệt mà thôi? Tôi nghĩ mãi
cũng không hiểu nổi. Khó thực!
Buổi giảng hôm nay cũng
quá dài rồi, ai cũng mỏi mệt, tôi xin tạm dừng nơi đây, hẹn quí vị kỳ sau.
Xin cảm ơn quí vị.
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
BÍ ẨN
TUYỆT VỜI của Tuệ giác nhà Phật là: Pháp giới bên ngoài luôn luôn chuyển động
đổi dời, không phải vì pháp giới động, mà chính vì TÂM CỦA CHÚNG SANH ĐỘNG. Và
sự tu hành của hành giả chỉ là ngồi-lặng-ngắm-
nhìn-Tâm-của-mình-động-đậy…
LỜI DẪN
Như Lai thanh tịnh diệu
pháp thân
Tất cả ba cõi không gì sánh
Dầu không sở y mà ở khắp
Dầu đến tất cả mà không đi
Như vẽ không trung, cảnh trong mộng
Phải quán thân Phật là như vậy…
Đại hải Ma Ni vô lượng màu
Thân Phật sai khác cũng như vậy
NHƯ LAI PHI SẮC PHI PHI SẤC
Tùy nghi mà hiện không sở trụ…
Sát trần tâm niệm đếm
biết được
Nước trong đại hải uống hết được
Hư không lường được, gió buộc được
Không thể nói hết công đức Phật…
NẾU AI NGHE BIỂN CÔNG ĐỨC NÀY
MÀ SANH LÒNG VUI MỪNG TIN HIỂU
TẤT SẼ ĐƯỢC NHỮNG CÔNG ĐỨC NÀY
THẬN THỌNG CHỚ SANH LÒNG NGỜ VỰC…
(Đây là những lời kệ
cuối của ngài PHỔ HIỀN. Những câu kệ lạ lùng, bất khả ngôn thuyết. Không giải
nói được. Nói không được, nói không được… Chỉ đành rập đầu đảnh Iễ Kinh, và
đảnh lễ người dịch là HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ TỊNH
Trí Độ Tử TỊNH
LIÊN NGHIÊM XUÂN HỒNG.
Ngày 17 tháng 3 năm 1991
Kính thưa Thượng Tọa trụ
trì cùng chư vị đạo hữu…
Hôm nay là buổi thuyết
giảng thứ 123 về kinh Hoa Nghiêm và cũng là buổi thuyết giảng thứ 18 về Đại Bát
Nhã tại chùa này. Chúng ta hãy đi vào một vùng trời mát mẻ là cảnh giới của Hoa
Nghiêm, cũng là cuối con đường cầu đạo của ngài Thiện Tài. Cũng là vị mà chúng
ta có thể mơ tưởng đến được, có thể yêu mến, có thể trông thấy ngài, có thể cầu
mong trong mộng đến một kiếp nào đó ngài sẽ hiện ra để độ cho chúng ta. Vì thực
ra, giữa Chân Không và diệu hữu, tôi vẫn thiên về diệu hữu hơn.
Thú thực, trong những
pháp môn tu, riêng tôi, tôi vẫn thích pháp môn Diệu Hữu, và say mê thần thông
biến hóa. Còn về Chân Không và thế giới phi thần hóa hình như không quyến rũ
tôi lắm, giảng thì phải giảng cho đủ để quí vị có một kiến thức tổng quát về Chân
Không và Diệu Hữu thế nào thôi, còn thì tùy căn cơ của mỗi vị mỗi khác.
PHẬT TỬ: Chúng tôi là
những người từ xưa được học về tứ niệm xứ, tứ chánh cần, 37 phẩm trợ đạo v.v…
Nếu ông không chỉ cho biết về “cái Không” thì chúng tôi cứ ôm chặt mãi những
điều chúng tôi đã học, cho rằng những thứ đó là được lắm rồi. Nhưng đến khi qua
thời kỳ đọc tụng và giảng về Bát Nhã thì lúc đó mới ngộ ra. Ồ, như thế thì phải
bỏ những thứ đã học qua đi, đừng chấp vào ấy. Nhưng sang bên Không, xong lại
trở về Hữu. Đối với chúng tôi thật ích lợi lắm!
ĐÁP: Đó chính là bản
hoài của đức Phật, vì vậy, ngài mới phải để ra 22 năm giảng Bát Nhã, vì nó rât
khó hiểu, khó vào. Nay, xin đi vào Hoa Nghiêm…
KINH: Khắp nơi có vô số
tượng Bồ Tát bằng diệu bửu, vô số chim hót tiếng hòa nhã, vô số hoa sen
vàng báu, vô số hoa sen đỏ báu, vô số hoa sen trắng báu, dùng để trang nghiêm,
vô số cây báu thứ đệ hàng liệt, vô số ma ni bửu phóng đại quang minh. Lại thây
trong đó có vô lượng trăm ngàn lâu các đẹp đều nghiêm sức như trên. Mỗi mỗi lâu
các đều rộng rãi nghiêm lệ, đồng như hư không chẳng ngại nhau cũng chẳng tạp
loạn nhau.
GIẢNG: Đây là đoạn kinh
đầu tả về y báo. Thì tôi đã nói rằng, Thiện Tài đang đi vào Bạch Tịnh Thức của
một bậc Đẳng Giác Bồ Tát, nó ánh ra thành pháp giới này của ngài, nó gần đến
chỗ Chân Không rồi, nên rất thanh tịnh, vì vậy y báo rất đẹp, tráng lệ và rất
nhiều của báu, còn hơn cả cõi Cực Lạc nữa, vì ở cõi Cực Lạc chỉ là chớm bước
vào thức sơ năng biến thôi. Nếu ta trở lại vị thiện tri thức như ngài Ma Gia
Phu Nhơn thì ngài cũng làm cho Thiện Tài nhập pháp giới, nhưng pháp giới mà
ngài Ma Gia thị hiện chưa được thanh tịnh, tráng lệ như ở đây. Tôi xin đọc lại
một đoạn nhỏ khi Thiện Tài đến gặp ngài Ma Gia Phu Nhơn cho quí vị nghe…
KINH: Chung quanh bửu
tòa này lại có vô lượng bửu tòa. Ma Gia phu nhơn, hiện tịnh sắc thân ngồi trên
đại bửu tòa, những là sắc thân siêu tam giới vì đã thoát tất cả loài hữu lậu,
sắc thân tùy tâm sở thích, sắc thân cùng khắp, sắc thân không gì sánh bằng, sắc
thân vô biên tướng, sắc thân đối hiện khắp nơi, sắc thân giáo hóa tất cả vì tùy
nghi mà thị hiện…
GIẢNG: Khi Thiện Tài đến
gặp ngài Ma Gia thì chỉ loàn thấy sắc thân, thị hiện vô biên sắc thân thôi, nói
về chánh báo, chứ không nói đến y báo. Còn ở đây, Thiện Tài vào sâu hơn nữa, và
thấy cả y báo. Trong lâu các này hơn cõi Thiên Cung, hơn cảnh giới của ngài Ma
Gia. Đồng thời, nếu ta nhớ đến bát nhã thì phải hiểu pháp giới, tức lâu các này
của ngài Di Lặc vừa là Chân Không, vừa là vô lượng Diệu Hữu, tùy theo tâm
nguyện của mình, và trong lâu các này, thời gian và không gian đã bị gần như
hóa giải. Vì lúc đầu vào thì thấy vô lượng vô số châu báu, cửa ngõ, đền đài,
lan can v.v.., rất nhiều là vì trong tâm thức của bậc Đẳng Giác là đã thành tựu
vô lượng hạnh nguyện. Mỗi một nguyện, sau nó sẽ trở thành cung điện, thành trì,
những cửa sổ, lan can, tràng báu, phan báu, cùng các thứ đồ trang sức v.v..,
tất cả đều bằng thất bửu. Ngài Di Lặc trong thời kỳ làm hạnh Bồ Tát, ngài đã
khởi tâm Đại Bi, Bát Nhã rất nhiều, mà mỗi tâm niệm Đại Bi, Bát Nhã cùng những
hạnh nguyện sau này kết tụ lại thành những thứ thất bửu ấy. Còn tâm thức thô
kệch của chúng ta, cũng trong vô lượng kiếp, từ tham, sân, si, mạn, nghi, tà
kiến, chấp ngã v.v…, thì thành một y báo rất xấu xí với những thứ, hầm hố,
chông gai, và chịu nhiều sự đau khổ như bệnh tật, sinh, già, chết.
KINH: Thiện Tài ở một
chỗ thấy tất cả chỗ. Nơi tất cả chỗ đều thấy như vậy.
GIẢNG: “Ở một
chỗ thấy tất cả chỗ.” Là đã hóa giải được thời gian và không gian.
Nghe kinh nói vậy thì chúng ta phải chấp nhận vậy thôi, vì ta biết lời kinh
không thể hư vọng, chỉ vì sức tưởng tượng của chúng ta quá hạn hẹp nên không
thể hiểu nổi. Còn giải nghĩa thì chỉ có thể nói rằng, khi một hành giả vào đến
mức độ tâm thức đó, vọng tưởng không gian đã được hóa giải. Như trong kinh cũng
có nói, các vị Bồ Tát cao chỉ nhìn thôi mà thấy khắp tam thế, cả quá khứ, hiện
tại, vị lai, rõ rệt như trước mắt vậy, đó là vì thời gian đã được hóa giải rồi.
Ngược lại, chúng ta thường chỉ nhìn thấy một khúc của thời gian. Ngược lại,
trong giờ phút lâm chung, lúc đó thần thức chúng ta rút lên đến thức ấm, nên
thấy tất cả quãng đời như một cuốn phim chạy qua ngay trước mắt, từ những việc
thuở ấu thơ đến già đều hiện lên rõ mồn một không xót một chi tiết nào. Nên
biết, Khả năng tâm nhãn của chư Phật nhìn suốt tam thế, không phải chỉ hạn hẹp
một kiếp này mà tất cả các kiếp.
KINH: Thiện Tài thấy Lâu
Các Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng có bất tư nghì cảnh giới tự tại như vậy,
lòng rất vui mừng hớn hở vô lượng, thân tâm nhu nhuyễn…
GIẢNG: Khi nào một vị Bồ
Tát cảm thấy thân tâm nhu nhuyễn là lúc đó các ngài đã vào định rồi. Còn tâm
chúng ta lúc nào cũng thô tháo, cứng cỏi, không có định.
KINH: Rời tất cả tưởng…
GIẢNG: Rời tất cả tưởng
vì trong đạo Phật cho rằng những vọng tưởng phân biệt chính là nguyên nhân tạo
ra pháp giới này. Nên khi không còn những tâm tưởng ấy thì tất cả pháp giới
chung quanh đều không lưu ngại và lúc ấy chúng ta thấy các cõi thông suốt, có
thể nhìn từ đây đến cõi Cực Lạc mà không bị ngăn ngại gì.
KINH: Trừ tất cả chướng…
GIẢNG: Chướng là những
nghiệp che khuất khiến ta không nhìn thấy rõ. Đức Phật có ngũ nhãn là vì ngài
đã diệt sạch tất cả chướng.
KINH: Diệt tất cả hoặc…
GIẢNG: Hoặc là những lỗi
lầm. Thí dụ vật này không thật có, ta cho là thật có, đó là một cái hoặc, hay
nó chẳng phải đoạn, chẳng phải thường ta lại cho rằng đoạn, rằng thường. Có hai
thứ hoặc, kiến hoặc và tư hoặc. Kiến là nhìn sai lầm, như ta
thấy một vật, bèn chấp là có vật, sau lại lưu luyến hay ghét vật ấy, lâu dần
trở thành tư hoặc, đó là hai lớp mê hoặc rất kiên cố của chúng sanh, nhưng tư
hoặc thì đi sâu vào tâm thức hơn.
KINH: Chỗ thấy chẳng
quên, chỗ nghe đều nhớ, chỗ nghĩ chẳng tạp, chứng nhập môn vô ngại giải thoát,
vận dụng tâm cùng khắp, thấy cùng khắp, kính lễ cùng khắp.
GIẢNG: Khi tới mức tam
muội lớn như ngài Thiện Tài thì lúc bấy giờ tâm được vô ngại giải thoát, lúc đó
có ngũ nhãn, đủ các tam muội, có thể vận dụng tâm cùng khắp, nên thấy cùng
khắp. Nhưng tuy thây cùng khắp, đồng thời tâm vẫn kính lễ cùng khắp.
KINH: Vừa mới cúi đầu,
do thần lực của Di Lặc Bồ Tát, Thiện Tài tự thấy thân của mình ở khắp
trong tất cả lâu các, thấy đủ tất cả những cảnh giới tự tại bất tư nghì: Như là
thấy Di Lặc Bồ Tát lúc mới phát tâm tên hiệu như vậy, chủng tộc như vậy, thiện
hữu khai ngộ khiến gieo trồng căn lành như vậy, thọ mạng như vậy, ở kiếp như
vậy, gặp Phật tại quốc độ như vậy, tu hành như vậy, phát nguyện như vậy.
GIẢNG: Ở đây, kinh
bắt đầu tả sang đến chánh báo. Trong lâu các hiện tất cả bổn sự, bổn sanh, cùng
hạnh nguyện của Bồ Tát Di Lặc đã làm trong tất cả những kiếp trước, những việc
đó đều ở trong khắp pháp giới và trong tàng thức của ngài, vì vậy Thiện Tài mới
trông thấy một cách vô ngại, không bị không gian và thời gian che ngăn.
KINH: Hoặc thấy Di Lặc
Bồ Tát tối sơ chứng được từ tâm tam muội, từ đó đến nay hiệu là Từ Thị.
GIẢNG: Ngài Di Lặc
chuyên tu quán tâm từ, trong nhiều kiếp ngài đắc được từ tâm tam muội, nên
trong tàng thức hiện ra thế.
KINH: Hoặc thấy Di Lặc
Bồ Tát tu những diệu hạnh, thành mãn tất cả môn ba la mật. Hoặc thấy Di Lặc Bồ
Tát đắc nhẫn, trụ địa, thành tựu quốc độ thanh tịnh, làm đại Pháp Sư, được vô
sanh nhẫn.
GIẢNG: Trong đạo Phật
chúng ta nên để ý chữ “nhẫn.” Khi ta tu quán chiếu, thiền định, đến mức thấy
rằng tất cả các pháp từ người, vật, cây cỏ, núi sông v.v… đều là giả hợp, đều
là ảo, lúc ấy ta có thể nhẫn tất cả các pháp cho dù nóng, lạnh, đói, rét, hay
có những chúng sanh đến mắng chửi mà vẫn có thể nhẫn chịu được vì lúc đó ta đã
hiểu rõ tánh không và như huyễn của các pháp, như thế ta sẽ đến được mức độ gọi
là “vô sanh pháp nhẫn.” Rồi từ đó trở đi thì ghê gớm lắm, vì đó là Đệ Bát Địa,
tức Bất Động Địa, tức Biến Hóa Địa. Tất cả sự tu hành của chúng ta hôm nay chỉ
cầu đến được vô sanh pháp nhẫn ây thôi, vì được mức độ đó, ta sẽ có nhiều thứ
lạ lắm, có nhiều thứ mắt, nhiều thần thông, được một thứ thân gọi là “Pháp Thân
Bồ Tát.” Từ khi tu từ giờ lên đến đệ thất địa thì vẫn còn phải mang thân máu
thịt này, chỉ có một ít thần thông biến hóa thôi, mà độ sanh cũng không được
nhiều, vì vẫn còn nhục thân, vẫn còn phải chịu bệnh tật, nóng lạnh. Nhưng đến
bậc vô sanh pháp nhẫn thì dù có xuống nhân gian để độ sanh, tuy rằng phải gá
qua một người đàn bà, nhưng không phải thai sanh mà chính là hóa sanh. Lúc ấy,
thân Bồ Tát không còn bệnh tật nữa, máu trở thành trắng như sữa, và thân căn
trở nên thanh tịnh sáng suốt không còn thi trùng, các ngài có thể có rất nhiều
hóa thân để độ sanh. Sở dĩ máu chúng ta đỏ là do những chất hôi nhơ từ một thân
xác bất tịnh toàn thi trùng này mà có. Vì vậy, muốn thành tựu phật quả đầu tiên
phải tu được đến quả vô sanh pháp nhẫn, tức là đến bực bất thối chuyển, lúc ây
sẽ được Chư Phật thọ ký mà không có pháp nào dính được vào ta, tất cả pháp đều
nhẫn chịu được hết.
KINH: Hoặc thấy thời
gian ấy, tại xứ ấy, Đức Phật ấy thọ ký thành Phật cho Di Lặc Bồ Tát. Hoặc thấy
Di Lặc Bồ Tát làm Chuyển Luân Vương…
GIẢNG: Khi ngài Di Lặc
được thọ ký rồi, lúc bấy giờ ngài dùng thần thông xuống nhiều cõi để độ sanh,
như thọ sanh làm Chuyển Luân Vương.
KINH: Hoặc thấy Di Lặc
Bồ Tát làm Chuyển Luân vương khuyên các chúng sanh an trụ nơi thập thiện đạo.
GIẢNG: Vua Chuyển Luân
thường chỉ dạy chúng sanh tu thập thiện thôi, không dạy gì khác cả.
KINH: Hoặc thấy Di Lặc
Bồ Tát là Hộ Thế lợi ích chúng sanh.
GIẢNG: Hộ thế là những
vị Tứ Thiên Vương. Trên đảnh núi Tu Di có bốn vị Thiên Vương, các vị đó thường
coi các việc ở trần gian này nên gọi là “Hộ Thế Thiên Vương.” Nếu
dưới nhân thế có nhiều người ăn chay, giữ giới thì các ngài rất hoan hỉ, và các
ngài sẽ gia trì cho vùng ấy ít thiên tai, tật bệnh, mùa màng tốt tươi. Nhưng
nếu nhân gian toàn những kẻ phạm nhiều tội ác, như cướp bóc, hiếp dâm, không ăn
chay, giữ giới, thì các ngài rất buồn vì biết rằng chư thiên trên cõi trời sẽ
bớt dần đi, vì không có người thọ sanh lên trên ấy. Lúc đó các ngài sẽ phải
giáng những thiên tai, tật bệnh để cảnh tĩnh, đánh thức tâm thức chúng sanh vì
thế mà phát tâm tu hành, hay quay về con đường lành, tránh dữ (trong bộ
kinh Tứ Thiên Vương có nói kỹ về những điều này). Sau khi đắc vô sanh
pháp nhẫn rồi, ngài Di Lặc thị hiện làm Chuyển Luân Vương, Tứ Thiên Vương để
trông nom trần gian giúp chúng sanh tu hành.
KINH: Hoặc làm Đế Thích
quở trách ngũ dục.
GIẢNG: Trên những tầng
trời của cõi dục giới chúng ta, có tầng trời Đao Lợi, vị vua trên đó tên là Đế
Thích, ngài thường ngồi ở Thiện Pháp Đường giảng cho các thiên tử, thiên nữ
nghe phải tu thập thiện và bỏ những ngũ dục, vì trên đó sung sướng vô chừng,
suốt ngày không phải làm ăn gì cả, chỉ rong chơi, ca hát thôi. Trong vô lượng
kiếp, ngài Di Lặc làm tất cả những hạnh ấy.
KINH: Hoặc làm Dạ Ma
Thiên Vương tán dương hạnh bất phóng dật.
GIẢNG: Hoặc ngài thọ
sanh làm vị vua trong cõi trời Dạ Ma (cũng nằm trong tầng trời dục
giới), khen hạnh bất phóng dật, tâm không giải đãi, buông lung, lúc
nào cũng nhiếp tâm vào chân lý của kinh, và vào sự tu hành, giữ tâm không lay
động. Người phóng dật là người buông tâm chạy theo ngoại cảnh, tâm chúng ta là
tâm phóng dật vì cả ngày tâm ta buông lung, lúc thì chạy theo cái ăn, cái mặc,
điểm tô son phấn, hay vênh vang ngã mạn v.v.., chĩ chạy theo những trần cảnh
bên ngoài, mà không thu nhiếp nó vào trong, đó gọi là phóng dật.
KINH: Hoặc làm Đâu Suất
Thiên Vương khen ngợi công đức của Bồ Tát nhất sanh bổ xứ.
GIẢNG: Khi thì ngài thị
hiện làm vua cõi Đâu Suất. Cõi trời Đâu Suất gọi là cõi trời tri túc, (biết
đủ), không phóng dật, giữ tâm mình ngay thẳng. Khi làm Đâu Suất Thiên
Vương, ngài khen ngợi công đức của Bồ Tát nhất sanh bổ xứ, tức là vị Bồ Tát
xuống đó chờ cơ duyên chín mùi để xuống nhân gian thị hiện đản sanh, thành Phật
để độ sanh.
KINH: Hoặc làm Hóa Lạc
Thiên Vương, vì chưThiên chúng mà hiện những sự biến hóa trang nghiêm của chư
Bồ Tát.
GIẢNG: Cõi trời Hóa Lạc
là một cõi ở trên cõi trời Đâu Suất, cõi đó thần thông biến hóa khá nhiều, như
biến hóa ra cung điện, thức ăn, quần áo, đồ dùng v.v… nên ngài thị hiện những
sự biến hóa trang nghiêm của chư Bồ Tát.
KINH: Hoặc làm Tha Hóa
Tự Tại Thiên Vương vì chư thiên chúng mà diễn thuyết tất cả Phật pháp.
GIẢNG: Tha Hóa Tự Tại
Thiên là tầng trời ở trên tầng trời Hóa Lạc, tầng trời này cũng là tầng trời
ngự trị của Ma Vương.
KINH: Hoặc làm Ma vương
nói tất cả pháp thảy đều vô thường.
GIẢNG: Trong kinh, vị
trí của Ma Vương cũng rất biến ảo. Có những vị đại Bồ Tát thị hiện làm Ma Vương
trên cung trời Tha Hóa Tự Tại, nhiều khi xuống quấy phá người tu hành. Có khi
đó cũng là vị Ma Vương thật nhưng tâm thức lại thay đổi, đến nghe đức Phật
thuyết pháp, lại giúp người tu hành v.v.., tất cả chỉ là sự biến hóa, không cứ
nhất định cái gì là cái gì. Những loài ma dưới thấp thì có thể cố định hơn, vì
duyên theo nghiệp, còn Ma Vương, hay những vị Thiên Ma lớn nhiều khi các ngài
chỉ thị hiện để độ sanh, tùy duyên mà độ, có khi thị hiện phá phách, hoặc giúp
đỡ những người tu hành, để căn cơ chín mùi mà có thể thăng hoa. Ở đây,
ngài Di Lặc thọ sanh làm Ma Vương, nhưng không như những vị Ma Vương thường,
nghĩa là không phá người tu hành, không nói sai lạc ý kinh, ngược lại ngài dạy
cho chúng sanh biết tất cả pháp đều vô thường.
KINH: Hoặc làm Phạm
Vương chuyên nói chư thiền định có vô lượng hỉ lạc.
GIẢNG: Từ cung trời Tứ
Thiên Vương lên đến cung trời Tha Hóa Tự Tại thuộc về từng trời của dục giới.
Lên cao hơn là đến tầng trời của sắc giới, từ tầng trời này trở lên, chư thiên
chỉ chuyên thiền định. Ngài Di Lặc thị hiện vào tầng trời này, làm Phạm Vương
khuyến tấn thiên chúng tu thiền định có vô lượng hỉ lạc.
Tại sao những vị tu hành
có thể ở ba mươi năm trong rừng sâu mà không cảm thấy nhàm mỏi, cô đơn? suốt
ngày chỉ ăn một ít hoa quả, trái cây? Vì trong kinh dạy rằng, các ngài có một
nguồn hỉ lạc vô biên không thể nói được. Nếu so sánh với sự khoái lạc của trần
gian, như ăn uống, ngủ nghỉ, ngay cả đến cái khoái lạc của nam nữ cũng không
bằng một góc nhỏ bé của thiền lạc. Vì vậy, kinh Lăng Nghiêm dạy rằng, những vị
chư Thiên ờ những tầng trời trên cao cõi dục thấy sự khoái lạc
nam nữ vô vị như người ăn sáp vậy, và kinh cũng nói Niết Bàn là “thường,
lạc, ngã, tịnh” đó là điểm mà chúng ta nhớ rõ. Vì chúng ta giống như
những đứa cùng tử, chỉ ham những thú vui hạ liệt, thích đi hốt phân để kiếm
miếng ăn với nắm cơm thiu, nên chỉ thích đắm mình trong ngũ dục, giống như đám
nhặng xanh đắm mình trong đám phân nhơ. Nên phải biết chuyển tâm, rời bỏ thú
vui thô kệch của ngũ dục, ưa thích thú vui của thiền định, chuyển tâm đến một
mức độ tâm thức cao hơn.
Nên ngài Di Lặc thị hiện
là Phạm Vương để tuyên nói về chư thiền định có vô lượng hỉ lạc, vì lên đến đệ
nhị và đệ tam thiền thì sự hỉ lạc thật vô cùng, ngôn ngữ khó thể diễn tả nổi,
mà đó chỉ mới ở mức độ thấp thôi, chưa ăn thua gì với niềm vui của Niết Bàn.
KINH: Hoặc làm A Tu La
Vương vào biển đại trí rõ pháp như huyễn vì chúng A Tu La mà thường thuyết pháp
dứt trừ tất cả kiêu mạn ngạo nghễ.
GIẢNG: A Tu La Vương là
một vị vua vẫn còn nhiều sân hận, hay đánh nhau với vua Đế Thích ở tầng trời
Đao Lợi. Tuy nhiên, A Tu La Vương cũng có nhiều thần thông, hay kiêu mạn, hay
hiện thân to lớn, chân ngập sâu xuống biển, nước biển chỉ ngập đến đầu gối của
ngài, đầu cao đến đảnh núi Tu Di, hai tay dơ lên che khuất mặt trời, mặt trăng,
người nhân thế không nhìn thấy, nhưng các vị chư Thiên thấy rất rõ, thấy các vị
A Tu La lấy tay che mặt trời, mặt trăng không biết bao nhiêu lần trong một
ngày. Nên ngài Di Lặc thị hiện làm A Tu La Vương quán pháp như huyễn, đồng thời
cũng hay thuyết pháp lý như huyễn để tiêu dung những kiêu mạn của loài A Tu La.
KINH: Hoặc thấy Di Lặc
Bồ Tát ở xứ Diêm La cứu khổ địa ngục, hoặc thấy ở xứ ngạ quỉ bố thí đồ uống ăn
cứu sự đói khát, hoặc thấy ở đạo súc sanh dùng những phương tiện điều phục
chúng sanh.
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
Ngày 31 tháng 3 năm 1991
Hôm nay là buổi thuyết
giảng thứ 124 về kinh Hoa Nghiêm tại chùa này.
Trước khi đi vào phẩm
Nhập pháp giới cùng với ngài Thiện Tài, chúng tôi muốn nói một ít về Đại Bát
Nhã. Buổi giảng hôm nay có nhiều ý nghĩa quan hệ vậy xin quí vị cố lắng nghe.
Trong hành trình vào Bát
Nhã, thường có ba giai đoạn học về Đại Bát Nhã. Trước hết là văn tự bát nhã,
thứ nhì là giai đoạn quán chiếu bát nhã và thứ ba là giai đoạn thực chứng bát
nhã. Ngay cả về Hoa Nghiêm hay những kinh khác cũng thế, cũng có văn tự Hoa
Nghiêm, quán chiếu Hoa Nghiêm và cũng có thực chứng Hoa Nghiêm.
Ở đây, chúng ta đều là những người sơ học nên thường chỉ
nói đến văn tự bát nhã nhiều chứ chưa đến quán chiếu bát nhã được. Và sự mong
cầu của tôi chỉ là muốn cho quí vị làm quen với những danh từ bát nhã, hiểu ý
nghĩa những danh từ đó, để khi đọc kinh bát nhã không cảm thấy chới với, thì đó
tôi cũng lấy làm mãn nguyện lắm rồi. Còn quán chiếu là phải tự mình suy ngẫm,
và tự quán chiếu lấy.
Trong Bát Nhã có rất
nhiều danh từ, mà danh từ nào cũng khó cả, vì nó đều trừu tượng, và phải suy tư
lâu mới mong hiểu được đôi phần. Hôm nay, tôi xin nói về một số danh từ ấy, cho
quý vị thấy một số sắc thái khác nhau. Vì nhiều người hay phàn
nàn đọc kinh thường lạc vào một rừng danh từ, mà danh từ nào cũng mờ ảo, mịt
mùng, nên nhiều khi không hiểu sắc thái khác nhau chỗ nào.
Trong lần trước, tôi đã
trình bày những chữ như chữ không, rồi đến chữ vô, bất, phi, ly. Hôm nay lại
đến một số danh từ nữa, như danh từ “Như Như,” mà trong kinh
Hoa Nghiêm có một bài kệ rất hay mà tôi đã từng nhắc nhở:
Tất cả các pháp đều là
duyên khởi.
Tất cả các pháp đều như huyễn,
Tất cả các pháp đều Như Như.
Tất cả các pháp đều tịch tĩnh…
Đoạn kệ này, cho chúng
ta biết có bốn tầng lớp mức độ tâm thức, càng lên cao bao nhiêu thì càng vi tế
bấy nhiêu. Vì vậy, chúng ta cần phải hiểu rõ chữ Như là thế nào.
Nhưng trong Phật pháp, lại có một chữ nữa, rất ghê gớm và cũng được nhiều người
nhắc tới, mà có lẽ ít người hiểu. Đó là chữ “Bình Đẳng vô nhị pháp
môn,” hay “Pháp môn không hai.” vậy chữ bất
nhị là gì? mà chữ bất nhị đó đối với chữ Như Như giống
hay khác? Chữ thứ ba là chữ “Bát Nhã” nghĩa là thế nào?
Ngày xưa, khi đọc kinh
Pháp Bảo Đàn, thấy kể rằng, ngài Huệ Năng từ phương Bắc mang y bát xuống phương
Nam, đến một chùa gặp một vị sư. Sư hỏi ngài Huệ Năng rằng, Thưa ngài, khi ngài
còn ở với ngài Hoằng Nhẫn, (tức là vị tổ thiền tông thứ năm), ngài
Hoằng Nhẫn dạy ngài những gì? và luận về những gì? có luận về thiền định và
giải thoát hay không? Ngài Huệ Năng trả lời rằng, không có luận về thiền định,
cũng không luận về giải thoát, mà chỉ có luận về pháp môn không hai thôi, bất
nhị. Ngài nói thêm rằng, “Phật pháp là pháp môn không hai.”
Chúng ta từng tụng và
nghe giảng về kinh Duy Ma Cật thấy rằng kinh Duy Ma Cật dạy về pháp môn bất
nhị. Vậy, câu hỏi được đặt ra là trong ba chữ là chữ “Như Như” chữ “Bất
Nhị” và chữ “Bát Nhã” khác nhau hay giống nhau?
Một câu hỏi nữa cần được
đặt ra, Bát Nhã có dừng ở chữ Như Như không?
Trong kinh Đại Bát Nhã
mà chúng ta đang tụng có nói rằng, ngay cả đến chữ Như cũng
không được dừng lại ở đó, mà phá luôn cả ý tưởng Như ấy. Nhưng
bây giờ, chúng ta lại bà thấp hơn một chút là nói đến cái Như Như. Thế
nào là Như Như.
Để trả lời cho dễ hiểu
hơn, tôi xin đưa thí dụ như thường ngày ta trông thấy sự vật, cây cỏ, núi non,
người, thì thấy pháp nào cũng có sanh ra, lớn lên, rồi diệt đi. Chữ “Như
Như” là nhìn thấy tất cả các pháp không có sanh, không có diệt. Nói
một cách khác, nó được diễn tả trong “bát bất” của ngài Long
Thọ: “Bất sanh, bất diệt. Bất đoạn, bất thường, bất đồng, bất dị, bất
lai, bất khứ. ” Phàm phu ngược lại, lúc nào cũng trông thấy tất cả
những sự chia hai, thấy như có sanh có diệt, có đoạn có thường v.v…, Chư Phật
thì các ngài chỉ thấy Như Như, không sanh không diệt… Tại sao vậy? Chỉ vì tâm
chúng sanh Động, còn tâm của Phật không Động.
Trong kinh dạy rằng,
đừng khởi vọng tưởng phân biệt. Khi không khởi vọng tưởng phân biệt thì tâm
chúng ta sẽ đến được chỗ bất động Như Như. Sở dĩ pháp giới kia
có sanh diệt, đoạn thường, lai khứ v.v… là vì (kinh khẳng định rằng), không
phải những vật ấy có sanh, có diệt đâu, không phải có khứ lai, cũng không phải
đoạn thường, mà chính là do tâm chúng ta động, nên mới thấy pháp giới biến
chuyển. Vì bản lai không có vật, pháp giới chỉ là một cái gương lớn, nhưng nếu
có người thò đầu nhìn vào cái gương ấy, thì thấy trong đó hiện lên những hình
bóng, nếu người ấy động đậy, thì hình bóng trong gương cũng động đậy, tâm chúng
ta biến động ra sao thì nó cũng ảnh hiện trong gương như thế ấy, không một mảy
may sai khác. Đó là điểm then chốt nhất mà người học Phật phải nhớ.
Để đi đến cái tâm an
nhiên bất động ấy, tâm Như Như, tâm thanh tịnh không có phiền não chướng, không
có sở tri chướng, thì con đường đi tới là con đường bất nhị. Con đường bất nhị
là con đường của sự phủ định, không có gì là có, cũng không phải là không, vì
mọi thứ đều không thật, không hư. Thí dụ như ta trông thấy cái bàn và hư không,
tâm ta, luôn luôn theo những cộng nghiệp cũ nói rằng đó là cái bàn, và bên cạnh
là hư không, không có vật. Đó là cái nhìn còn phân biệt, chấp vào nhị biên.
Nhưng người tu cao, họ nhìn pháp giới bằng tâm vô phân biệt, nên họ có thần
thông, có thể đi xuyên qua bàn hoặc những vật một cách vô ngại. Như vậy, người
tu hành phải tập rời tâm có phân biệt dần dần thành như mặt hồ lặng sóng, lúc
ấy tâm tương tự như tấm gương của pháp giới, chiếu tất cả pháp giới một cách
trung thực, nên gọi là “Như Như.”
Vậy cái tâm Như
Như ấy, có thể gọi là tâm Bát Nhã chưa?
Cũng có thể gọi là bát
nhã rồi, nhưng chưa được tròn đầy thôi, vì phải trừ nốt ý niệm Như Như đó
mới được.
Danh tự bát nhã rất mờ ảo,
khi ta phân tích những danh tự này, cũng giống như chúng ta đang phân tích từng
lớp sương mù vậy. Đầu tiên chúng ta cần nhớ đến chữ không, vô, bất,
phi, ly. Thứ hai là phải nhớ chữ Như Như, Bất Nhị. Thứ
ba là những chữ Bát Nhã, Đại Bát Nhã, Niết Bàn, Đại Niết Bàn, Phật
Tánh, Chân Như, Như Lai tạng v.v…
Những chữ này là đồng
hay là khác, và phân biệt từng chữ ra sao?
Trong kinh, Phật dạy
rằng biển chân tâm ấy, vì không có tên nên ngài đặt ra nhiều thứ tên, nhưng mỗi
tên đều mang theo nó một ý nghĩa riêng biệt, tuy cùng dùng để chỉ một phật tánh
ấy.
Kinh Đại Bát Nhã, đức
Phật giảng trong hai mươi hai năm. Nhưng không phải chỉ riêng trong kinh Đại
Bát Nhã Ngài mới giảng về Bát Nhã đâu, mà trong kinh Đại Bát Niết Bàn, cũng có
khoảng hai, ba phẩm như phẩm Sư Tử Hống, phẩm Ca Diếp ngài cũng giảng về Bát
Nhã, và trong kinh Duy Ma, Đại Bảo Tích, Ngài cũng giảng về Bát Nhã rất nhiều.
Nay ta lấy riêng hai
chữ Đại Bát Nhã và Đại Niết Bàn đem phân tích
trước. Đại Bát Nhã có phải là Đại Niết Bàn không?
Cần phải nói đến
chữ Niết Bàn trước, Niết Bàn của Thanh Văn ra sao, và Đại
Niết Bàn của Chư Phật ra sao, rồi Đại Niết Bàn của Chư Phật so với Đại
Bát Nhã như thế nào? Tại sao trong kinh lại rắc rối nói nhiều chữ như thế?
Trong kinh Pháp Hoa, gọi Niết Bàn của Thanh Văn là Niết Bàn Hóa Thành. Tức là
khi ta vượt qua được sắc ấm, thọ ấm, tưởng âm, hành ấm chớm bước vào thức ấm
thì ở nơi đó là Niết Bàn Hóa Thành của Thanh Văn. Nhưng khi vị hành giả bước
vào thức ấm ấy, không bằng lòng dừng nơi bờ mé của thức ấm, mà gắng lặn sâu
xuống biển thức ấy, tương tự như con hương tượng lặn sâu xuống đáy biển không
hải, thì chỗ đó là Đại Niết Bàn của Chư Như Lai, là Đại Tịch Diệt.
Trong khi giảng Đại Bát
Nhã, cũng cần phải giảng một ít về Đại Bảo Tích hoặc Đại Bát Niết Bàn, vì nghĩa
bổ xung cho nhau rất nhiều. Trong kinh Đại Niết Bàn đức Phật dạy rằng, Niết Bàn
của các ông (Thanh Văn) chỉ mới tới được hóa thành thôi, vì
Niết Bàn của Thanh Văn chỉ có hai đức tính là Lạc, và Tịnh, còn Đại Niết Bàn
của chư Phật thì có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Ngoài cái Lạc và Tịnh, còn thêm cái
Thường, và cái Chân Ngã. Lạc thì tương đối dễ hiểu, nhưng cũng khó hiểu lắm.
Lạc là vui. Pháp ấn của Thanh Văn là tịch tĩnh, an vui. Các vị vào đấy thấy
được sự an lạc ghê gớm.
Vậy cái vui của phàm
phu, của thánh nhơn và của chư Phật khác nhau thế nào? Vui của phàm phu là khi
chúng ta dược như ý một điều gì thì vui, có được một món tiền, một bữa ăn ngon,
đậu một cái bằng, tậu một ngôi nhà, một chiếc hơi mới v.v… thì cho đó là vui.
Ngược lại, cái gì không hợp ý thì cho là khổ. Nhưng các vị Thánh Nhân ở trong
Niết Bàn, được cái áo mới cũng không thấy vui, mà gặp một hoạn nạn nào đó cũng
không thấy khổ, tức là các ngài không thọ khổ, lạc. Trong kinh lại còn nói thêm
một câu rất lạ rằng các ngài vui cái “vui không thọ,” không thọ
vui, không thọ khổ, như thế mới là rất vui. Vì đó mới là niềm an nhiên vô động.
Đó là cái vui của Niết Bàn. Còn chữ “Tịnh” là không có tam
độc, Niết Bàn của các vị Thanh Văn là không có tham, sân, si, nghi, mạn, nhưng
chỉ trừ được tam độc thô thôi, tập khí vẫn còn, tương tự như con thỏ lội qua
sông, chân không chấm được đến đáy. Còn chư Phật thì như con hương tượng lội
qua biển thức ấy đồng thời chân chấm được tới đáy. Vì vậy, Đại Tịch Diệt của
chư Như Lai khác xa với Thanh Văn, vì có thêm cái “Thường” và
cái “Chân Ngã” và đó mới là Thường Trụ.
Đạo phật khẳng định rằng
tất cả mọi thứ đều vô thường, nhưng riêng cái đó là Thường, vì nó là thực tại
cuối cùng, đồng thời cái thường đó lại có cái Ngã, và đó mới chính là Chân Ngã,
vì nó vượt lên cả Ngã và Vô Ngã. Điểm ngã này là một điểm rất lạ lùng, ngày xưa
nhiều người học Phật đều lúng túng, và tất cả ngoại đạo ngày xưa đều vấp. Ban
đầu, với hàng Thanh văn, Phật dạy vô Ngã. Ngoại đạo nghe như vậy rất chán,
không có mấy người theo, vì họ dính mắc vào Thần Ngã nhiều, tin chắc rằng trên
cao còn có Thần Ngã và Đại Ngã là các đấng Phạm Thiên. Vì vậy, không thể nào bỏ
được ý niệm Ngã ấy. Nhưng đến cuối đời, ngài lại tuyên bố rằng có Thường Trụ và
có Chân Ngã, lúc bấy giờ ngoại đạo mới ồ theo. Trong kinh Đại Bát Niết Bàn tả
rất hay ở chỗ kể lại những lời nói của ngoại đạo đến chất vấn đức Phật. Một
đoạn kinh ngài kể, hôm ấy, ngài xuống tắm ở sông Ni Liên Thiền, khi ngài xuống
tắm thì tất cả chim chóc, cá rùa đều bu lại xem thân kim sắc của ngài. Lúc bấy
giờ, có năm trăm người Phạm Chí đi trên bờ sông, vừa đi vừa ta thán với nhau
rằng: “Sa Môn Cù Đàm thật lạ, trông tướng ông ta rất đẹp, lại có thần
thông lớn, mà ông là người rất hòa nhã từ ái, chỉ khổ mỗi một điều là ông
giảng “Vô Ngã, ” nên chúng ta không thể theo được.”
Ở đây, chúng ta phải hiểu cái “Ngã” của
ngoại đạo nhìn, vẫn phải dựa theo năm ấm để giảng cho rõ. Họ bị dính vào quan
niệm Ngã ở chỗ là chỉ mới vượt được sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm
mà thôi, vào đến hành ấm thì dừng lại, cho rằng đã rốt ráo đến được Đại Ngã.
Nhưng đức Phật lại bác, bảo rằng đó không phải là Chân Ngã, mà phải phá vỡ hành
ấm, đi vào thức ấm, không dừng ở bờ mé của thức ấm mà phải lặn sâu đến đáy
tầng, lúc đó mới thấy được “Chân Ngã.”
Đó là những sự khác biệt
về niết bàn của ngoại đạo còn vướng Ngã, chưa có cái Lạc và Tịnh, chỉ
có cái tương tợ Lạc và tương tợ Tịnh thôi. Niết bàn của Thanh Văn thì có Lạc,
có Tịnh nhưng thiếu cái Chân Thường và Chân Ngã. Còn Niết Bàn của Chư Như Lai
là có đủ Chân Thường, Chân Lạc, Chân Ngã, Chân Tịnh. Trở lại vấn đề Đại Bát
Niết Bàn và Đại Bát Nhã, hai cái là một hay là khác? Chư Phật triển khai cái
thực tại cuối cùng thì các ngài triển khai theo hai cách. Cũng như ngài Mã Minh
nói rằng Chân Như đó có hai mặt, đó là mặt “như thật không” và “như
thật bất không.” Tiểu niết bàn của Thanh Văn chỉ có Lạc và Tịnh, tức
là chỉ có một mặt như thật không, (chưa như thật lắm đâu), còn
Chân Thường và Chân Ngã kia chính là mặt như thật bất không. Vậy thì Đại Bát
Nhã vì có Chân Ngã nên khởi lên được đại bi, đó thuộc về mặt như thật bất
không, nên Đại Niết Bàn của chư Phật gồm cả hai mặt như thật không và như thật
bất không. Có đủ Lạc và Tịnh của Thanh Văn nhưng đưa đến một mức độ nữa là Chân
Lạc và Chân Tịnh. Đồng thời, đưa mặt như thật bất không lên đến chỗ Chân Thường
và Chân Ngã.
Tóm lại, Đại Bát Nhã
cũng giống Đại Bát Niết Bàn. Nhưng cũng khác là Đại Bát Nhã chỉ nhấn mạnh
khía cạnh như thật không thôi, đến chỗ tuyệt vời không, còn Đại Bát Niết Bàn
vừa có mặt “không” kia, đồng thời lại nhấn mạnh mặt đại bi tức
là như thật bất không.
Không biết quí vị có
theo dõi kịp lời tôi nói không?
PHẬT TỬ: Khó quá, mù mịt
quá! tôi cứ có cảm tưởng nửa như hiểu, nửa như… hoang mang, chẳng biết đường
nào mà lần.
ĐÁP: Tất cả giáo lý đạo Phật huyền nhiệm chính vì chỗ mù mịt
ấy, nhưng phải đi vào nó, phân tích nó, đắm mình trong đó, mới mong hiểu được
đôi phần.
Còn những chữ như Chân
Tâm, Phật Tánh v.v… cũng thế, Chữ Phật Tánh là để nhấn mạnh vào cái tánh của
Phật và của chúng sanh, nó có khía cạnh là như thật không và cũng có thể là như
thật bất không, và chữ Chân Như cũng vậy thôi. Vì thế khi tu tập Đại Bát Nhã
lên đến tột bờ mé thì sẽ đến Kim Cang Tam Muội, tức là Chân NhưTam muội, cũng
tức là Thủ Lăng Nghiêm tam muội v.v… vì đi đến tột bờ mé thì tất cả đều là Một.
Còn chữ Như Lai tạng, là muốn nhấn mạnh về cái kho tàng tâm thức làm khởi lên
pháp giới này.
Tôi biết giảng thế này,
cũng không mong quí vị hiểu được ngay, chỉ muốn gieo thêm duyên để quí vị về
suy tư may ra mới hiểu rõ thêm phần nào, cũng xin nhắc rằng, dù chỉ suy tư thế
nhưng công đức cũng khôn lường, vì càng làm những gì vi diệu bao nhiêu thì công
đức càng nhiều bấy nhiêu.
Chúng ta là những người
đọc tụng kinh đại thừa đã lâu, nên cần có một cái nhìn thông suốt về kinh, vì
tất cả các bộ kinh đều dung thông với nhau, tương tự như một tòa lâu các lớn có
nhiều con đường dung thông trong ấy. Cốt tủy của đạo Phật chỉ có Chân Không và
Diệu Hữu thôi. Trong kinh Hoa Nghiêm nói nhiều về Diệu Hữu, nhưng vẫn nói một ít
về Chân Không, còn Đại Bát Nhã nói về Chân Không, nhưng trong ấy ngài dạy về
biến hóa cũng nhiều, nên cũng có Diệu Hữu. Còn kinh Pháp Hoa lại nói về Diệu
Hữu, có phẩm nói về thọ lượng của Như Lai, tức đã đi vào Diệu Hữu, mà tất cả
thọ lượng Như Lai cũng đều là mộng huyễn. Còn Kinh Đại Bát Niết Bàn, có
phẩm “Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương Bồ Tát,” nói về
công đức của người tụng kinh Đại Bát Niết Bàn, là nếu có người chỉ tụng một
biến kinh này thì bảy kiếp không bị đọa và nói công đức tức là nói về Diệu Hữu.
Tiếp theo sau là hai
phẩm: Sư Tử Hống Bồ Tát và phẩm Ca Diếp Bồ Tát nói
nhiều về Bát Nhã. Nên cần hiểu rằng kinh nhà Phật không đi ra ngoài Chân Không
(bát nhã) và Diệu Hữu (đại bi). Còn kinh Lăng Nghiêm
nói về vọng tâm và thức biến, ngài giảng rõ cho chúng ta thấy, tâm nở ra những
căn như thế nào, trần ra sao, thức là gì. Đồng thời, cốt yếu của kinh Lăng
Nghiêm là dạy về Như-huyễn-tam- ba-đề, Phật dạy phải quán căn và trần kia, hai
cái đó đều đắm nhiễm nhau, không thể nào có căn mà không có trần, hoặc ngược
lại, và lên đến tột cao thì trở thành bất nhị. Đó cũng là điểm bát nhã, vì phàm
phu chúng ta luôn tưởng rằng căn độc lập với trần, cho bên ngoài là một pháp
giới độc lập không dính dáng gì đến thân căn chúng ta cả, nhưưg kinh lại khẳng
định rằng, thân căn (chánh báo) cùng pháp giới (y báo) đắm
nhiễm nhau không thể rời được, và khi tu dần lên cao, sẽ đến
Như-huyễn-tam-ma-đề, cũng là Thủ Lăng Nghiêm tam muội, cũng là Kim Cang tam
muội, cũng là Chân Như tam muội, cũng tức là Bát Nhã tam muội. Sở dĩ Kinh giảng
ngang giảng dọc, nói lên nói xuống là chỉ để cho chúng ta nhìn ở nhiều
khía cạnh khác nhau, còn như lên đến tột không thì tất cả sẽ trở thành Một,
viên mãn, tròn đầy. Nên người học Phật cần phải hiểu rõ điều đó để khi đi vào
kinh không bị rối loạn, bỡ ngỡ.
Tóm lại, hôm nay tôi xin
nhấn mạnh về hai điểm.
1. Đừng tưởng rằng những vật kia là có thật, có lai, có
khứ, có động, có chuyển, có sanh, có diệt v.v.., vì ngoài kia là bản lai vô
nhất vật, nhưng vì tâm chúng sanh động nên hiện lên tất cả sơn hà đại địa này.
2. Chúng ta phải luôn nhớ đến chữ Ảo, tất cả thế gian này
đều là mộng, ảo, bào, ảnh, lộ, điển. Tất cả đều từ tâm biến hiện, không có gì
nhấtt thiết là vật gì, chỉ do nghiệp chiêu cảm, đủ duyên thì hiện, hết duyên
thì ẩn.
***
Nay, tôi xin trở về với
Hoa Nghiêm, đi nốt con đường của ngài Thiện Tài tìm cầu thiện tri thức, và cũng
là đi vào con đường của Diệu Hữu…
Lúc này, Thiện Tài đang
ở trong Đại Lâu Các cũng là lâu các Bạch Tịnh Thức của ngài Di Lặc.
Ở đây kinh tả chánh
báo, tức là những hạnh nguyện của ngài Di Lặc.
KINH: Hoặc thấy Di Lặc
Bồ Tát ở xứ Diêm La cứu khổ địa ngục, hoặc thấy ở xứ ngạ quỉ bố thí đồ uống ăn
cứu sự đói khát, hoặc thấy ở đạo súc sanh dùng những phương tiện điều phục
chúng sanh. …(bỏ một đoạn)… Hoặc thấy Di Lặc Bồ Tát khen nói những công đức của sơ địa
nhẫn đến thập địa. Hoặc thấy khen nói đầy đủ tất cả ba la mật. Hoặc thấy khen
nói nhập các nhẫn. Hoặc thấy khen nói các môn đại tam muội. Hoặc thấy khen nói
những môn giải thoát thậm thâm.
GIẢNG: Trong kinh Hoa
Nghiêm có phẩm thập nhẫn, và phẩm thập thông, vì vậy ngài Di Lặc mới khen về
những môn đại tam muội đó.
KINH: Hoặc thấy khen nói
cảnh giới của những tam muội thần thông. Hoặc thấy khen nói những bồ tát hạnh.
GIẢNG: Bao giờ cũng vậy,
khi còn ở dưới thấp, chư Phật nói không nên hiện thần thông, nếu hiện thần
thông để khoe mình là sai. Nhưng khi lên cao, ngài lại nói phải hiện thần thông
mới độ sanh được nhiều.
KINH: Hoặc thấy khen nói
những thệ nguyện lớn. Hoặc thấy cùng với chư Bổ Tát đồng hành khen nói những
phương tiện lợi ích chúng sanh. Hoặc thấy Di Lặc Bồ Tát trong trăm ngàn năm
kinh hành, đọc tụng, thơ tả kinh quyển, siêng cầu quán sát vì đại chúng mà
thuyết pháp.
GIẢNG: Ngài bỏ ra hằng
trăm ngàn năm đọc tụng thọ trì, chép kinh, chỉ vì đại chúng siêng cầu quán sát
mà thuyết pháp. Vậy mà gần đây, có những vị thiền sư không biết dạy ra sao, mà
các đệ tử về quăng hết cả kinh sách, cho rằng, nó không ích lợi gì cả. Nghe như
vậy có khổ tâm không? Chúng ta có thể vứt kinh qua một bên nếu ta là người đã
thông suốt tất cả các kinh điển đại thừa như ngài Huệ Năng, còn dưới thấp thì…
xin chớ, vì kinh kệ thì chưa hiểu mấy chữ, phiền não thì chất ngất, vô minh lại
dầy đặc, hờn giận luôn luôn…, mà đòi vất hết kinh sách thì không biết tu ở khổ
nào? Nên chúng ta phải nên dè dặt và cẩn thận, chớ vì hồ đồ một phút mà có thể
hại đến giới thân huệ mạng cả nhiều kiếp.
KINH: Hoặc nhập tứ thiền
vô lượng tâm. Hoặc nhập biến xứ và những giải thoát.
GIẢNG: Biến xứ là gì?
Các vị tỳ kheo tu thiền định, thường các ngài tu tứ thiền, tứ vô lượng tâm hay
tu mười bếốn xứ gọi là thắng xứ. Các ngài có thể quán chung quanh toàn nước thì
tất cả chung quanh sẽ biến thành nước, nhưng chỉ riêng đối với vị ngồi quán
thôi, người ngoài sẽ chưa thấy là nước, đó gọi là biến xứ. Hoặc quán lửa cũ ng
thế. Trong kinh có kể, một hôm đức Phật đến khu rừng, ngài ngồi trên một gốc
cây cổ thụ lớn, ngài nói, này chư tỳ kheo, một người tỳ kheo giỏi có thể ngồi
quán thân cây này chỉ toàn là địa đại, nếu quán đúng mức nó sẽ tan thành bụi,
và trong kinh Lăng Nghiêm có ngài Nguyệt Quang Đồng Tử quán nước thì chung
quanh ngài toàn là nước nổi lên mênh mông. Đó gọi là biến xứ định.
KINH: Hoặc nhập tam muội
dùng sức phương tiện hiện những thần biến. Hoặc thấy Di Lặc Bồ Tát nhập biến
hóa tam muội, nơi mỗi lỗ lông trên thân hiện ra tất cả biến hóa thân vân.
GIẢNG: Ngài ngồi đây,
nhưng từ những lỗ lông của ngài hiện lên những thân vân, đám mây hào quang, tụ
lại thành những thân rồng, hay càn thát bà, hoặc nhơn, thiên v.v…
KINH: Hoặc hiện ra thiên
chúng thân vân.
GIẢNG: Những đám mây hào
quang ấy hiện thành chư thiên.
KINH: Hoặc hiện ra Long
chúng thân vân.
GIẢNG: Đám mây hào quang
ấy hiện ra thân rồng.
KINH: Hoặc hiện ra bát
bộ chúng thân vân. Hoặc hiện ra thánh, phàm, hộ thế, chuyển luân thánh vương.
Hoặc hiện ra tất cả chúng sanh thân vân.
GIẢNG: Tất cả đều biến
hóa từ hào quang ra các thân chúng sanh, tùy niệm mà hiện.
KINH: …(Bỏ một đoạn)… Hoặc ở trong những lỗ lông ấy, lại thấy Chư
Như Lai có đại chúng vây quanh. Cũng thấy chư Phật này: chỗ sanh, chủng tánh,
thân hình, thọ mạng, quốc độ, kiếp số, danh hiệu, thuyết pháp lợi ích, chánh
pháp ở đời mau hay lâu, nhẫn đến đạo tràng chúng hội đều thấy rõ cả. …(Bỏ
một đoạn)… Thiện Tài lại thấy thân mình ở tại chỗ chư Phật Như Lai ấy, cũng
dự trong chúng hội ấy, đều nhớ rõ tất cả Phật sự và thông đạt vô ngại.
GIẢNG: Do thiện căn của
chính Thiện Tài, đồng thời cũng do sự gia trì của ngài Di Lặc, có bao nhiêu
pháp hội ngài Thiện Tài cũng dự và đều thấy thân mình hiện trong đó.
KINH: Lại nghe tất cả
lưới, linh, nhạc khí, trong tất cả lâu các ấy đều diễn xướng bất tư
nghì pháp âm vi diệu …(bỏ một đoạn)… Thiện Tài nghe bất tư nghì pháp Âm như vậy, thân tâm
hoan hỉ nhu nhuyễn liền được vô lượng môn tổng trì, vô lượng môn biện tài, các
thiền, các nhẫn, các nguyện, các độ, các thông, các minh và các giải thoát, các
môn tam muội.
GIẢNG: Thiện Tài được
thân tâm hoan hỉ, nhu nhuyễn, tức là khi tâm được pháp hỉ, được sức gia trì thì
nó nhu nhuyễn, rất vi tế, không thô tháo như tâm phàm phu chúng ta, dễ nổi
giận, hay khởi tâm thèm ăn, hoặc có tâm yêu quái muốn quyến rũ người v.v.., đó
là những tâm thô tháo, nổi lên những đợt sóng dồn dập. Còn tâm nhu nhuyễn thì
ngược lại, đó là một tâm từ hòa, nhỏ nhiệm, có thể biết được những cái rất vi
tế. Ngài Thiện Tài sau khi có được tâm nhu nhuyễn thế liền được môn tổng trì.
Tổng trì là môn nhớ tất cả các pháp, nghe pháp nào là nhớ pháp ấy, đồng thời
lại có vô lượng môn biện tài, tức là có thể nói được mọi thứ pháp.
KINH: Lại thấy những
hình tượng trong các gương báu: những là Chư Phật chúng hội đạo tràng, Bồ Tát
chúng hội đạo tràng, Thanh Văn chúng hội đại tràng, Duyên Giác chúng hội đạo
tràng, những tịnh thế giới, những uế thế giới, hoặc những tịnh uế thế giới,
những thế giới có Phật, những thế giới không Phật, những tiểu thế giới, những
trung thế giới, những đại thế giới, những nhân đà la võng thế giới, những thế
giới úp, những thế giới ngửa, những thế giới bình thản, những thế giới của địa
ngục, ngạ quỉ, súc sanh ở, những thế giới đầy chúng nhân thiên, ở trong những
thế giới như vậy, thấy có vô số chúng đại Bồ Tát hoặc đi, hoặc ngồi làm nhiều
sự nghiệp: Những là hoặc khởi đại bi thương sót chúng sanh, hoặc soạn những bộ
luận lợi ích chúng sanh, hoặc thọ, hoặc trì, hoặc biên, hoặc tụng, hoặc hỏi,
hoặc đáp, ba thời sám hôi hồi hướng phát nguyện. Thiện Tài lại thấy trong
tất cả cột báu phóng lưới đại quang minh ma ni vương…
GIẢNG: Đoạn này cũng dễ
hiểu, tôi chỉ xin đọc lược…
KINH: …(Bỏ một đoạn)… Trong mỗi châu bửu
đều hiện hình Di Lặc Bồ Tát thuở kiếp xưa tu hành bồ tát đạo: hoặc bố thí đầu,
mắt, tay, chân, môi, lưỡi, răng, nướu, tai, mũi, máu thịt, da thứa, xương tủy,
nhẫn đến móng tóc. Hoặc bố thí vợ con, thành ấp, tụ lạc, quốc độ, ngôi vua. Làm
cho người ở lao ngục thời được ra khỏi, kẻ bị trói buộc thời được cởi mở, người
bệnh tật thời được lành, người vào đường tà thời chỉ cho đường chánh. Hoặc thấy
Di Lặc Bồ Tát làm lái thuyền đưa qua biển lớn. Hoặc làm Mã Vương cứu hộ các
nạn, hoặc làm đại tiên khéo giảng luận v.v (bỏ một đoạn)… Lại thấy Di Lặc Bồ
Tát từng kính thờ thiện tri thức đều dùng tất cả công đức trang nghiêm. Lại
thấy Di Lặc Bồ Tát tại chỗ của mỗi chỗ thiện tri thức thân cận cúng dường, tuân
hành lời dạy, nhẫn đến trụ bực quán đảnh.
Bấy giờ chư thiện tri
thức ấy bảo Thiện Tài rằng: “Lành thay đồng tử, ngươi nhìn xem những vật bất tư
nghì của Di Lặc Bồ Tát chớ có nhàm mỏi.”
GIẢNG: Ở đây, cũng
vẫn là trong đại lâu các trang nghiêm của ngài Di Lặc, tức là trong bạch tịnh
thức của ngài. Thiện Tài gặp nhiều bực thiện tri thức trong ấy, và nói với
Thiện Tài như thế.
KINH: Lúc đó vì được sức
ghi nhớ chẳng quên, vì được mắt thanh tịnh thấy mười phương, vì được trí vô
ngại khéo quán sát, vì được trí tự tại của Bồ Tát…….(bỏ một đoạn)…, nên Thiện Tài ở
trong mỗi vật của tất cả lâu các đều thấy vô lượng cảnh giới bất tư nghì như
vậy. Như người nằm mộng thấy những cảnh vật, khi thức dậy bèn biết là cảnh
mộng, nhưng có thể nhớ rõ không quên mất. Cũng vậy, nhờ thần lực gia trì của Di
Lặc Bồ Tát, vì biết những pháp trong tam giới như mộng, vì diệt được tâm tưởng
hèn kém chúng sanh, vì được trí giải rộng lớn vô ngại, vì an trụ cảnh giới thù
thắng của Bổ Tát, vì nhập trí phương tiện bất tư nghì, nên Thiện Tài thấy được
cảnh giới tự tại như vậy. Như người sắp mạng chung, thấy tướng thọ báo theo
nghiệp của họ…
GIẢNG: Kinh nói, khi một
người sắp mạng chung, thần thức rút sâu vào tàng thức, thấy tất cả những chủng
tử nghiệp của mình nở ra…, những cảnh giới cũ.
KINH: Người gây ác nghiệp
thời thấy tất cả những cảnh giới khổ nơi địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Hoặc thấy
lính ngục tay cầm binh khí sân mắng trói bắt dẫn đi. Cũng nghe những tiếng kêu
khóc than van. Hoặc thấy sông tro, vạc nước sôi, núi dao, cây gươm rồi bị bức
vào chịu khổ. Người làm lành thời thấy cung điện trời, vô lượng thiên chúng,
thiên nữ, y phục trang nghiêm, cung điện viên lâm đều tốt đẹp. Dầu thân chưa
chết, nhưng do nghiệp lực thấy những sự như vậy. Cũng vậy, do sức bất tư nghì
của Bồ Tát nghiệp, nên Thiện Tài được thấy tất cả cảnh giới trang nghiêm.
GIẢNG: Khi sắp lâm
chung, tự nhiên tâm thức có thể lọt được vào thức ấm, lúc bấy giờ thấy những
chủng tử nghiệp nở ra rầm rộ, nếu có nhiều chủng tử ác nở ra thì thấy cảnh địa
ngục, có người, có lính cầm roi, dao đến bắt, rồi bị đẩy và những sông toàn tro
hoặc toàn lửa. Nếu có nhiều chủng tử lành, tự nhiên sẽ thấy cung điện của trời
rất đẹp hiện ra. Cũng vậy, ngài Thiện Tài lọt vào tàng thức của ngài Di Lặc thì
thấy được vô lượng bất tư nghì cảnh giới trang nghiêm. Phàm phu nghiệp thì hoặc
nở những nghiệp địa ngục hay nở cảnh giới chư Thiên, nhưng bồ tát nghiệp thì
chỉ toàn nở những cảnh giới trang nghiêm, vì tâm thức của các ngài rất thanh
tịnh.
KINH: Như có người bị
quỉ nhiếp trì, thấy các sự việc tùy nơi người hỏi đều đáp được cả.
GIẢNG: Trong kinh nói
rõ: Người nào bị quỉ nhiếp trì đôi khi có biện tài, hay có sức hấp dẫn để
thuyết phục, lôi kéo những người không đủ trí huệ. Như đất Mỹ này là chỗ có đời
sống sung túc nhưng cũng rất vất vả. Về đời sống kỹ thuật rất giỏi, nhưng về
đời sống tâm linh thì ngây ngô, nên dễ bị lừa. Nhất là những người có một đời
sống chơi vơi, lẻ loi, đơn độc, trong những lớp người lớn tuổi từ bốn mươi trở
lên. Thí dụ một người đàn bà, hoặc một người đàn ông góa bụa, bị vợ hoặc chồng
bỏ, con cái đã lớn có một cuộc sống gia đình riêng tư của nó, công danh sự
nghiệp thì lủng củng, không ra gì, hoặc có những người già từ sáu mươi lăm trở
đi, có chút tiền già hàng tháng, họ hay rơi vào tình trạng cô đơn, buồn chán,
không biết làm gì cho hết một ngày, ngày giờ của họ dài lê thê. Tất cả những
người đó, họ cần sự an ủi, cần một lối thoát. Nên có một nghề mọc lên và rất ăn
khách, lại có thu tiền vô được nhiều, đó là nghề “Tà Sư” có khi
chỉ cần ba hoa cho họ một vài ảo tưởng nào đó, lấy của họ năm, ba chục bạc hay
một hai trăm, thì những người kia sẵn sàng trả với giá đó. vì họ nghĩ rằng, sau
khi được… điểm hóa, hay ấn chứng thì có thể đắc được đạo rồi. Họ sống trong ảo
tưởng đó khoảng dăm ba tháng, hay một hai năm v.v.., cũng đáng tiền lắm chứ.
Đến khi ma lực đó không còn nữa, họ lại trở ra, lại càng cảm thấy cô đơn hơn,
sợ hãi hơn và càng cần phải tìm nơi nương tựa hơn. Lúc ấy đi tìm lại “sư
phụ” thì “tà sư phụ” đã biến mất, có lẽ đến một vùng
khác để “làm ăn,” hoặc đã bị sa vào vòng pháp luật. Tà sư lừa đảo
những người ngây thơ như thế thời này nổi lên như cát bụi, họ cũng khôn lắm,
không lừa nhiều tiền đâu, mỗi lần chỉ độ năm, bảy chục bạc, nhưng người nào mê
quá thì cũng có thể cúng dường một, vài ngàn, hai bên đều thuận mua, vừa bán,
không ai kêu ca cả. Đồng thời, cả hai đều vui vẻ, một đằng bán ảo tưởng để lấy
tiền, một đằng mua lấy ảo tưởng để có được một chút bình an trong tâm hồn.
Tất cả những “ca” như
thế, phần lớn các tà sư đều bị quỉ nhiếp trì cả. Nhưng thứ quỉ này cũng chỉ là
quỉ nhỏ thôi, quỷ cho tà sư một vài biện tài lăng nhăng, không phải là loại quỉ
lớn như trong kinh kể. Đến khi quỉ chán bỏ đi, thì cả thầy lẫn trò đều sa vào
vòng pháp luật, hoặc đều… tiêu tan hết.
Chúng ta là những Phật
tử đã biết đọc tụng đại thừa, nên phải có chút trí huệ để hiểu những điều như
vậy. Nhưng theo tôi, dù có đi lạc đường, lạc nẻo, đến một kiếp nào đó cũng trở
về với đạo Phật mà thôi, chúng ta không có gì phải chống đối cả, nhưng vì thấy
thương chúng sanh ngu si, mà phải làm một cuộc hành trình vòng vo quá dài xa
cần khổ, mà thời buổi này, những người lãnh đạo tinh thần chân chánh thường
hiếm nên chúng ta phải bám vào kinh, nương theo kinh mà đi.
KINH: Như có người bị qỉ
nhiếp trì thấy các sự việc tùy nơi người hỏi đều đáp được cả. Cũng vậy, do Bồ
Tát trí huệ nhiếp trì nên Thiện Tài được thấy tất cả sự trang nghiêm, nếu có ai
hỏi đều đáp được cả.
GIẢNG: Khi qỈ nhập vào
người thì nó cho họ một cái lực đồng thời giúp họ có một biệt tài ngôn thuyết,
nói rất hay. Thái độ chúng ta là phải nhìn kỹ và nghe nghĩa lý họ nói. Thường
thường quỉ nhập vào ai rồi, họ nói năng rất khôn khéo, nói mười phần thì cũng
tám, chín phần giống trong kinh, chỉ có một phần sai thôi. Chỉ còn cần phân
biệt xem người ấy còn ngã hay không, có thích mọi người lễ lạy nhiều không, có
tâm yêu quái thích quyến dụ người khác nghe mình không, có hay khoe khoang
những điều tốt mình làm không, nếu có một trong những thứ đó hoặc là có tất cả,
thì ta cần cảnh giác, chớ có lò mò vô đó, vì nhiều khi căn cơ còn cạn cợt, chui
đầu vô bị lực của người tà sư thu hút thì cũng… hỏng ngay.
KINH: Như có người bị
Rồng nhiếp trì…
GIẢNG: Loài rồng tuy là
một loài súc sanh, nhưng có nhiều thần thông hơn loài người nên có thể nhiếp
trì loài người được.
KINH: Tự cho mình là
rồng rồi vào Long Cung, trong thời gian ngắn tự cho là đã trải qua nhiều ngày,
nhiều tháng, nhiều năm.
GIẢNG: Trong pháp giới
này, ta phải biết rằng người rất ít, các quỉ thần khác rất nhiều, đôi khi, vì
duyên nợ cũ, các quỉ thần oan ức muốn có một thân người, có nhiều oan khiên với
người từ những kiếp trước, nên họ nhập vào một thân người chơi trong một thời
gian. Như kiếp trước làm một người nghiện rượu, kiếp này vì nghiệp lực nặng nề,
không có được thân người mà phải mang một thân loài quỉ, nhưng chủng tử nghiện
rượu vẫn còn, họ muốn có thân người để được uống rượu, vì chỉ ngửi hơi rượu thì
không đủ… đã, nên họ nhập vào người nghiện rượu. Nên pháp giới này hay xảy ra
những việc duyên nghiệp chập chùng.
KINH: Cũng vậy, vì trụ
Bồ Tát trí huệ, vì Di Lặc Bồ Tát gia trì, nên trong một ít thời gian mà Thiện
Tài cho là vô lượng kiếp.
GIẢNG: Khi có những thứ
gia trì như thế, một là do sức gia trì của Chư Phật, hai là do sức gia trì của
Chư Đại Bồ Tát, thì tâm thức của Thiện Tài rung động khác đi, nên vọng tưởng về
thời gian cũng khác, có khi kéo sát na rất dài, hoặc một kiếp có thể thu lại
chỉ ngắn bằng một sát na thôi. Ngay cả những vị quỉ lớn cũng có thể nhiếp trì
quấy phá người tu hành như thế, nhưng không làm được bằng Chư Đại Bồ Tát thôi.
KINH: Như Phạm Thiên
Cung tên là Trang Nghiêm Tạng, trong đó hiện tất cả sự vật trong Đại Thiên Thế
Giời chẳng tạp loạn nhau.
GIẢNG: Có một điểm ta
cũng cần nhớ rằng là trong pháp giới trùng trùng điệp điệp như vậy, nhưng nó
không hề tạp loạn nhau bao giờ, mỗi loài chúng sanh ở trên một bình diện tâm
thức. Thí dụ như loài quỉ, chúng cũng ở chung với chúng ta đấy chứ, nhưng không
bị chạm nhau, hay làm cho pháp giới chật thêm là vì tầng lớp quang minh khác.
KINH: Như cung điện của
Thần Dạ Xoa cùng cung điện của người đồng ở một chỗ mà chẳng tạp loạn nhau, đều
tùy theo nghiệp nên chỗ thấy chẳng đồng.
GIẢNG: Thần Dạ Xoa (tức
là một loài quỉ thần) cũng ở một chỗ với chúng ta mà không bị tạp loạn
nhau, sở dĩ ta không nhìn thấy chỉ vì mắt ta còn thô kệch, không nhìn được mức
độ quang minh vi tế hơn. Nên phải biết rằng, pháp giới trùng trùng, ẩn hiện ghê
gớm, và có nhiều việc chúng ta cứ tưởng chúng ta làm, chúng ta suy tư, nhưng
một phần là do quỷ thần tác động vào ta cả, hoặc giúp, hoặc hại, tùy theo
nghiệp duyên biến hiện.
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
Ngày 14 tháng 4 năm 1991
Hôm nay là buổi thuyết
giảng thứ 125 về kinh Hoa Nghiêm và đồng thời cũng là buổi thuyết giảng thứ 12
về Đại Bát Nhã tại chùa này.
Trong các thứ kinh, quí
vị có biết là Ma Vương, Thiên Ma và những ma dân ở trần thế này họ sợ kinh nào
nhất? Đó là kinh Đại Bát Nhã, vì sao thế? Trong khi chúng ta bơi qua biển Hoa
Nghiêm hoặc Lăng Nghiêm, và ngay cả khi nói đến ma chướng, họ cũng… khó chịu
lắm, chắc cũng không sợ lắm, nhưng khi nói đến Đại Bát Nhã thì họ sợ. Vì Ma
cũng giống như phàm phu chúng ta, chúng ta cũng chính ma dân, ma nữ đấy, họ bám
vào cái có, vì tất cả thế gian này có thì ma mới hiện hữu được, và khi
thế gian này có thì ma mới có quyến thuộc được, có thể có trò vui này, trò
vui khác. Còn nếu tuyên bố và dạy chúng ta học về cái “Không” thì
tất cả pháp giới này, ma nữ, ma dân, vui, buồn, đẹp, xấu trong thế gian này đều
tiêu dung hết, vì người tu quán hiểu biết tất cả đều là Không, như
thế hành giả sẽ dần dần ra khỏi lưới của ma, không thể nào trở thành quyến
thuộc của ma được nữa, nên ma rất âu sầu, và rất khó chịu.
Quí vị có để ý từ khi
tụng Đại Bát Nhã đến giờ, đạo tràng này trở nên thưa thớt đi
không? Có thể cũng là một sự ngẫu nhiên, trùng hợp, cũng có thể nhiều khi sắp
đi tụng kinh bỗng dưng xảy ra chuyện này, chuyện nọ, hay lên cơn đau bụng, hay
nhiều khi ma sui làm cho ta khởi tâm lười biếng không muốn đi tụng kinh… Trong
kinh cũng có một đoạn kể rằng, một lần A Tu La lên thiên cung khiêu chiến với
ngài Đế Thích, túng thế quá, ngài lên hỏi ngài Di Lặc, được ngài Di Lặc dạy
tụng câu chú “MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA,” chỉ tụng câu ấy thôi mà đuổi tụi A
Tu La chạy có cờ. Đủ chứng tỏ rằng, cái “Không” rất ghê gớm,
huyền ảo.
Trong kinh nói rằng,
những người nào nghe nói về cái Không này mà không nghi lầm, không kinh sợ, thì
người đó là một người hy hữu, vì phần đông đều chấp có, mà bảo tất cả đều Không hết
thì dĩ nhiên phải hoang mang. Như chúng ta, với tâm niệm phàm phu, luôn nghĩ
rằng ta có vợ, con, của cải và nhất là có cái thân này, mà nghe Phật dạy tất cả
những thứ đó đều Không cả dĩ nhiên cũng… không tin, chúng ta
chưa đến cái mức độ cảm thấy sợ đâu, vì trí huệ của chúng ta chưa mãnh lợi lắm,
tầng mức tâm thức chưa đi sâu vào trong. Nhưng những bậc khá cao về thiền quán
như các loài Thiên Ma và Ma Vương thì họ sẽ thấy sợ.
Gần đây, tôi có đọc kỹ
bộ kinh Đại Bảo Tích. Đó là một bộ kinh vô giá, vì trong đó
nói có nhiều pháp hội có trăm ngàn vạn ức Ma Vương đến vân tập. Đồng thời các
kinh khác chỉ có một đức Phật thôi, Kinh Pháp Hoa thì có hai dức Phật, Phật
Thích Ca Mâu Ni và Phật Đa Bảo. Kinh A Di Đà thì có chư Phật thị hiện tướng
lưỡi rộng dài ra nói lên những lời chân thật rằng có nước Cực Lạc của Phật A Di
Đà nhưng các ngài không vân tập đến. Trong khi, Kinh Đại Bảo Tích có những pháp
hội như pháp hội Đại Tạng, tất cả đại chúng và Chư Phật đều đến họp và cùng nói
pháp, đồng thời trăm vạn ức Ma Vương tới họp, bàn nhau kế hại ông Sa Môn Cù
Đàm, nhưng phần đông rốt cuộc cũng qui y cả. Có nhiều vị Ma Vương nói những câu
thật ngẩn ngơ, ngây thơ như một đứa trẻ. Phần lớn Kinh Đại Bảo Tích giảng về
Bát Nhã, nhưng cũng vẫn có Đại Bi.
Tóm lại, đạo Phật là đạo
duy nhất nói về cái tột Không. Những tôn giáo khác, thường họ dừng ở Thượng
Đế (Công giáo), hay dừng ở Phạm Thiên (Ấn Độ giáo), tuy
thấp nhưng lại tiện, vì chúng sanh dễ hiểu và dễ tin, chứ nói về phi thần hóa,
cái bản thể tuyệt vời, tột Không-Diệu-Hữu thì không mấy người
tin. Chúng ta là những người Phật tử đọc tụng kinh Đại Thừa lâu rồi, và ngay cả
chính tôi, ngày xưa tôi cứ trớ ra, vì khó lãnh hội quá, vì tâm thức còn nông
quá, không thể tin được ngay.
Tôi đã thường nói ở đây
nhiều lần, tất cả các tôn giáo từ cao đến thấp đều là vì giáo chủ của họ vào
được trong những cơn tam muội nông hay sâu mà thôi. Nếu vị giáo chủ của tôn giáo
đó vào cơn tam muội “nông” thì thấy pháp giới rất mờ mịt,
không thể thấy rõ như Chư Phật, vì các ngài đã vào đến chỗ tột Không để biến
thành Diệu Hữu, tương tự như con hương tượng chân đặt tới đáy, còn những vị
giáo chủ khác tương tự như con thỏ bơi lõi bõi trên mặt nước mà chân không chấm
được đến đáy.
Tùy theo tam muội nông
hay sâu, khi các ngài xuất định, các ngài dạy lại cho chúng đệ tử của mình. Có
những vị ngừng chỗ Thượng Đế, cho rằng “công việc đã xong,” nên
chỉ nói đến một thứ Thần Ngã. Ngài Lão Tử là một vị Bích Chi Phật, cơn tam muội
của ngài cũng khá sâu, nhưng ngài chỉ mới vào được cái Không của Thanh Văn
thôi, vì vậy, ngài nói những câu cũng tương tự như đạo Phật, nhưng không được
sâu lắm. Thí dụ trong Đạo Đức Kinh, gọi cái thực tại cuối cùng mờ mịt ấy là cốc
thần, hang thần, hay cửa huyền quan, hay là hoàn hư rồi ngừng ở đấy, không đi
sâu thêm được nữa. Chúng ta tu là tu cái hư tâm, mà cái hư tâm của đạo Phật là
sâu đến đáy, trong khi cái hoàn hư của đạo Lão chỉ đến nửa chừng, đến Thức ấm rồi
dừng lại ở đấy. Còn trong Dịch Học cũng nói Thái cực, nhưng không biết nói Thái
cực như thế nào. Đạo Phật thì nói rằng cái đó lìa tất cả những ý niệm, vì dùng
ý niệm nào cũng sai cả. Trong Dịch học cũng biết phần nào lối tu, như trong
câu: “Quân tử chung nhật càn càn..,” “càn càn”là thuần dương,
tức là người quân tử học Kinh Dịch suốt ngày thường nhìn tâm mình, nhìn vào cái
mờ mịt bên trong mà không nhìn ngoại giới nữa.
Cũng đi trên một con
đường, nhưng các huyền học khác chỉ tới được một mức độ bắt đầu vào thức ấm,
vào Không Hải ấy, mà chưa thể lặn sâu vào đáy tầng của không hải đó, không nếm
được mùi vị của những cơn Đại Tam Muội vô trụ. Tôi nói đây, để cho quí vị thấy
sự thông suốt sâu, nông của các giáo lý, và cũng hiểu rằng túc duyên của chúng
ta gặp được Phật pháp kể cũng là một đại hồng phúc cho đời này.
Tóm lại, tất cả các tôn
giáo đều dạy đừng nên nhìn vật nữa, vì nhìn ngoại vật là sanh tử, là phiền não,
là trôi lăn, vì lúc nào cũng thấy vật và khởi vọng. Ngày xưa, có những vị tu
hành tự chọc thủng đôi mắt là vậy, vì phải nhìn vào vào trong, phải quay vào
nhìn cái Tâm thì mới có ngày đưa chúng ta đến giải thoát được. Vì vậy, trong
kinh Lăng Nghiêm dạy ta rất lạ lùng, nếu người tu hành chỉ nhìn vào cái Tâm ấy
thôi, thì sẽ được giải thoát. Chúng ta hãy thử tập nhìn tâm chúng ta đi, như
khi xuống phố, hay hành hương sang Trung Hoa, Ấn Độ v.v… ta hãy nhìn Tâm mình
thay đổi ra sao, thì lúc đó chúng ta đang hướng nội rồi vậy, còn tất cả những
gì bên ngoài đều thuộc về Ma Vương cả. Trong kinh, Chư Phật nói rõ rằng, tất cả
dục giới này là của Ma Vương.
Nên trong thời gian
chúng ta tụng Đại Bát Nhã, có thể ta gặp một vài điều chướng duyên, nhưng vì là
Phật tử đã phát bồ đề tâm, thì dù có phải… tán thân mạng này, thì cũng cứ đi,
và dù đạo tràng này thưa thớt hay đông người, chúng ta cũng đi cho tới cùng, vì
tôi tin chắc rằng, ngoài chúng ta ra, còn có những vị quỉ thần trung bình, và
đôi khi có Chư Thiên xuống nghe ta tụng Đại Bát Nhã.
Trong lần trước, tôi đã
giảng một vài danh từ của Bát Nhã là chữ: Không, Bất, Phi, Lỵ, thâu
tóm hệ thống bát nhã, đồng thời cũng giảng qua về hai chữ Đại Bát Nhã, và Đại
Bát Niết Bàn. Tuy hai chữ này đều giống nhau nhưng cũng có hơi khác một chút.
Đạo Phật bao giờ cũng vậy, về một khía cạnh thì bao giờ cũng nói đến Tột Không,
không có một vật, rồi lại nói đến khía cạnh kia là khởi ra Diệu Hữu. Nên kỳ
trước tôi có trình bày rằng Đại Bát Nhã chính là Đại Bát Niết Bàn nhưng Đại Bát
Niết Bàn còn hàm chứa khía cạnh Như Thật Bất Không, vì tuy rằng vào Đại Bát
Niết Bàn là vào biển tịch diệt, nhưng trong kinh nói Đại Niết Bàn còn là Thường,
Lạc, Ngã, Tịnh, và từ đó, vẫn khởi ra đủ sắc tướng.
Hôm nay, tôi muốn nói
thêm đến những cặp chữ như: “Có, Không”, “ẩn, hiện”, và “phi,
tức”. Nói một cách nôm na, đạo Phật là đạo của Có, Không, của ẩn,
hiện và của phi, tức. Thí dụ như phàm phu chúng ta,
thường thường chỉ biết có. Thanh Văn thì chỉ biết không. Còn
đạo Phật thì nói có cũng sai, mà nói không cũng sai, mà là chẳng có, chẳng
không. Vì vậy, người xưa đặt ra câu thơ rất hay:
Có thì có thực mảy may,
không thì cả thế gian này cũng không.
Kìa xem bóng nguyệt lòng sông,
ai hay không có, có không là gì.
Nghĩa là, khi tâm ta
nghiêng về chấp có, thì cả pháp giới đều có, ngay cả những phiền não nhỏ bé
nhất cũng rất thật có, và tâm ta thích phân biệt, thích chấp vào những vọng
tình, vọng tưởng ấy, cho rằng người đó thực có, rằng câu chửi ấy có thực, và
mảy may gì cũng có. Nhưng nếu tâm thức hành giả nghiêng về quán chiếu cái
Không, thì dần dần tất cả vật đều trở thành không. Lên cao hơn
một mức nữa thì hành giả xem tất cả thế gian như bóng trăng trong nước, và trôi
vào sự quán chiếu như huyễn.
Còn về cặp chữ “ẩn,
hiện” cũng thế. Khi đủ duyên thì vật ấy hiện lên, khi hết duyên nó lại
ẩn đi. Ngày xưa, trong ngành tổ thiền bên Tây Trúc, có Tổ thứ mười một, trước
khi ngài nhập diệt, hiện thần thông, truyền y bát cho Tổ thứ mười hai là ngài
Mã Minh và để lại câu kệ:
Mê ngộ như ẩn hiện
Tối sáng chẳng rời nhau
Nay trao pháp ẩn hiện
Không một cũng không hai.
Tại sao mê, ngộ như ẩn
hiện? Khi ta mê, tất cả trí tuệ giác tánh ẩn đi, mờ đi, để tất cả những vọng
tưởng, vọng tình cùng quang minh của nghiệp lực nổi lên bời bời. Vì vậy, khi mê
thì Phật tri kiến Giác tánh, Niết Bàn, Diệu Tâm, Chánh Pháp Nhãn Tạng v.v…, bị
ẩn đi, khiến các nghiệp lực tung hoành, vì vậy nên gọi là Mê. Còn khi chúng ta
Ngộ thì Trí Huệ nổi lên, làm mờ những quang minh của nghiệp lực, của phiền não
kiết sử, cũng như cái gương, khi đã sạch bụi thì hiển hiện rõ mọi vật, nên gọi
là Ngộ. Còn chữ “tối, sáng” cũng thế. Tối là nó chỉ hiện những
quang minh mà mắt chúng sanh không nhìn thấy, còn khi hiện những quang minh mắt
có thể nhìn thấy thì gọi là sáng. Tất cả chỉ là sự thay đổi của nhịp độ rung
chuyển, mắt thường không thấy cho là tối, nhưng loài khác, có thiên nhãn thông
lại cho là sáng, chư Phật thì thấy tối cũng như sáng, vì bất cứ quang minh nào
ngài cũng nhìn thấy cả. “Nay trao pháp ẩn hiện,” là nói đến
cái thông điệp ẩn, hiện, không một cũng không khác. Nếu nói là một cũng sai, vì
tối, sáng có khác nhau, nhưng cũng không phải là khác vì tối, sáng ấy, cùng
khởi lên từ Chân Tâm. Còn cặp chữ thứ ba là cặp ‘ ‘phi, tức.” Phi
là không phải, tức là phải. Phàm phu thấy sắc tức là sắc, cũng tức là phi
không, không phải không. Nhưng tu hành lên cao sẽ thấy, sắc là phi sắc, chúng
sanh là phi chúng sanh, cõi là phi cõi, vi trần là phi vi trần. Đi sâu hơn nữa
thì Sắc tức là Không. Đạo phật chỉ quanh quẩn ở mấy cặp chữ như thế thôi. Nhưng
suy nghĩ lâu sẽ thấy sự kỳ diệu của cái Tâm biến hóa.
Chúng ta là những Phật
tử tụng kinh Đại Thừa khá lâu, nên tôi nói những lời thâu tóm để quí vị có một
ý niệm thông suốt về bí ẩn của Tâm biến hóa không cùng. Đạo Phật là tôn giáo
tốì thắng nhất, vì dạy rằng, khi đến chỗ tột Không ấy lại biến thành Diệu Hữu.
Trong đạo Phật cũng nhắc chúng ta rằng, ta có hai cơ hội tự nhiên để chuyển
hiện. Cơ hội thứ nhất là lúc chết. Mỗi ngày, trung bình ta ngủ khoảng từ sáu
đến tám tiếng, đó cũng là cơ hội chúng ta tập chết. Đến khi chết thật, thì có
thể xuống địa ngục, súc sanh, ngạ quỉ, hoặc vọt lên các tầng trời, may mắn hơn
nữa thì được vãng sanh nơi Cực Lạc, nếu nắm được cơ hội ấy thì hay lắm.
Nên người nào chê bai pháp môn Tịnh Độ là những người chưa hiểu rõ đạo lý vận
hành của pháp giới này, cũng không hiểu pháp giới là gì, và chư Phật đã từ bi
hiện tướng lưỡi rộng dài thề rằng pháp môn tịnh độ là một pháp môn tối thắng,
phải nương vào luồng sóng đó để đi lên, cũng như những con cá khi bị sóng biển
đẩy vào nằm trên cạn, không rút xuống được. Còn nếu tu tịnh độ thì tương tự như
những con cá mắc trên cạn nhưng được những làn sóng khác kéo lại xuống nước,
vậy chớ nên chê bai Tịnh Độ, cho rằng đó chỉ là một pháp môn hạ liệt, để cho
những bà nhà quê thiếu học tu thôi, vả lại, nếu tu theo lối thiền, và tu tự
lực, phải giữ giới, tọa thiền liên tục trong tám mươi kiếp liên tục, mới đến
quả vị A La Hán, hay tu hơn nữa, làm bao nhiêu hạnh nguyện mới đến Bồ Tát đệ
thất địa, chưa bằng một bà nhà-quê-sang-được-Cực-Lạc, nằm
trong hoa sen vài kiếp, tùy theo từng phẩm sen, đến khi hoa sen nở, được nghe
Phật thuyết pháp, được đi cúng dường chư Phật, được các ngài thọ ký rồi lên
ngay được Đệ Bát Địa và đắc được Vô Sanh Nhẫn. Vì vậy, chư Phật mới nói pháp
môn này tối thắng, người nào không tin, không hiểu, không vào là tự cô phụ lấy
mình. Vì làm sao sức người thường có thể tu lên đệ thất địa của bồ tát được? chỉ
cần tu lên đến từng trời Tứ Thiên vương — là một tầng trời cõi dục thấp nhất —
cũng đã là rất khó, chứ đừng nói lên cao hơn. Quả thật, càng đọc kinh, càng
thấy con đường tu tự lực rất khó, nhiều ma chướng, nhiều chông gai sức người
trong thời mạt pháp này, chắc chẳng mấy ai có thể làm nổi. Nên ngài Ấn Quang
nói rằng:
– Trong thời mạt pháp,
nếu không có pháp môn Tịnh Độ thì không có cách gì độ sanh được.
Nên tôi thấy khổ tâm và
thương hại những người nào chê pháp môn Tịnh Độ, vì những người đó không hiểu
được ý của chư Phật. Ta có thể xiển dương pháp môn Thiền của mình, nhưng chớ
bài bác Tịnh Độ, vì như vậy là bài bác luôn cả chư Phật mười phương ba đời. Vả
lại, niệm Phật đây cũng là Thiền, một pháp môn thiền tối thắng được nương vào
tha lực của Phật A Di Đà.
Cơ hội thứ nhì là lúc
kiếp hoại, trong lúc ấy, chúng sanh nào không tu, cũng tự nhiên được làn sóng
của Thần Lực chư Phật và Nguyện Lực của chư Đại Bồ tát đưa lên sơ thiền, nhị
thiền, tam thiền, tứ thiền. Nên phải hiểu, đến chỗ tột cùng thì nó lại biến,
nói cách khác, đến mức độ khó khăn nhất thì lúc đó, một là tụt xuống, hai là đi
lên, điều quan trọng là phải biết nắm lấy cơ hội mà thôi.
Ngài Mã Minh đã từng
nói, trong pháp giới luôn luôn có sức huân tập của Chân Như, nó như một cái
biển lớn, khi sóng ào ào xô vào bờ (hiện tướng thành thô kệch), luôn
luôn có sức chiêu hút trở về (về Diệu Tâm), nên tất cả
chúng sanh, dù tu hay không cũng được sức huân tập ấy hút lên để trở về
Diệu Tâm ấy. Nhưng nếu chúng ta không tu, để tự nhiên cho nó hút lên thì phải
trải qua nhiều a-tăng-kỳ kiếp rất dài xa, cần khổ, lên lên,
xuống xuống trong sáu nẻo luân hồi, còn nếu biết cách tu thì nhanh hơn, và nhất
Ià biết nương vào sức huân tập ấy hay thần lực gia trì của Chư Phật và Nguyện
lực của chư Đại Bồ Tát.
Trong đạo Phật, khi ta
đến được bậc bất thối chuyển, tức là được vô sanh pháp nhẫn và được chư Phật
thọ ký, thì đó là một bước tiến quyết định rất lớn. Sang Cực Lạc, dù ở phẩm
sen nào cũng sẽ được mức bất thối chuyển. Nên, để tăng thêm tín tâm cho chư
Phật tử về con đường Tịnh Độ, hôm nay, tôi xin dành một chút thì giờ để đọc cho
quí vị nghe một đoạn kinh nói về một vị được Phật thọ ký vào bậc bất thối
chuyển, để chúng ta thấy rằng, khi được Chư Phật rờ đầu, hoặc dẫm lên tóc, lên
y của mình thì lúc đó là dấu hiệu được Phật thọ ký. Có những vị nằm lăn ra đất,
Phật bước qua chỉ dẫm nhẹ vào lưng ông ta là vị đó được thọ ký bất thối chuyển
ngay, nhưng nói thế thì thấy có vẻ dễ, chứ phải có nhiều túc duyên, tu hành
nhiều kiếp, thân, tâm thanh tịnh đến một mức độ nào mới được gặp Phật, và phải
như thế nào mới được Phật xoa đầu, hay dẫm chân trên lưng để thọ ký.
Tôi xin đọc một đoạn
kinh để ta hiểu được tâm trạng của người được thọ ký ra sao.
(Trích trong bộ Đại Bảo
Tích, cuốn 4, trang 400. Nói vồ tiền thân của đức Phật Thích Ca, lúc đó còn là
một vị Bà La Môn tên Mê Gia).
KINH: Này Xá Lợi Phất,
lúc ấy có một Bà La Môn tên là Chân Bửu ở cạnh núi Đại Tuyết (Tuyết Sơn), năm
trăm nho đồng là đệ tử. Bà La Môn Trần Bửu này được mọi người tôn trọng,
danh đức đồn xa.
GIẢNG: Vị này là một vị
thầy Bà La Môn dạy về Ấn Độ giáo.
KINH: Giỏi nghệ thuật,
thông đạt cứu cánh ba kinh Tỳ Đà, sách Ni Kiền Trà, luận Kế-La-Bà, luận Phân
biệt tự, luận Y-Đế-Ha-Bà, luận Ngũ Phật Ký, luận tùy thuận thế, luận Từ Tự Chú,
luận Trượng phu tướng, ở nơi quang minh đại giáo của tự tâm, Sư đều hiểu rành
rẽ lý thú, khéo biết khai gián.
GIẢNG: Ngài Chân Bửu là
một vị Bà La Môn, danh liếng đồn xa, biết tất cả các kinh, luận, sách về Ấn Độ
giáo, kinh Tỳ Đà (chắc có lẽ là Kinh Vệ Đà ngày nay), sách
Ni-Kiền-Trà, luận Kế-Đa-Bà, luận Y-Đế-Ha-Bà (Chữ “Ỵ” đấy chắc là về cái Y
Minh), mấy kinh này chúng ta không biết rõ, chỉ có thể đoán mò thôi.
Luận Tùy thuận thế, là luận theo thế gian, như nói đến chuyện tướng số, tốt xấu
v.v… Luận Từ tự chú, nói đến vấn đề chú thuật. Luận trượng phu tướng, bên Ấn Độ
giáo có rất nhiều sách tướng số, đại khái có những tướng như nếu lưỡi người nào
có thể lè dài chấm đến chóp mũi thì người đó trong nhiều kiếp đều nói lời chân
thật chẳng hạn. Tóm lại, vì Bà La Môn này là một vị khá giỏi, thông suốt được
nhiều việc thế gian và xuất thế gian.
KINH: Trong năm trăm đệ
tử có một nho đồng tên là Mê Già.
GIẢNG: Nho đồng là một
người còn trẻ, đồng trinh.
KINH: Trí huệ thông
đạt..
GIẢNG: Những kiếp trước
của Phật Thích Ca, ngài cũng đi học ngoại đạo rất nhiều. Tất cả những người về
sau thành tựu đạo Phật, thường những kiếp trước đều lang bang ở ngoại đạo cả,
nên thỉnh thoảng chúng ta lang bang vào ngoại đạo cũng không nên sợ quá, phải
lang bang để biết hết mới được, rồi sau mới vào đạo Phật, nhưng không biết mà
cứ lang bang mãi theo ngoại đạo thì chỉ mất thì giờ mà không đem lại một kết
quả hữu ích nào.
KINH: Trí huệ thông đạt,
tài bằng với thầy là bà la môn Chân Bửu.
GIẢNG: Học trò là ngài
Mê Già tài giỏi bằng thầy rồi, thầy dạy hết chữ rồi.
KINH: Kham làm đạo thủ…
GIẢNG: Vị Mê Già này vì
giỏi quá, nên thầy cho một chức vị đại khái như lối trưởng tràng để phụ thầy
dạy thêm những học trò khác.
KINH: Một hôm Mê Già
thưa cùng thầy rằng, đạo sư nên biết cho, tất cả kinh luận được học đều đã
thông đạt, nay tôi sẽ trở về sanh quán, làm sao báo đền được ơn đức đại sư?
Thầy bảo rằng, này Mê Già, nếu đệ từ muốn báo ơn thầy, thì dùng của báu mới tỏ
được hậu ý, đó là những gì? Nếu kiếm được đủ năm trăm đồng vàng thì đủ để tỏ
hết lòng.
GIẢNG: Thầy biết Mê Già
đã học hết chữ rồi và muốn trở về quê quán, nên nói với trò rằng, công ơn dạy
dỗ ấy phải trả bằng những của báu, quí giá như năm trăm đồng tiền vàng mới gọi
là hết lòng trả ơn.
KINH: Mê Già vâng mệnh,
kính lễ rồi từ tạ thầy ra đi. Nho đồng ấy du hành khắp trong thành, đình, quán,
quốc ốc, vương đô, xứ xứ tìm cầu của báu để tạ ơn thầy.
GIẢNG: Mê Già làm đủ các
việc ở khắp nơi để kiếm liền cùng những của báu để tạ ơn thầy.
KINH: Họp đủ số tiền ấy
rồi toan mang về báo ơn, đi lần đến chỗ thành Thạnh Liên Hoa, xa trông thấy
thành đó trang nghiêm đẹp đẽ, hỏi thăm thì biết ngày ấy có đức Phóng Quang Như
Lai (tức là đức Phật Nhiên Đăng).
GIẢNG: Trên con đường đi
về tạ ơn thầy, Mê Già đi ngang qua một cái thành trang nghiêm, đẹp đẽ, dân
chúng nói rằng vì hôm nay có đức Phật Phóng Quang Như Lai đi qua, nên dân chúng
đón tiếp rất tưng bừng long Irọng.
KINH: Hỏi thăm thì biết
ngày ấy có đức Phóng Quang Như Lai cùng hai mươi câu chi đại A La Hán và tám
vạn bốn ngàn huệ giác sắp nhập thành nên nhân dân sắm sửa cúng dường lớn,
do dó mà thành đó được trang nghiêm như vậy.
GIẢNG: Khi Mê Già vừa
nghe đến tên Phóng Quang Như Lai tự nhiên trong vô thức bừng dậy, thấy có một
niềm khát ngưỡng lạ lùng, tuy rằng đã có thầy là Bà La Môn Chân Bửu và định
mang tiền về cúng thầy rồi. Nhưng thầy bà la môn này chỉ là “thọ nghiệp
sư” tức là thầy ở nhân thế, và vì từ vô thức trỗi dậy, đã bao nhiêu
kiếp trước học với ngài Phóng Quang Như Lai này rồi, nên lòng cứ cuồn cuộn, gần
như quên phứt thầy nhân thế, mà chỉ nghĩ đến đức Như Lai này thôi nên khởi tâm
muốn lấy năm trăm đồng tiền vàng định dâng tạ ơn thầy đem cúng dường đức Như
Lai này đã, rồi sau lại kiếm tiền tạ ơn Chân Bửu sau.
KINH: Thoạt nghe danh
hiệu Phật, Mê Già nho đồng được đại hoan hỉ, lòng tin thanh tịnh tự nghĩ rằng…
GIẢNG: Ngài tự nhiên có
một lòng tin rất thanh tịnh, từ trước ngài chỉ học với vị thầy Bà La Môn thôi,
nhưng có thể những chủng tử từ nhiều kiếp trong tâm đã chín, nở ra nên tự nhiên
khi nghe danh đức Phật thấy lòng rất bồi hồi sung sướng, chỉ muốn gặp mặt mà
quên hết mọi sự khác.
KINH: Tự nghĩ rằng, chư
Phật Như Lai rất khó được gặp, rất khó thấy như hoa Ưu Đàm, như rùa mù đáy biển
gặp được bọng cây nổi.
GIẢNG: Trong đạo Phật
hay dùng thí dụ rùa mù gặp bọng cây nổi để thấy sự khó khăn, hy hữu khi được
gặp Phật. Câu chuyện kể rằng, có một con rùa mù ngoài biển khơi, cứ một trăm
năm thì nổi lên mặt nước một lần, trên mặt nước thỉnh thoảng có một khúc cây
nổi trôi bập bềnh, mà cơ hội hiếm hoi thế nào để rùa mù chui đúng vào cái lỗ
trên khúc cây nổi bập bềnh ấy. Đủ biết rằng xác xuất hiếm hoi thế nào, nên việc
gặp được Phật cũng thập phần khó khăn hơn thế. Như chúng ta đây, lang bang
không biết qua bao nhiêu ức kiếp cũng chưa có đủ túc duyên gặp Phật một lần,
chỉ nghe được lời Phật để lợi trong kinh thôi, và khi đủ túc duyên gặp được
ngài thì tất cả mọi sự gần như đã xong, đường tu cũng gần hoàn mãn.
KINH: Như rùa mù đáy
biển gặp được bọng cây nổi, cả trăm ngàn đại kiếp hoặc được gặp một lần.
GIẢNG: Một tiểu kiếp có
16 triệu 800 ngàn năm, hai mươi tiểu kiếp mới thành một trung kiếp, mà phải bốn
trung kiếp mới thành một đại kiếp. Kinh nói rằng, cơ hội của con rùa mù gặp
được bọng cây nổi phải cần cả trăm ngàn đại kiếp mới gặp một lần, đủ chứng tỏ
sự khó không thể tưởng tượng nổi. Nhưng trong kinh Nguyên thủy vàkinh Thanh Văn
nói rằng chư Phật ra đời khoảng ba trăm ngàn năm một lần, vậy mà trong kinh đại
thừa lại nói cơ duyên gặp Phật còn khó hơn nữa, một trăm ngàn
đại kiếp chưa chắc đã gặp được. Chúng ta cũng thấy, ngay trong trung kiếp chúng
ta hiện đang sống, có tám kiếp đầu không có Phật ra đời, mỗi kiếp là 16 triệu
800 ngàn năm nhơn lên tám lần như thế, đến kiếp thứ chín thì có bốn vị Phật ra
đời, kiếp thứ mười thì có ngài Di Lặc, rồi đến kiếp thứ mười lăm có 994 vị Phật
ra đời.
Vì vậy, chúng ta mới xin
vãng sanh Cực Lạc, vì gặp Phật ở cõi Ta Bà này khó quá, phần vì không có túc
duyên, phần vì nghiệp chướng sâu dày, nên chỉ còn cách niệm Phật cầu vãng sanh
thôi.
KINH: Nay ta được gặp
thật là hi hữu, phải đem năm trăm đồng vàng này mua hoa quí, cúng dâng lên đức
Phóng Quang Như Lai, rồi sẽ lại kiếm tiền khác báo ơn thầy.
GIẢNG: Mê Già tự nghĩ
rằng, thôi cơ duyên gặp Phật đây thật hy hữu, y hệt như rùa mù gặp bọng cây,
cần phải lấy tiền này cúng ngay, kẻo lỡ mất dịp, còn chuyện tạ ơn thầy sẽ tính
sau vậy. Đủ cho ta thấy, trong kinh nói lên một sự ẩn mật giằng xé trong tâm
thức ngài Mê Già, vì ngài chót học với một thầy nhân thế, học tốt cả y nho, lý
số của thầy, nhưng căn của ngài Mê Già là căn tu Đạo Vô Thượng, rồi nghĩ rằng
tất cả những gì học của thầy mình chưa ghê gớm lắm, vì vậy mới xin thôi thầy,
nhưng dù sao, ơn thầy dạy cũng phải tạ ơn. nhưng kẹt là không có tiền,
chỉ có năm trăm đồng thôi, thì cứ đem tất ra cúng dường đức Phóng Quang
Như Lai trước đã, vì đây mới là vô thượng, tối thắng, còn chuyện kia thì sau này
sẽ kiếm thêm tạ ơn sau cũng được. Kinh chỉ nói một câu rất nhẹ nhàng, như ta
cũng thấy tất cả những giằng xé diễn ra trong tâm thức của Mê Già.
KINH: Phải đem năm trăm
đồng tiền vàng này mua hoa quí tới cúng dường lên đức Phóng Quang Như Lai, rồi
sẽ lại đi kiếm tiền khác báo ơn thầy.
GIẢNG: Vì có nhiều thứ
thầy, thầy này là thầy Vô I hượng, còn thầy kia là thầy nhơn thế, thuộc về hữu
vi.
KINH: Lúc ấy có một nữ
nhân tay ôm bảy cành bông Ưu-Bát-La từ phía chợ đi lại.
GIẢNG: Đúng lúc đó lại
có một cô gái đi từ phía chợ trên tay cầm bảy bông hoa rất quí.
KINH: Mê Già đón hỏi,
nơi nào có được hoa đẹp thế này? Nữ nhân đáp, tôi ở chỗ bán vòng hoa mua những
hoa này với giá năm trăm đồng tiền vàng. Mê Già nói, hay tôi trả lại cô số
vàng này, cô có chịu trao hoa cho tôi không? Nữ nhân chẳng chịu.
GIẢNG: Trong kinh không
nói gì dài dòng, chỉ dùng chữ “chằng chịu” thôi, là ta đủ biết
cô này dứt khoát không muốn bán cho Mê Già rồi, ta thấy tất cả thái độ của vị
nữ nhân này trong chữ “chẳng chịu.” Trong kinh, khi một vị nữ
nhân gặp một người nam đề nghị điều gì mà không bằng lòng thì nàng không nói gì
cả, chỉ … chẳng chịu thôi. Thì ra, vị nữ nhân này đối với Mê Già cũng tương tự
như ngài A Nan với nàng Ma Đăng Già, tức là có nhiều kiếp làm vợ chồng, cũng có
nhiều kiếp tu hành làm huynh muội mà vẫn dằng xé giữa tình đạo và tình đời, đến
kiếp này thì chấm dứt tình đời và chuyển hóa thành tình đạo. Nay, ta xem sự
chuyển hóa của vị nữ nhân và Mê Già như thế nào…
KINH: Nữ nhân chẳng
chịu, Mê Già lại nói, nay tôi có năm trăm đồng tiền vàng đây, cô giữ lấy một
mình còn bảy cánh hoa này hai người cùng dùng chung có được chăng?
GIẢNG: Anh này đề nghị
cũng khéo, tiền vàng thì nàng hãy giữ lấy một mình, còn hoa thì cả hai dùng
chung được chăng? Chữ “dùng chung’ này chỉ một tâm thức của Mê
Già chịu đi cùng một con đường với người nữ nhân này, chỉ vì muốn cầu đạo Vô
Thượng. Chỉ một câu nói, ta nhìn thấy được tất cả tâm tư tha thiết của Mê Già.
KINH: Nữ nhân hỏi, anh
muốn dùng hoa này làm việc gì? Mê Già đáp, tôi sẽ đem cúng dường đức Phóng
Quang Như Lai.
GIẢNG: Tôi thật sự phục
những câu kinh, kinh như dòng ngọc, như lưu ly, nhẹ nhàng và cảm động, hay hơn
tất cả những sách tiểu thuyết thế gian gấp bội lần.
KINH: Nữ nhân nói, cứ
như lời anh nói thì từ nay về sau, đời đời thường có lòng thương tưởng làm
chồng tôi.
GIẢNG: Thế nghĩa là nàng
hiểu rõ rằng chàng Mê Già này có duyên với mình, chứ không phải gặp người nào
cũng nói thế được đâu. Phải chính người khách duyên nợ thì tự nhiên lòng chuyển
nên mới nói được như Ihế. Tại sao nàng lại nói thế? “…thường có lòng
thương tưởng làm chồng tôi…” vì anh thạ thiết đến mức độ đề nghị vàng
cho nàng (của cải hữu lậu) giữ riêng, còn chàng và nàng cùng
đem hoa này cúng dường (công đức vô lậu) Đức
Phật. Nói một cách khác, ý chàng muốn là có dính líu huệ mạng đối với nàng, tức
là chàng có lòng thương tưởng đến nàng nên mới đề nghị thế. Sự dính líu trai,
gái trong kinh tả rất hay, mà luôn luôn kết cuộc cũng từ tình đời chuyển thành
tình đạo.
KINH: nếu chịu như vậy,
tôi sẽ giao cho anh hoa này.
GIẢNG: Ý nàng nói rằng,
nếu anh có lòng luyến tôi, mà từ nhiều kiếp chúng ta dính líu tơ duyên với
nhau, thì tôi không cần lấy vàng nữa, mà cùng đi cúng dường bó hoa
này lên Phật Phóng Quang Như Lai.
KINH: Mê Già nói, thôi
đi!
GIẢNG: Chữ “thôi
đi” tôi cho là rất hay và mang nhiều ý nghĩa dứt khoát, chẳng chịu của
Mê Già, vì chàng không muốn… rắc rối thêm nữa.
KINH: Mê Già nói, thôi
đi! cô chớ nói như vậy, tại sao? vì tánh nữ nhân giao động nhẹ dạ, nhiều phóng
túng.
GIẢNG: Mê Già không chịu
vì chàng biết dính líu vào một vị nữ nhân nào thì cũng… nhiều rắc rối và tính
tình họ dễ giao động, nhẹ dạ, nhiều phóng túng v.v… bao nhiêu thứ ấy, nghĩ tới
đã thấy… phiền lắm rồi, nên Mê Già… chẳng chịu.
KINH: Tôi không thể hứa
nhận lời cô được.
GIẢNG: Ở đoạn kinh này,
không phải là nói xấu hay khinh thường gì nữ nhân đâu. Đừng tưởng đạo Phật coi
thường nữ nhân, trong kinh Đại Bảo Tích có nhiều trường hợp nữ nhân rất ghê
gớm, nói chuyện ngang hàng với đức Phật và ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Nên phải
hiểu rằng đạo Phật không có tướng nam, nữ, lên đến tột cao thì tất cả đều đến
chỗ trượng phu tướng, vì vậy mới có bộ luận Đại Trượng Phu.
KINH: Vả lại tôi sẽ ở
trong vô số kiếp tu tập Phật pháp, bố thí rộng lớn.
GIẢNG: Cũng giống như
trường hợp của Thái Tử Đại Oai Đức trong kinh Hoa Nghiêm, nói với nàng Cụ Túc
Diệu Đức. Chàng nói rằng, từ giờ tôi sẽ đi trên con đường Bồ tát làm hạnh bố
thí, không những tiền của mà cả thân tôi nữa, cả vợ, con thân bằng quyến thuộc
thì nàng có chịu được không?
KINH: Hoặc tiền của, sản
nghiệp, hoặc ngôi vua, thành ốc hoặc vợ con, hoặc đầu mắt xương tủy, đại khái
tất cả trong thân, ngoài thân, không vật gì mà chẳng bố thí, hoặc có lúc
sẽ bỏ cô mà vào trong phật pháp xuất gia.
GIẢNG: Đại khái Mê Già
nói rằng, tâm chàng đã quyết đi trên con đường Bồ Tát hạnh,sẽ bố thí tất cả
những gì sở hữu thuộc về mình trong thân (chánh báo), ngoài
thân (y báo), tức là bố thí ba la mật.
KINH: Tánh nữ nhơn giao
động, nhẹ dạ, phóng túng…
GIẢNG: Mê Già lại nhắc
lại lần nữa về tánh tình người nữ, giao động, nhẹ dạ, phóng túng, không phải vì
Mê Già muốn chê nữ nhân đâu, nhưng nữ nhơn người nào cũng thế cả.
KINH: Lúc tôi tu bố thí
lớn cô có thể làm chướng ngại hạnh đại xả của tôi.
GIẢNG: Đây, quí vị nghe
lời nữ nhơn trả lời, tôi cho là rất khẳng khái, và quyết chí muốn cùng đi trên
con đường bồ tát đạo với chàng Mê Già.
KINH: Nữ nhơn trả lời,
thiệt như lời anh nói thì có lợi ích cho tôi.
GIẢNG: Tức là trong
nhiều kiếp, nàng đã làm khó khăn sự tu hành của chàng, nhưng kiếp này nàng đã
hiểu rằng mình cùng phải đi bồ tát đạo với chàng thì mới có thể đến được đạo
giải thoát. Vì nếu chàng bố thí, thì nàng cũng được lợi ích lớn.
KINH: Dầu cho hiện nay
anh có đem thân của tôi đây bán lấy một đồng bạc, lòng tôi cũng không hối,
quyết chẳng làm ngại sự bố thí của anh, hoặc chặt thân tôi ra thành từng đoạn
để xả thí, quyết cũng không đổi lòng làm trở ngại tu tập Phật pháp của anh.
GIẢNG: Chúng ta thấy
rằng, dù là một vị nữ nhơn, nhưng tâm tư người xưa lớn lao như vậy, ở đời này
có ai dám nói những lời như thế? Ngay chúng ta đây, chắc cũng phải tu tập nhiều
đời, nhiều kiếp mới có thể khẳng khái nói những lời như trên, “hoặc
chặt thân tôi ra từng đoạn để xả thí, quyết cũng không đổi lòng làm trở ngại tu
tập Phật pháp của anh.” nàng nói được câu này vì nàng đã tu đến mức
nhìn thấy thân này chỉ là huyễn mộng, và đến chỗ sẽ có tất cả mọi thứ, nên sắc
thân này, không lúc nào không có, chỉ vì tập khí nhiều kiếp nên ta chấp là có
thật và khởi tâm chấp có sống, có chết.
KINH: Mê Già nói, nếu cô
có thể bằng lòng như thế thì được, cô nên mau trao hoa cho tôi, nữ nhơn cầm
hoa, trao cho Mê Già.
GIẢNG: Ta thấy, tâm tu
người xưa rất lớn, chỉ cần vài câu nói thôi, nhưng cũng như một ấn quyết hứa
hẹn, không gì lay chuyển được.
KINH: Được hoa, Mê Già
tức thì đến chỗ đức Phật, xa trông thấy đức Phóng Quang Như Lai cùng vô lượng
đại chúng oai nghi tương tự vô lượng trăm ngàn công đức trang nghiêm từ đầu kia
đi lại. Thấy đức Phật Thế tôn, Mê Già sanh lòng tin thanh tịnh vô lượng hoan
hỉ, kính mến, đến trước Phật kính lạy bao xiết vui mừng, lại thấy nhiều người
trải y vô giá để cúng dường đức Phật…
GIẢNG: Lúc bấy giờ đức
Phật đi qua một con lộ đầy bùn, những người tới đón Phật vội cởi áo mình ra
trải xuống đường lót chân Phật.
KINH: Mê Già tự nghĩ
rằng, nay tôi không có y tốt, chỉ có cái y da hưu xấu này, nên trải giữa đường
đỡ chân đức Phật.
GIẢNG: Chàng Mê Già chỉ
có mỗi một cái áo da hưu xấu thôi, những cũng vội cởi y trải trên đất. Nhưng
cúng dường cốt yếu là từ cái tâm mình, còn đồ cúng dường chỉ là thứ yếu thôi.
Dụ như có một người nghèo, chỉ còn mỗi cái khố che thân, hay một cái áo rách,
mà muốn khởi tâm cúng dường với áo rách ấy còn hơn một vị vua cúng dường hằng
trăm ngàn lạng vàng, vì tất cả những gì tư hữu của mình đều đem lên cúng dường
Phật hết. Bố thí cũng thế, tùy theo của cải chúng ta có, nếu bố thí mà chỉ chọn
những cái sắp vất đi, hoặc xấu xí không thích mặc nữa, hoặc đồ dư thừa thì
không bằng một người chỉ có một manh áo, một miếng cơm mà hoan hỉ bố thí thì
công đức của người này hơn trăm vạn lần công đức của người trên, vì tất cả vấn
đề là sự xả bỏ. Đạo Phật dạy chúng ta những điều rất khó làm, vì vậy cả Ấn Độ
ít người theo, vì… khó xả bỏ quá!
KINH: Lúc ấy, mọi người
đua nhau đến lấy y da đem bỏ ngoài xa, và đều cười trách rằng, sao lại vì đấng
báu quí nhất trong đời mà lại trải cái y da hưu xấu này?
GIÁNG: Dân chúng cùng đi
đón Phật mang y hưu của Mê Già vất ra xa, cười chê rằng y này xấu xí thế mà
trải ở đây làm gì? Đây cũng là thêm một thử thách sự nhẫn nhục của Mê Già, nếu
nhẫn được lại càng có thêm công đức.
KINH: Mê Già vội chạy
lượm y rồi đem trải trên chỗ đường ướt bên đường ngã tư mà nghĩ rằng, Phóng
Quang Như Lai đấng Đại Từ Bi thương sót tôi, mắt thấy khắp của Phật và trí biết
khắp của Phật thấy biết hiện việc này mong Phật lấy chân đạp lên y da hưu của
tôi.
GIẢNG: Dân chúng trải y
tốt trên con đường Phật sắp đi qua, không trải lên bùn lầy, còn Mê Già chỉ có
một y da hưu xấu xí nên đành mang ra chỗ bùn lầy trải lên, và mong rằng đức
Phật với mắt thấy khắp và trí biết khắp sẽ nhìn được tâm tư thành kính của con
mà đi qua đặt chân lên y con là con đã mãn nguyện lắm rồi.
KINH: Phóng Quang Như
Lai cảm thương liền lấy gót chân dẫm lên y da hưu của Y, thấy vậy, Mê Già lòng
vui mừng hớn hở, liền đem hoa Ưu Bát La ném lên trên không phía trên đức Phật.
GIẢNG: Chúng ta khi cúng
dường chư Phật thường mang hoa bỏ trong bình chậu, nhưng trong kinh thường kể,
những vị tu hành cao, khi gặp Phật cúng dường hoa ném lên trên không trung cho
rơi trên đức Phật, và bao glờ cũng vậy, do thần lực Phật gia trì những cành hoa
ấy, kết thành đài đứng trên không, có khi đài hoa tỏa rộng khắp cả pháp giới.
Đó gần như là một tục lệ, khi gặp Phật được thọ ký thì ném hoa lên hư không
cúng dường đức Phật.
KINH: Trên hư không lại
có vô lượng chư Thiên đồng thời rải hoa trời Mạn Đà La, Ưuu Bát La, Bát Đầu Ma,
Câu Vật Đầu, Phân Đà Lợi và các thứ hương trời, chiên đàn, hương bột ,âm nhạc
trời, thanh ca trời vang khắp hư không cùng cúng dường Phật. Hoa của Mê Già ở
riêng một chỗ trên không biến thành vô lượng ngàn hoa Ưu Bát La, cánh hoa đều
thòng xuống hiệp thành lọng hoa bay theo trên Phật.
GIẢNG: Khi một vị Bồ Tát
tu lên đến chỗ gần được thọ ký thì được nhiều thần lực lạ lùng, và những thần
lực này phần nhiều đều do Phật gia trì.
KINH: Thấy như vậy, Mê
Già thêm hớn hở, phát khởi lòng tin thanh tịnh trước Phật, tháo mở búi tóc mầu
hoàng kim mười hai năm để trải trên đất và phát nguyện vô thượng đại bồ đề:
“Đời sau nếu tôi được thành Phật thì nay xin đức Phóng Quang Như Lai đưa tay an
ủi.” Lại phát thệ lớn kiên cố rằng: “Nếu đức Phật lấy gót chân chẳng đạp trên
tóc tôi, tay chẳng đưa an ủi tôi, chẳng thọ ký bồ đề cho tôi, thì tôi quyết
định chẳng đứng dậy mà chết khô trên chỗ đất này.”
GIẢNG: Khi đức Phóng
Quang Như Lai đã đạp lên y của Mê Già, thì lúc đó trong tâm Mê Già khởi lòng
vui hớn hở, ngài liền lấy tóc mình để dài trong mười hai năm trải lên đất bùn
đó cho đức Phật đi qua, sau đó liền phái thệ ngay rằng, nếu Phật không đi trên
tóc tôi, cũng không đưa tay quán đảnh hoặc không thọ ký cho tôi đời sau này
thành Phật thì tôi sẽ quyết chết khô tại chỗ này. Đọc đến đây, ta thấy tâm
trạng quyết liệt lớn lao của người tu hành đời xưa vững chắc như thế, không có
gì có thể lay chuyển nổi, coi thân xác như bèo bọt, mà chỉ quan tâm đến tâm linh
thôi.
KINH: Này Xá Lợi Phất,
Phóng Quang Như Lai ứng Đẳng Chánh Giác, có mắt thấy khắp, có trí biết khắp,
trong ba đời không sự việc gì mà không thấu tỏ, biết rõ dục giải của Mê Già…
GIẢNG: Dục giải là lòng
mong muốn của Mê Già.
KINH: Nên đức Phật cất
gót dẫm lên tóc Mê Già.
GIẢNG: Sau khi dẫm lên,
ngài quay lại bảo các vị đệ tử Thanh Văn…
KINH: Rồi ngài ngó bên
hữu bảo chư Thanh Văn đại chúng rằng, này chư tỳ kheo, các ông chớ đạp lên tóc
này, vì nho đồng này sau này vô số kiếp sẽ thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni.
GIẢNG: Các vị Thanh Văn
không thể đạp lên tóc một vị Bồ Tát được, vì căn cơ còn thấp quá, vì đó là trái
với cái tôn ty về tâm linh trong pháp giới này. Cũng có nhiều đoạn trong kinh
kể nhiều vị Bồ Tát được thọ ký, khi đức Phật đi qua lấy chân dẫm lên lưng (vì
vị Bồ Tát ấy nằm lăn ra đường chờ mong Phật dẫm vào lưng
mình), sau khi Phật ấn chân lên lưng thì vị Bồ Tát đó được Vô Sanh
Pháp Nhẫn ngay, tức là được thọ ký. Khi đắc vô sanh pháp nhẫn rồi, thì thần
thông biến hóa, đi xuống thế gian, thị hiện làm người, tuy gá vào thai người
đàn bà nhưng đó chỉ là thị hiện thôi, kỳ thực là hóa sanh và gọi là “pháp
thân Đại Sĩ.” Vì khi lên đệ bát đia, tức Biến hóa địa tức đắc vô sanh
nhẫn, thì phá được ngã chấp, xóa bỏ được cái ngã của mình, và xóa được tám phần
pháp chấp, nên Bồ Tát có “pháp thân’ toàn thân trong sáng như
lưu ly, trong thân không còn hộ trùng, nên không phải bị thai sanh, chỉ hóa
sanh, không còn bệnh tật, không phải ăn uống, hay bị đói khát. Chúng ta, những
Phật tử trong ban kinh này, chỉ mong được đến mức đó thôi, đến chỗ này, vô sanh
pháp nhẫn, là công việc làm gần như xong, và lúc đó có thể thực hành hạnh
nguyện độ sanh của mình được rồi.
KINH: Chư tỳ kheo Thanh
Văn chớ đạp lên tóc này, vì sao? Vì nho đồng này sau nầy vô số kiếp sẽ thành
Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Này Xá Lợi Phất, lúc ấy Mê Già nghe Phật thọ ký,
hớn hở vui mừng, liền bay lên hư không cao bảy cây đa la chứng được trăm ngàn
câu-chi na-do-tha chánh định vô động, (định vô trụ).
GIẢNG: Khi một vị Bồ Tát
được thọ ký bao giờ cũng bay lên hư không cao bảy cây đa la, (trong
kinh không nói rõ một cây đa la bao nhiêu thước). Một người có thể giữ
thân mình đứng trên hư không là một người đức hạnh rất cao, nếu không phải một
vị Bồ Tát lớn thì không thể đứng trên hư không được. Như trong kinh Đại Bảo
Tích kể có ngài Chúng Tôn Vương Bồ Tát bị ngài A Nan mách Phật rằng, Bạch Thế
Tôn sáng nay con đi khất thực ngoài thành, con thấy vị Bồ Tát Chúng Tôn Vương
ngồi chung giường với người đàn bà. Phật chưa kịp nói gì thì vị Bồ Tát này liền
bay lên hư không, cao bảy cây đa la mà bảo A Nan rằng, này Đại Đức, Đại Đức có
thấy người nào phạm giới mà đứng trên hư không được không? Một thí dụ khác
trong kinh Hoa Nghiêm là ngài Thiện Trụ tỳ kheo là vị thiện tri thức thứ ba
Thiện Tài gặp trên con đường tìm cầu thiện tri thức, thấy ngài đang đứng giữa
hư không, Thiện Trụ có nghĩa là khéo trụ không nghiêng về bên này hay bên kia,
tâm phải giữ giữa cái có và cái không thì mới thăng bằng được, vì vậy đạo Phật
là đạo phi có không.
Trở lại đoạn kinh hồi
nãy. “…Liền bay lên hư không cao bảy cây đa la, chứng được câu
chi na do tha chánh định“, trường hợp này cũng hơi giống như ngài Thiện Tài
đến gặp vị thiện tri thức Bà La Môn Thắng Nhiệt, khi nhảy xuống đống lửa giữa
núi đao lớn, trong thời gian tới xuống, ngài đắc được vô lượng tam muội.
KINH: Do thần thông trí
lực, xem thấy phương đông có hằng sa vô lượng chư Phật đều thọ ký cho mình
rằng, này nho đồng, sau này vô số kiếp ngươi sẽ thành Phật hiệu là Thích
Ca Mâu Ni, ba phương kia, bốn phương thượng hạ, mười phương chư Phật cũng đều
thọ ký.
GIẢNG: Một khi một vị
Phật thọ ký thì mười phương chư Phật đồng thọ ký cả. Cũng như trong kinh A Di
Đà nói người sang được Cực Lạc sau khi nghe Phật thuyết pháp sẽ bay đi mười
phương cúng dường mười phương chư Phật và được nghe các ngài thọ ký cho mình.
KINH: Được chư Phật thọ
ký an ủi rồi, Mê Già từ trên không đến chỗ Phật, do lòng tin mà xuất gia tu tập
phạm hạnh kiên cố thanh tịnh.
GIẢNG: Sau khi được thọ
ký, Mê Già đến chỗ Phật xin xuất gia ngay, sau đó đức Phật chỉ nói: “Thiện
lai tỳ kheo” thì râu tóc Mê Già tự rụng thành tỳ kheo đắc vô sanh pháp
nhẫn. Trong kinh không nói Mê Già sau này đối với thầy nhân thế ra sao, dĩ
nhiên, sự báo ơn bắt buộc sẽ có, nhưng kinh chỉ ngừng ở đây mà thôi.
Trong kinh Hoa Nghiêm
phẩm thứ 35 nói rất rõ rằng, người không biết ơn, riêng cái không biết ơn ấy,
cũng có thể đọa địa ngục rồi, nhất là những cái ơn về đạo.
KINH: Này Xá Lợi Phất,
nho đồng Mê Già thuở ấy chính là thân ta vậy. Nếu có đại Bồ Tát muốn sớm được
Phật thọ ký, thì nên ở nơi pháp môn vi diệu bồ tát tạng, nghe tụng, hiểu nghĩa
dạy lại người, lại nên tu hành chánh hạnh giữ giới.
GIẢNG: Ý ngài muốn
khuyến tấn các hàng tỳ kheo tu theo bồ tát đạo. “phải nên tu pháp môn
vị diệu Bồ Tát tạng…” Bồ Tát tạng là con đường bồ tát tu hành sáu ba
la mật, và nhất là phải tu hành chánh hạnh vô tướng, tu quán tưởng tâm không
tịch, vô tướng, vô tác. Tại sao phải tu bát nhã, vô tướng? Vì ngài đã nhiều
kiếp tu hành, nhiều lần đã gặp Phật mà không hề được Phật thọ ký, vì ngài tu toàn
những hạnh hữu tướng. Lần này, gặp đức Phật Nhiên Đăng ngài tu vô tướng, vô
công dụng nên được thọ ký. Như vậy, chúng ta thấy rằng tu hành theo lối bát nhã
ba la mật rất sâu, rất cần khổ, khó làm, vì phải xả bỏ tất cả đến mức độ không
còn thấy mình, thây người, thây chúng sanh, thấy thọ mạng v.v… nữa.
KINH: Tại sao? Vì ta nhớ
lúc trước khi gặp đức Phật Phóng Quang Như Lai, không có pháp hạnh bạch tịnh
nào mà ta chẳng tu hành, dầu vô lượng cần khổ như vậy nhưng chẳng được Phật thọ
ký, tại sao? Vì là hữu tướng tu.
GIẢNG: Ngài đã tu tất cả
mọi thứ hạnh như tu bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định v.v…
nhưng không có bát nhã, vì chỉ có hữu tướng tu thôi.
KINH: Sau đó ta mới ở
nơi pháp môn vi diệu đại Bồ Tát tạng nghe học an trụ chánh hạnh.
GIẢNG: An trụ chánh hạnh
là gì? Như trong kinh Thắng Man, công chúa Thắng Man cũng nói, thọ trì an trụ
chánh hạnh là tu tập tất cả hạnh nguyện mà tâm vẫn giữ không tịch, tức là tu
tập theo đại bát nhã.
KINH: Đó là vô tướng
hạnh, vô công dụng hạnh.
GIẢNG: Đại Bồ Tát từ đệ
thất địa trở lên phải tu vô công dụng hạnh.
KINH: Và vô sở đắc hạnh.
GIẢNG: Tức là bát nhã,
không thấy gì gọi là có sở đắc cả.
KINH: Tu tập vô tướng
như vậy nên được đức Phóng Quang Như Lai thọ ký. Này Xá Lợi Phất, ta nhớ lúc
đầu lúc gặp đức Phóng Quang Như Lai, ta được siêu quá tất cả hạnh hữu tướng.
GIẢNG: Lúc gặp đức Phóng
Quang thì ngài được siôu tất cả các hạnh hữu công dụng, hữu tướng, mà tu hoàn
toàn theo lối vô công dụng.
KINH: Lúc mới thấy Phật
ta được tùy giác tánh tất cả pháp, lại được thông đạt tự tánh vô sanh của tât
cả vật.
GIẢNG: Chì có thấy Phật
thôi mà được tùy giác Linh tất cả pháp, tức là thấy tất cả pháp tuy có giác
tánh nhưng đều là tánh không, không có pháp nào thực có, vì tất cả pháp điều là
huyễn mộng, chỉ hiện lên thôi.
KINH: Lại được thông đạt
tự tánh vô sanh tất cả pháp. Kế đó đức Phật thọ ký cho ta rằng Mê Già nho đồng
sau này vô số kiếp sẽ thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni. Đương lúc Phật thọ ký ta
chứng được vô sanh pháp nhẫn.
GIẢNG: Sự thọ ký và
chứng được vô sanh pháp nhẫn thường đi liền với nhau. Thỉnh thoảng trong Bát
Nhã, tôi có ý giảng chen vào một vài đoạn trong kinh Đại Bảo Tích, vì nói cả
Chân Không lẫn Diệu Hữu cho đỡ khô khan, chứ chỉ giảng thuần kinh Đại Bát Nhã
thì khô như sỏi, dễ làm nản lòng người nghe. Nó khô vì nói về trừu tượng nhiều
quá, người nghe nhiều khi thấy hoảng sợ, vì không biết chỗ nào để nắm cả. Nên
Phật nói, pháp của ta khó tin, khó hiểu, khó vào là vậy.
HỎI: Các ngài Lạt Ma của
Tây Tạng, có phải hiện thân của ngài Quán Âm không?
ĐÁP: Truyền thuyết Tây
Tạng vẫn cho ngài Lạt Ma Ma vị hóa thân
Bồ Tát của ngài Quán Thế Âm, hay hóa thân của ngài Chuẩn Đề (cũng là một hóa
thân của ngài Quán Thế Âm). Nhưng riêng tôi, chúng ta ngồi đây mà chỉ luận về
các vị đó cũng như những người đứng dưới núi, chỉ chỏ bàn luận, đoán mò về
những gì ở trên đỉnh núi cao. Nói tóm lại, ta chỉ biết vị đó tượng trưng
cho một cái gì cao thôi, chứ không biết đích rằng các vị ấy có phải là hóa thân
bồ tát hay không. Vả lại, còn phải tùy theo tâm thức của mỗi hành giả nhìn vào
nữa.
HỎI: Xin hỏi ông mối
tình của Mê Già và vị nữ nhân kia sau này ra sao? Vì tôi thấy nàng thề thốt ghê
quá mà không biết có thực hiện những gì nàng nói không?
ĐÁP: Có thể ông chưa đọc
nhiều kinh nên không có lòng tin những lời nguyện của những nhân vật trong
kinh. Dù là nam nhân, hay nữ nhân khi họ phát những thệ nguyện lớn, thì đó như
một cái ấn của nhà vua ấn xuống chiếu chỉ. Cũng vậy, những lời nguyện của chư
vị này cũng như cải ấn, ấn xuống tâm, không bao giờ lay chuyển. Ta cũng cần
phải hiểu rằng, tâm người xưa họ mênh mang và kiên quyết hơn chúng ta bây giờ
nhiều lắm, như ở phẩm Thập hồi hướng trong Kinh Hoa Nghiêm, các vị Bồ Tát mới
chỉ ở mức sơ phát tâm mà có thể phát những thệ nguyện rộng lớn mà nếu so với chúng
ta, không có ai dám phát được một phần trăm, phần ngàn như vậy.
Trở lại câu chuyện dính
líu về nam, nữ, trong kinh Hoa Nghiêm cũng có kể một vài trường hợp, và trong
kinh Lăng Nghiêm cũng kể chuyện của ngài A Nan cùng nàng Ma Đăng Già. Phần
nhiều những cặp như vậy họ dính líu với nhau mấy trăm kiếp rồi, đã là vợ chồng
với nhau, trong thời gian ấy, một trong hai người muốn đi tu, người kia vì
luyến ái quá nên phá, hay làm huynh muội cùng tu một thầy, vì vậy, giữa họ
phảng phất tình đời và tình đạo giằng co nhiều kiếp, đến một kiếp nào đó thì
được chuyển hóa. Trường hợp giữa Mê Già và vị nữ nhân kia, trong kinh chỉ kể
đến đó thôi, vì nói cũng rất rõ rằng, từ này trở đi, cả hai đều cùng tu bồ tát
đạo. Cũng như ngài Đại Ca Diếp, ông là con một vị Bà La Môn rất giàu có, bố mẹ
muốn giữ ngài lại không cho đi tu, nhưng trong nhiều kiếp ngài tu hạnh đầu đà,
(Tu theo tứ y: Thứ nhất, mặc y phấn tảo, lấy những miếng vải rách ngoài bãi
tha ma, mang về giặt đi, khâu lại trăm miếng thành một chiếc áo mặc, gọi là y
trăm miếng, nó tượng trưng cho sự thanh tịnh. Thứ hai, không được ngủ giường
nệm, phải ngủ dưới gốc cây. Thứ ba, phải ngồi thiền quán ở nghĩa địa. Thứ tư là
không được uống thuốc, chỉ uống thuốc thừa của người khác). Tóm lại,
người tu theo tứ y coi thường thân mạng như thế, không có một cái gì để trìu
mến thân mạng cả, ngài Ca Diếp tu theo lối đó. Lúc chưa đi tu ngài ở nhà rất
giàu có, bố mẹ muốn giữ con nên cưới cho ngài một cô vợ thật đẹp, người nàng
như được dát vàng vậy, kinh nói đó là người có mầu da hoàng kim, hai vợ chồng ở
với nhau mà không có sự tham dục, cùng coi nhau như bạn đồng tu thôi, đến một
ngày, cả hai cùng dắt nhau đi qui y đức Phật. Đó là những mối liên hệ nam, nữ
đã đi đến giai đoạn chuyển hóa vào tình đạo.
HỎI: Trong đạo Phật có
phân biệt nam, nữ không?
ĐÁP: Khi còn là phàm
phu, dưới thấp thì có phân biệt. Tỳ kheo ni khi thọ giới phải thọ 348 giới,
trong khi tỳ kheo chỉ có 250 giới thôi, mà sư nam thì hình như có thể phạm giới
nhẹ được bảy lần, còn ni sư phạm giới một lần là thôi luôn, không còn cơ hội để
tu được nữa. Vì sao? vì khi còn mức độ phàm phu, nếu làm thân người nữ thì
nghiệp chướng rất nặng, tâm lại giao động, nhẹ dạ, phóng túng, đam mê nhiều.
Nên lúc đầu đức Phật mới thị hiện không cho bà Kiều Đàm Di xuất gia, không phải
rằng ngài “kỳ thị” nam nữ đâu, nhưng ngài muốn nhấn mạnh người nữ nghiệp nặng
hơn, nên phải giữ giới nhiều hơn, ngài còn nói rằng, cho người nữ xuất gia,
chánh pháp của ngài ngắn mất 500 năm. Người nữ thì cũng không được làm Ma
Vương, Chuyển Luân Vương, Vua Đế Thích và cũng khồng thể thành Phật được. Nhưng
tu hành lên cao thì không còn tướng nam, nữ mà chỉ có tướng trượng phu thôi,
(thân trượng phu là cái dương căn thụt vào trong như con hương tượng vậy, tức
là tình dục không còn nữa), nhưng nếu có tướng nam, nữ thì chỉ là thị hiện để
giáo hóa chúng sanh mà thôi.
HỎI: Nhưng tôi thấy đôi
khi người nữ tâm hồn họ còn cứng rắn hơn người nam nữa.
ĐÁP: Đúng vậy, chẳng nói
đâu xa, trong ban kinh chúng ta cũng có một vị nữ nhân khẳng khải như trượng
phu vậy. Nhưng nói trên phương diện chung, người nam có trí huệ hơn, ít hờn
giận hơn, chóng quên hơn, trải lại người nữ lại kiên trì hơn, đam mê nhiều hơn,
nên tất cả chùa chiền ở Mỹ có được phần lớn cũng do người nữ mà ra cả. Còn ở
Việt Nam tranh đấu Phật giáo trong thời kỳ Ngô Đình Diệm cũng một phần do người
nữ. Ngay trong việc tình duyên, người nữ đam mê lâu hơn người nam nhiều.
Bây giờ chúng ta đi vào
Hoa Nghiêm …
KINH: Bấy giờ Di Lặc Bồ
Tát nhiếp thần lực trong lâu các, đàn chỉ ra tiếng bảo Thiện Tài rằng…
GIẢNG: Lúc này, ngài Di
Lặc đánh thức Thiện Tài ra khỏi tam muội sau khi đã viếng thăm tất cả những chỗ
trong lâu các.
KINH: Thiện nam tử dậy!
pháp tánh như vậy. Đây là những tướng trí biết các pháp của Bồ Tát làm nhơn
duyên tu tập mà hiện ra. Tự tánh như vậy, như huyễn, như mộng, như ảnh, như
tượng đều chẳng thành tựu.
GIẢNG: “Đều
chẳng thành tựu” tức là đều không có thực, chỉ như mộng huyễn thôi.
Khi Thiện Tài vào trong lâu các, do sức gia trì của ngài Di Lặc, đồng thời cũng
do sức thiện căn của mình mà trông thấy tất cả những nhân duyên như vậy.
KINH: Nghe tiếng đàn
chỉ, Thiện Tài liền từ tam muội dậy. Di Lặc Bồ Tát nói: Nàỵ thiện nam
tử, ngươi ở trong giải thoát tự tại bất tư nghì của Bổ Tát thọ những hỉ lạc tam
muội của Bồ Tát…
GIẢNG: Ý ngài Di Lặc
nói, khi Thiện Tài vào trong tam muội ấy thọ được những hỉ lạc của tam muội ấy
và thấy những cảnh giới như vậy.
KINH: Có thể thấy cung
điện trang nghiêm của Bổ Tát thần lực gia trì, của trợ đạo lưu xuất, của nguyện
trí hiển hiện. Ngươi thấy bồ tát hạnh, nghe bồ tát pháp, biết bồ tát đức, rõ
Như Lai nguyện. Thiện Tài thưa, Bạch Đại Thánh, đây là sức oai thần gia hộ ghi
nhớ của thiện tri thức.
GIẢNG: Do sức gia trì
của ngài Di Lặc và các vị thiện tri thức cũng do thiện căn của Thiện Tài nên
hiển hiện ra như thế.
KINH: Bạch Đại Thánh,
môn giải thoát này tên là gì? Di Lặc Bồ Tát nói, này thiện nam tử, môn giải
thoát này tên là tạng trí trang nghiêm nhập tất cả cảnh giới ba đời chẳng quên
mất.
GIẢNG: Ý ngài muốn nói
trong bạch tịnh thức của ngài đó là một cái kho lớn vừa chứa trí huệ, quang
minh, đại bi v.v.., trong ấy có tất cả những chủng tử của các cảnh giới ba đời,
và do sức nguyện và tam muội của ngài nên hiển hiện ra hết, không có cái gì là
không hiện ra. Nên mới gọi là “Tạng trí trang nghiêm nhập tất cả cảnh
giới ba đời chẳng quên mất.”
KINH: Này thiện nam tử,
trong môn giải thoát này có bất khả thuyết bất khả thuyết môn giải thoát, là
chỗ chứng đắc của Bồ Tát Nhất Sanh Bổ Xứ.
GIẢNG: Trong bạch tạng
thức của ngài là chỗ chứng đắc của các Bồ Tát nhất sanh bổ xứ, như vậy là tàng
thức bao trùm pháp giới.
KINH: Thiện Tài hỏi, sự
trang nghiêm này đi về đâu?
GIẢNG: Ý Thiện Tài muốn
nói, ngài cho con xem lâu các ấy với tất cả sự trang nghiêm cảnh giới Phật
trong ấy đi về đâu?
KINH: Di Lặc Bồ Tát nói:
“Đi về nơi chỗ đến.” Thiện Tài hỏi: “Từ chỗ nào đến?” Di
Lặc Bồ Tát nói: “Từ trong trí huệ thần lực của Bồ Tát mà đến, nương
thần lực của Bồ Tát mà an trụ, không có chỗ đi, cũng không có chỗ trụ, chẳng
phải tích tập, chẳng phải thường hằng, xa rời tất cả.”
GIẢNG: Ở đoạn kinh này,
ngài trở lại theo lối nói đệ nhất nghĩa đế, sau này ngài mới nói theo lối thế
đế. Nếu nói theo đệ nhất nghĩa đế thì tất cả những sự xảy ra trong tàng thức
của ngài không có đến, không có đi, chỉ hiện ra thôi, tùy theo căn cơ tương ưng
thì nó hiện lên cảnh giới ấy, chứ thực ra nó không từ chỗ nào đến, cũng không
đi đến đâu. Vì sao thế? vì nó đến từ thần lực của tâm ngài Di Lặc, rồi an trụ
trong thần lực đó, sau lại biến đi vào trong thần lực ấy, nói tóm lại, tất cả
đều do thần lực của tâm ngài mà thôi. “Chẳng phải tích tập…” theo
quan niệm của phàm phu, tích tập là gom góp lại, tích lũy lọi để trở thành một
cái gì, nhưng Bồ Tát biết rằng, tất cả cảnh giới, của cải, tiền bạc, thân người
v.v… đều là mộl trường biến hiện chập chùng. Như chúng ta đây, đi làm kỳ cụi,
để dành được vài chục ngàn tưởng đó là một món tiền do công lao ta tích lũy lại
nhiều năm, chứ không bao giờ hiểu được rằng cái đó là sự biến hiện, hiện lên do
phước đức của mình, đến khi phước hết, quỉ thần sẽ thu xếp thế nào để cho mình
mất đi, hoặc do thiên tai hoặc bị cướp bóc, bị lừa v.v.., để mất số bạc đó. Nên
người khôn, khi họ có được nhiều tiền, họ phải biết làm phước.
KINH: Này thiện nam tử,
như Long Vương làm mưa chẳng từ thân ra, chẳng từ tâm ra, chẳng có tích tập, mà
chẳng phải là chẳng thấy. Chỉ do sức tâm niệm của Long Vương mà mưa tuôn khắp
thiên hạ.
GIẢNG: Như Long Vương
kia làm mưa nước không phải từ thân ra, cũng không phải từ tâm ra (vọng
tâm), mà trong tất cả pháp giới chỗ nào cũng có, nhưng nó ẩn đi thôi,
khi nào người có tâm lực, hay có cái duyên chín mùi thì tự nhiên nước hiện lên.
Thí dụ như trong ta, trong người có chủng tử bị chết đuối, thì tự nhiên cơ
duyên đưa đẩy cho phải bị chết đuối, hoặc vùng này có cái nghiệp phải bị hạn
hán trong bao nhiêu lâu, thì nó sẽ xảy ra những vụ hạn hán mà không có cách nào
chuyển được, cho đến khi hết nghiệp thì nó lại ẩn đi. Tóm lại, tất cả đều do
tâm niệm mà ra. Như trong kinh Lăng Nghiêm nói rất rõ, tứ đại, đất nước gió lửa
chu biến khắp nơi, tùy theo nghiệp duyên của chúng sanh hay thần lực của Chư
Phật và chư Đại Bồ Tát mà nó sẽ hiển hiện. Như Bà La Môn quyến thuộc, họ không
lấy nước từ sông, hồ, hay giếng, mà lấy loại nước vô căn thủy, tức là nước
không từ đâu đến, muốn có nước ấy, họ chờ những đêm trông sáng, đem một viên
bảo châu soi dưới ánh trăng, tự nhiên có sự hòa hợp nào đó, nước chảy ra từ bảo
châu ấy. Cũng vậy, nếu một vị tu hành cao, vào giữa sa mạc, hay vào rừng sâu,
như ngài Huệ Năng chẳng hạn, ngài đến một nơi không có nước, ngài chỉ cần cắm
tích trượng xuống đất thì nước phụt lên, Ma Vương trong hư không có thể lấy ra
một trăm ngàn thiên nữ múa hát cho xem, nên biết rằng tứ đại chu biến khắp mọi
nơi, đủ duyên thì nó hiện ra, hết duyên nó lại ẩn đi. Đạo Phật nói những chân
lý rốt ráo ấy một cách khơi khơi, nên người thường rất khó tin, vì họ quen tin
vào năm căn thô kệch của mình quá rồi, mắt không nhìn thấy, tai không nghe
tiếng, tay không sờ chạm được v.v… thì không tin.
KINH: Cảnh giới như vậy
chẳng thể nghĩ bàn. Này thiện nam tử, cũng vậy, những sự trang nghiêm trong lâu
các này chẳng ở trong cũng chẳng ở ngoài, mà chẳng phải là không thây. Chỉ do
thần lực của Bồ Tát và sức thiện căn của ngươi được thấy như vậy.
GIẢNG: Tất cả những sự
vật hiện ra đều do thần lực của Bồ Tát và do thiện căn của mình, hai cái đó hợp
nhau tương ưng thì nó hiện ra. Vì thế nó chẳng từ đâu đến mà cũng chẳng đi đến
đâu.
KINH: Này thiện nam tử,
như nhà ảo thuật làm những ảo sự, không từ đâu lại, không đi đến đâu. Dầu không
lại không đi nhưng do ảo lực mà thấy rõ rằng.
GIẢNG: Như có lần tôi
đọc cho quí vị nghe một đoạn kinh trong Đại Bảo Tích kể có một vị ảo sư vì tật
đố, nên muốn dùng ảo thuật của mình để cúng dường đức Phật, sau không thành và
sám hối, đức Phật bèn bảo ông ảo sư ấy rằng, này ảo sư, ảo thuật của ông không
đi đến đâu cả, các Chư Như Lai mới là Đại ảo sư, không có ai bằng cả.
KINH: Cũng vậy, sự trang
nghiêm này không từ đâu lại, cũng không chỗ đi, nhưng do quen tập sức huyễn trí
bất tư nghì và do sức đại nguyện thuở xưa mà hiển hiện như vậy.
Thiện Tài thưa, Đại
Thánh từ xứ nào đến đây? Di Lặc Bồ Tát nói, này thiện nam tử, Chư Bồ Tát không
đến không đi, như vậy mà đến. Không đi không ở, như vậy mà đến. Không chỗ,
không chấp, không mất, không sanh, chẳng ở, chẳng rời, chẳng động, chẳng khởi,
không luyến, không nhiễm, không nghiệp, không báo, chẳng khởi, chẳng diệt,
chẳng đoạn, chẳng thường như vậy mà đến.
GIẢNG: Ngài muốn nói đến
cái vô tâm, tâm không khởi một ý niệm nào, vẫn bất động, nhưng vẫn đến như vậy.
KINH: Này thiện nam tử,
Bồ Tát từ chỗ đại bi mà đến, vì muốn điều phục chúng sanh.
GIẢNG: Lúc đầu ngài nói
về khía cạnh “như thật không,” vì tâm ngài chính là không,
ngài đến từ tâm không ấy. Nay, ngài lại nói đến khía cạnh “như thật bất
không'” cho chúng sanh đỡ ngơ ngác và hiểu hơn một chút, đến từ chỗ
đại bi.
KINH: Từ chỗ đại từ mà
đến, vì muốn cứu hộ các chúng sanh. Từ chỗ tịnh giới mà đến, vì tùy sở thích
chúng sanh.
GIẢNG: Những vị Bồ Tát
lớn có thể thọ sanh làm người vào một xứ nào đó, vì ngài biết ở xứ đó có nhiều
chúng sanh thuần thục duyên lành, thích gặp thiện tri thức, nên ngài mang hình
dạng người đến để độ sanh.
KINH: Từ chỗ đại nguyện
mà đến, vì nguyện lực thuở xưa gia trì.
GIẢNG: Ngày xưa ngài
nguyện thế nào thì bây giờ ngài làm thế ấy.
KINH: Từ chỗ thần thông
mà đến, vì nơi tất cả xứ tùy thích mà hiện. Từ chỗ không lay động mà đến, vì
hằng chẳng bỏ rời tất cả Phật.
GIẢNG: Tuy rằng hiện như
vậy, như tâm ngài vẫn ở nơi không hải, vẫn trạm nhiên bất động.
KINH: Từ chỗ không thủ
xả mà đến, vì chẳng bắt buộc thân tâm phải qua lại. Từ chỗ phương tiện trí
huệ mà đến, vì tùy thuận tất cả chúng sanh. Từ chỗ thị hiện biến hóa mà
đến, vì dường như ảnh tượng mà hóa hiện.
GIẢNG: Tất cả những gì
các ngài làm đều là ảnh tượng, biến hóa. Và các vật ấy cũng vậy. Còn chúng ta
tưởng là thật vì do xúc giác, đó là cái đánh lừa chúng ta nhiều nhất. Tóm lại,
trong kinh ta thấy rõ, ban đầu ngài nói về khía cạnh “như thật không’ dần
dần qua như thật bất không. Bây giờ, ngài lại qua thế đế, xin đọc tiếp cho quí
vị nghe…
KINH: Nhưng này thiện
nam tử, ngươi hỏi ta từ chỗ nào mà đến?
GIẢNG: Trước ngài đã nói
theo đệ nhất nghĩa đế, nay ngài nói về thế đế, nói rõ những nhân duyên của ngài
cho chúng sanh hiểu ngài từ đâu đến.
KINH: Này thiện nam tử,
ta từ sanh quán nước Ma La Đề mà đến nơi đây.
GIẢNG: Tức là theo thế
đế, ngươi đến nơi này cầu khẩn ta, thì ta từ nơi kia đến.
KINH: Này thiện nam tử,
nước ấy có tụ lạc tên là Phòng Xá. Trong tụ lạc có trưởng giả tử tên là Cù Ba
La, ta vì hóa độ người ấy vào Phật pháp mà ở nơi đó. Lại vì tất cả nhân dân
đáng được hóa độ nên sanh nơi đó để thuyết pháp. Lại cũng vì cha mẹ, quyến thuộc
nói pháp đại thừa cho được xu nhập nên ở nơi đó, rồi từ đó đến đây.
GIẢNG: Ngài vốn là một
vị Nhất Sanh Bổ Xứ, thọ sanh ở đó là vì có người bạn đồng tu, người này cơ
duyên đã chín mùi, thứ hai là nhân dân ở đó cũng đủ cơ duyên, thứ ba là
những (thị hiện) quyến thuộc, cha,mẹ, họ hàng v.v… Tôi vẫn
thường nói luôn là các vị Phật và các đệ tử của ngài thường thọ sanh theo từng
chùm, lúc lỉu như những chùm nho, nơi nào cơ duyên chín mùi thì các ngài thị
hiện thọ sanh. Nên phải nhớ rằng, tất cả những quyến thuộc của ngài như người
vợ Da Du Đà La, Cù Ba, Ma Gia Phu Nhơn, Vua Tịnh Phạn v.v… tất cả quyến thuộc
đều là những Bồ Tát thị hiện, người ngoài không có cơ duyên không thể lọt vào
trong hệ thống quyến thuộc ấy, như chúng ta đây, phải sinh sau khi Phật diệt độ
gần hai ngàn năm trăm năm vì chúng ta chưa có cơ duyên gặp Phật, huống gì mơ
màng đến làm quyến thuộc của ngài.
Sau khi nói thế đế xong,
ngài lại nói lên trên vì có rất nhiều tầng lớp…
KINH: Thiện Tài thưa,
Bạch Đại Thánh, những gì là sanh xứ của Bồ Tát.
GIẢNG: Sau khi ngài Di
Lặc nói ngài sanh ở xứ đó, thì Thiện Tài lại hỏi “những gì là sanh xứ
của Bồ Tất?”
KINH: Di Lặc Bồ Tát nói:
Này thiện nam tử, Bồ Tát có mười thứ sanh xứ: Bồ đề tâm là sanh xứ của Bồ Tát,
vì là nhà sanh ra Bồ Tát. Thâm tâm là sanh xứ của Bổ Tát, vì là nhà sanh thiện
tri thức. Chư địa là sanh xứ của Bồ Tát, vì là nhà sanh các môn ba la mật. Đại
nguyện là sanh xứ của Bồ Tát, vì là nhà sanh diệu hạnh. Đại bi là sanh xứ của
Bồ Tát, vì là nhà sanh tứ nhiếp pháp. Quán sát đúng lý là sanh xứ của Bồ Tát,
vì là nhà sanh bát nhã ba la mật.
GIẢNG: Đạo Phật bao giờ
cũng chập chùng để giải từ đệ nhất nghĩa đế, xuống thế đế rồi lại lên, không
bao giờ ngừng lại ở một chỗ nào.
KINH: Đại thừa là nhà
sanh xứ của Bổ Tát, vì là nhà sanh thiện xảo phương tiện. Giáo hóa chúng sanh
là sanh xứ của Bồ Tát, vì là nhà sanh Chư Phật. Trí huệ phương tiện là sanh xứ
của Bổ Tát, vì là nhà sanh vô sanh pháp nhẫn. Tu hành tất cả pháp là sanh xứ của
Bồ Tát, vì là nhà sanh tam thế tất cả Như Lai.
Này thiện nam tử, đại Bồ
Tát dùng bát nhã ba la mật làm mẹ, phương tiện thiện xảo làm cha, thí ba la mật
làm nhũ mẫu…
GIẢNG: Đại khái cũng chỉ
như thế thôi.
KINH: …(Bỏ một đoạn)… Này thiện nam tử,
Bồ Tát siêu phàm phu địa, nhập bổ tát vị, sanh nhà Như Lai, trụ chủng tánh Phật
như vậy, có thể tu các hạnh chẳng dứt tam bảo (Bỏ một đoạn)… Này thiện nam tử,
Đại Bồ Tát sanh nhà tôn thắng như vậy rồi, vì biết tất cả pháp như ảnh
tượng nên đôi với thế gian không ghét chê. Vì biết tất cả pháp như biến hóa nên
không nhiễm trước các cõi hữu lậu. Vì biết tất cả pháp không có ngã nên
giáo hóa chúng sanh lòng không nhàm mỏi. …(Bỏ một đoạn)… Vì biết tất cả
tưởng như dương diệm nên vào trong các loài mà chẳng sanh điên đảo mê hoặc. Vì
đạt tất cả pháp đều như huyễn nên vào cảnh giới ma chẳng sanh nhiễm trước (Bỏ một đoạn)… Này thiện nam
tử, thân ta sanh khắp tất cả pháp giới.
GIẢNG: Các vị Bồ Tát
lớn, các ngài có thể phân thân thọ sanh khắp tất cả mọi nơi, chỗ nào có chúng sanh
tương ưng, nghiệp duyên chín mùi thì tự nhiên ngài sẽ thọ sanh cõi đó, hiện lên
mà không có tác ý.
KINH: …(Bỏ một đoạn)… Đồng với tâm tưởng
của tất cả chúng sanh, đồng thệ nguyện với tất cả Bồ Tát mà hiện thân mình đầy
khắp pháp giới.
Này thiện nam tử, ngươi
nên qua đến chỗ ngài Văn Thù Sư Lợi…
GIẢNG: Đến đây là hết
với ngài Di Lặc, sắp qua đến ngài Văn Thù, tức là bắt đầu về lại cái bổn giác.
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
Ngày 28 tháng 4 năm 1991
Kính thưa Thượng Tọa trụ
trì cùng chư vị đạo hữu…
Hôm nay là buổi thuyết
giảng thứ 126 về kinh Hoa Nghiêm và đồng thời cũng là buổi thuyết giảng thứ 13
về kinh Đại Bát Nhã tại chùa này…
Nay xin đi tiếp vào Hoa
Nghiêm…
Đức Phật chỉ thị hiện
xuống nhân thế để độ sanh, ngài tu khổ hạnh để làm gì? Ngài đi học với những
người ngoại đạo để làm gì? Là để dạy ngoại đạo thôi. Đến khi ngài học với vị
Uất Đầu Lam Phất là một vị nổi tiếng đã vào-được cơn định cao nhất là định phi
tưởng phi phi tưởng xứ, chỉ cần tu một lát đức Phật đã vào được định ấy rồi.
Xong ngài nói: “Này Đại Bà La Môn tôi đã vào định đó rồi”, nhưng
đó chưa phải là giải thoát. Có nghĩa ngài chỉ thị hiện đến học để dạy cho Đại
Bà La Môn ấy thôi. Sau ngài lại tu khổ hạnh sáu năm, mỗi ngày ăn một hạt vừng,
sau sáu năm, xương sống, xương sườn lòi ra, đến nỗi da bụng của ngài dính sát
vào xương sống, lúc bấy giờ có một cô gái chăn bò, trong kinh Phật Bản Hạnh nói
rất ghê gớm, kể rằng, cô là một cô gái nhà giàu, cô lựa chọn một ngàn con bò
cái, vắt ra được một ngàn đấu sữa, sau nấu lại chỉ còn một bát thôi, mà khi nấu
sữa thì… ghê gớm lắm, sữa vọt lên cao…
PHẬT TỬ: Hi., hi…, xin
lỗi ông, tôi không thể nhịn cười được, vì nó… buồn cười quá, vô lý quá, không
thể tin được một mảy may. Vì sao? vì chúng tôi có đi hành hương qua Ấn một lần,
chúng tôi cũng có đến thăm tại chỗ của cô gái chăn bò ấy, đâu thấy cái gì là
thần kỳ như thế? Chỉ thấy một cái nhà như một cái gò nống thôi. Kinh Nam Tông
nói chính cô gái ấy đem bát sữa đem biếu vị thần khác, nhưng khi thấy có người
nằm gần chết (là đức Phật ra uống
nước ở sông Ni Liên Thiền) thì mới đưa luôn bát sữa ấy cho đức Phật mà
thôi.
ĐÁP: Mỗi kinh nói một
khía cạnh hơi khác, còn tùy theo mức độ tâm thức của mình. Như hạt châu Ma NI
óng ảnh nhiều màu.
Trở lại câu chuyện tôi
đang kể, chính đức Phật nói trong kinh Phật Bản Hạnh, khi cô gái nấu sữa thì nó
bốc lên cao đến nỗi các chư Thiên phải xuống nói: Vị nào uống sữa này sẽ thành
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nên tất cả đều tùy theo
mức độ tâm thức của người đứng nhìn. Kinh cũng có nhiều loại, tùy theo Tâm của
chúng sanh. Như tôi ngồi đây, thấy trong ban kinh này toàn những người, có nam,
có nữ, có già, có trẻ v.v… nhưng một vị có thiên nhãn thì chỉ thấy chập chờn
những đám hào quang hội tụ lại, lại còn thấy tâm tưởng của chúng ta nữa, nên
cũng là nhãn thôi, nhưng tùy theo mức độ nghiệp lực hay phước lực mà nhìn thấy
có sai khác. Ta chớ bao giờ cho kinh là nói lời hư vọng, vì mỗi kinh nói theo
mức độ tâm thức khác nhau, nhưng chỉ giống nhau ở một điểm là
hoài vọng của Chư Phật là chữa căn bệnh cho chúng sanh. Nên tùy căn cơ mà Ngài
thuyết pháp, Ngài lại phải khởi tâm từ bi, nói ngang, nói dọc, để tùy bệnh mà
bốc thuốc, cốt để làm lành bệnh chúng sanh, và đưa chúng sanh thoát khỏi khổ
nạn sanh tử.
Sau đó, cô gái dưng bát
sữa cho Đức Phật uống, chỉ trong một lát, ngài trở lại bình thường, sau mới
xuống tắm ở sông Ni Liên, các loài chim chóc bu lại nhìn thân huỳnh kim của
ngài. Đến khi đi lên từ bờ sông đến cây bồ đề thì kể các quỷ thần, chư Thiên
chấn động ra sao, đất chuyển thành kim cương, rồi vua Đế Thích hiện xuống làm
người , cắt cỏ tên là Cát Lợi, cắt thứ cỏ rất mềm nhuyễn, đức Phật đi đến dùng
tiếng Phạm Âm hỏi rằng: “Ông có thể cho tôi bó cỏ này không?” “Thưa có,
tôi xin dâng ngài. ” Đức Phật lại hỏi: “Tên nhân giả là gì?”
“Tên tôi là Cát Lợi.” Lúc đó ngài nghĩ rằng, cát là
tốt, lợi là lợi ích, tức là ta ngồi đây sẽ đắc đạo. Trong khi
ngài bước đến cây bồ đề, thì Ma Vương, ma dân, và ma nữ nhốn nháo chạy lung
tung, gọi nhau ơi ới, tìm đủ cách để phá, phá tới mức độ Ma Vương ra lệnh cho
tụi Dạ Xoa là phải làm sao cho vị Bồ Tát này đừng đến cây bồ đề ấy, làm cho ông
ta ngồi ở gốc cây khác.., đại khái như thế.
Nhưng tất cả đều chỉ là
thị hiện, vì đức Phật đã thành Phật trên đỉnh trời sắc Cứu Cánh rồi, ngài xuống
nhân gian, thị hiện tu khổ hạnh để cốt dạy cho ngoại đạo biết rằng con đường
của họ không đi đến chỗ giải thoát, là con đường vướng nhiều ác kiến: Có,
Không, Đoạn, Thường v.v… Thị hiện chiến đâu với ma quân để dạy những
người có tâm thích tranh đấu v.v… Phải đi theo con đường trung đạo, tức là
không nên chiu đãi thân này quá, mà cũng không hành hạ nó quá, điều phục thân
này cũng đồng thời phải điều phục tâm nữa, vì vậy ngài mới phải làm tất cả
những hạnh để đối trị với các căn bệnh của chúng sanh cõi Ta Bà này.
Hỏi: Nhiều khi kinh giải
thích như vậỵ để thích hợp căn cơ của từng người, nhưng nếu cứ nhắm mắt mà hiểu
những chuyện không thực chứng ấy thì dễ sa vào sự mê tín dị đoan.
ĐÁP: Ông nói mê tín là
như thế nào?
HỎI: Hồi nãy ông kể về
vụ nấu bát sữa của cô gái chăn bò dâng đức Phật nó vọt lên, đến hàng chư Thiên
phải xuống thì thấy có vẻ… thế nào ấy. Không thể nào tin được, nếu không nói
đến hai chữ “dị đoan.” Bằng chứng là ngay trong đạo tràng này nhiều người phì
cười về chuyện ấy, ngay đến bây giờ, khi tôi đang nói cũng có rất nhiều vị khúc
khích che miệng cười. Thế mà chỉ có ông tin như vậy thì tôi cũng phải… phục ông
thật!
ĐÁP: Ha..ha…ha…, Thật là
một trang hảo hán, có thể nói thẳng ra những gì mình nghĩ. Nhưng xin ông nhớ
cho, ở đạo tràng nhỏ bé này, có khoảng bốn mươi người đến nghe pháp, thì cũng
có đủ bốn mươi lăng kính nhìn và có cái mức độ tín giải về kinh, mỗi người nhìn
một khác. Riêng tôi, tôi chỉ muốn cổ võ quí vị nhìn theo cái lăng kính ở trong
kinh thôi, đồng thời chúng ta phải chấp nhận lăng kính của người khác, không
bắt người ta phải nghe mình, không chấp người sai, ta đúng. Ông có quyền không
tin, có quyền nghĩ tôi “dị đoan” chẳng hạn, có quyền vất nó đi cũng chẳng sao,
vì đó chỉ là “cái-kiến-giải-của-tôi” thôi!
PHẬT TỬ: Thưa ông, ông
nói thế tôi đồng Ý hoàn toàn. Vì mỗi người chúng ta có những “vọng tưởng” khác
nhau, không thể người nào giống người nào được.
ĐÁP: Vọng tưởng chúng
sanh như nêm, như cối, khó có thể một thời mà gỡ ra nổi. Ha… ha, trở lại cái
“bát sữa” hồi nãy, trong kinh Phật Bản Hạnh, Phật nói theo pháp nhãn và Phật
nhãn của ngài, cũng như ngài nói một vi trần chứa đựng muôn ngàn thế giới, ai có
thể tin điều ấy? Nếu không có tín giải về kinhỊ Nên khi ngài nhìn một giọt sữa
thì cũng thấy giọt sữa ấy che cả một cõi tam thiên, đại thiên thế giới. Những
câu ấy ta rất thường gặp trong kinh, nếu ta cho tất cả đều là “dị đoan” thì ta
tự bít con đường tu của mình lại, vì chỉ quanh quẩn với kích thước pháp giới
thô kệch này, chỉ dùng sáu căn rất hạn hẹp để đo lường mức độ chân, giả thì đó
là tự cô phụ lấy mình vậy. Đức Phật đã khởi lòng từ tâm nói rõ cho chúng ta
biết, ngoài cõi Ta Bà này, còn hằng hà sa số cõi khác, ngoài những việc lắm
bình thường này, còn những việc vi diệu khác ở khắp mười phương, nên tùy theo
lăng kính nhìn và tùy theo nhãn lực của mỗi chúng sanh mà thôi. Ha… ha…ha…, nên
ông cười thế cũng tốt lắm, nhưng đó không phải là hư vọng đâu, vì khi một hành
giả tu cao, như một bậc đại Bồ Tát chẳng hạn, các ngài có thể nhìn trong một lỗ
lông nở ra cả thế giới, chẳng nói đâu xa, trong kinh Hoa Nghiêm chúng ta đang
học, Thiện Tài khi gặp ngài Phổ Hiền, đi trong mười hai năm, bước qua hằng hà
sa na-do-tha ức thế giới mà vẫn không ra khỏi được… lỗ lông của ngài Phổ
Hiền.
HỎI: Ông nghĩ sao về các
hiện tượng đó?
ĐÁP: Hiện tượng nào?
HỎI: Trong tâm ông, ông
nghĩ sao về người đời coi là “mê-tín-dị-đoan”
ĐÁP: Xin ông cho một thí
dụ rõ ràng hơn.
HỎI: Thì như thí dụ ông
vừa nói, trong một lỗ lông nở ra cả thế giới, hay đi trong mười hai năm chưa ra
khỏi lỗ lông của một vị Đại Bồ Tát, hoặc như đức Phật chỉ ngồi đó, nhưng móng
chân ngài phát ra trăm ngàn thứ quang minh soi khắp mười phương cõi v.v…?
ĐÁP: Tôi xin thưa với
ông rằng, những cái mà ông còn hoài nghi, từ hơn mười năm nay, tôi tin như
chết! Tôi tin rằng không có một lời nói nào trong kinh mà tôi cho là hư vọng,
chỉ vì cái mắt chúng ta quá hạn hẹp, quá thô kệch. Khi chúng ta có được huệ
nhãn, thiên nhãn, thì lúc đó trong một giọt nước, hay một hạt bụi ta cũng có
thể thấy rất bao la. Nên tất cả lời nói trong kinh như “một vi trần chứa đựng
được vô vàn thế giới, hay một thế giới có thể thu vào trong hạt cát được” v.v…
đó là những câu tôi tin rất sâu chắc, và những điều này còn giải thoát cho
chúng ta nhiều phiền não. Có thể ông đi vào Đông Phương nhiều nhưng chưa đọc
kinh và chưa suy tư nhiều về kinh, nếu ông chịu khó bỏ ra khoảng mười năm đọc
và suy tư về lời kinh, lúc dó, dù có ai quát thảo bảo ông đừng tin ông
cũng…chẳng chịu, vì nó phải như vậy, không có cách gì khác được, vì nó là cái
thế giới của tâm thức, cái tâm thức rất huyền hoặc lạ lùng, biến hiện trùng
trùng, chỉ có bậc Đại Giác mới biết hết tất cả mọi sự.
PHẬT TỬ (Một vị khác trong ban Kinh): Tôi tin như ông vừa nói,
vì trong thế gian này, cũng có một vài người có được một chút thiên nhãn đã
nhìn thấy rất nhiều điều mà mắt thường chúng ta không nhìn thấy. Một thí dụ
điển hình là một vị chữa bệnh không công mà người Mỹ xôn xao một thời đó là ông
Cayce, ông ta có thể nhìn thấy người bệnh đau ở chỗ nào, và chữa được cho rất
nhiều người bệnh. Đó chỉ là có được một chút thiên nhãn thôi hà huống gì các
bậc Bồ Tát lớn! Vì tà kiến chúng ta quá sâu dầy, nên hay khởi tâm hoài nghi,
như ông nói ở đây nhiều lần, chúng ta cứ tin ở cái mắt, tai, xúc chạm v.v… thô
kệch này thôi.
ĐÁP: Đạo Phật chỉ cốt
dạy cho chúng ta mở rộng cái tâm thức, hay nói cách khác, mở rộng ngũ căn này.
HỎI: Tôi đặt câu hỏi ấy
vì nhiều người cho rằng phần lớn kinh Đại Thừa do những nhà truyền bá đạo pháp
bên Tàu viết ra. Người Tàu có nhiều vọng tưởng, trí tưởng tượng của họ rất
phong phú, như chuyện phong thần chẳng hạn. Tôi trộm nghĩ rằng,có lẽ họ là những người viết chuyện giả tưởng… hay nhất
thế giới!
ĐÁP: Sao ông có thể quả
quyết người tàu viết ra những pho kinh Đại Thừa?
HỎI: Vì tôi có đọc một
vài cuốn sách nói rằng những kinh thuộc về Tiểu Thừa là do đức Phật để lại, còn
kinh Đại Thừa thì thật là… mù mịt, không ai hiểu xuất xứ từ đâu ra, mà cứ nói
khơi khơi nhiều chuyện… dị đoan. Chỉ có kinh của Tiểu Thừa mới là đúng thôi!
ĐÁP: Để trả lời
“người-Phật-Tử-không-tin-kinh-Đại-Thừa” này, đó cũng là một dư luận rất phổ
biến, vì không những ông nói thế, nhiều học giả cũng không tin thế. Ngay cả
những vị sư trong Nam Tông cũng không công nhận những kinh đại thừa như Lăng
Nghiêm, Hoa Nghiêm, Kim Cang, Pháp Hoa, nhất là kinh A Di Đà, vì cho rằng không
phải Phật nói. Nhưng ông thử nghĩ xem tâm thức của người có ai viết nổi một bộ
kinh như bộ Hoa Nghiêm không? Theo riêng tôi, tôi nghĩ họ viết một câu cũng
chưa nổi, huống gì đến cả một cuốn kinh dầy mấy nghìn trang. Tôi là một nhà
văn, tôi đã đọc nhiều văn chương thế gian, ngay cả văn chương của người Tàu.
Thực ra, văn chương người tàu cũng rất giỏi, bịa chuyện rất tài. Nhưng chuyện
Phong thần không phải bịa hẳn đâu nhé, cũng có phần nào sự thật đấy.
Vậy thì thông điệp của
Đại Thừa là gì? Thông điệp nói thứ nhất: “Pháp giới này toàn huyễn
mộng” tất cả đều là hư không, chỉ do tâm thức chúng sanh nó ảnh hiện
ra thôi. Thứ hai là “Con người có thể tu hành lên đến chỗ biến hóa
không cùng.” Vậy những người có óc duy lý hay hơi bị ảnh hưởng của tập
quán Tây Phương nhiều thì không chịu tin, không chịu hiểu, chỉ muốn nắm lấy
vật, nghĩ rằng, vật này có thật và không thể biến hóa được. Vì vậy họ không
chấp nhận thông điệp ấy, và nghĩ rằng kinh Đại Thừa đều giả tạo. Nhưng đối với
một người thành thực, nếu dở một trang kinh ra đọc thì thấy rằng không có người
nào ở thế gian này có thể viết được một trang kinh Hoa Nghiêm chứ
đừng nói đến bốn ngàn trang. Nếu ông đọc Đại Bát Niết Bàn thì
thấy kinh nói như nước chảy, mây trôi, mà không có một bộ óc nào có thể nói như
vậy được. Cho dù để ông học thuộc lòng và nói lại cũng không nói được lưu loát
như trong kinh đã nói. Như vậy, phải là một bậc Đại Giác mới có thể nói được
như thế, vì trong kinh nhiều đoạn nói trái ngược nhau, nhưng bên trong có cái
lý rất cao sâu, mầu nhiệm của nó. Phật nói những kinh nguyên thủy (kinh
Nam Tông, Tiểu thừa) là để nói cho người nghe, mấy vị đệ tử lúc đầu,
ngài chỉ dạy làm sao để thoát khổ thôi, còn kinh Đại Thừa ngài
nói cho những Phi Nhơn, chư Thiên và các vị Bồ Tát, vì
vậy không ai biết xuất xứ kinh đại thừa từ đâu có, nhưng lại không có ai có
thể… bịa ra được những bộ kinh “khó nuốt” như thế này. Thí dụ
như kinh Lăng Nghiêm, một vị thiền sư Việt Nam cho đó là ngụy tạo, thì ai là
người nghĩ ra được để viết ra được một bộ kinh như thế? Vì trong đó tất cả lời
Phật dạy đều là thức biến trùng trùng, mà mỗi câu, mỗi chữ là một công án, nói
lên rất nhiều điều lạ lùng mà con người không thể tưỏng tượng nổi, ngay cả cái
văn phong cũng rất kỳ diệu lạ lùng. Nay ta xin đi vào Hoa Nghiêm…
KINH: Này thiện nam tử,
đại Bồ Tát sanh nhà tôn thắng như vậy rồi, vì biết tất cả pháp như ảnh tượng..
GIẢNG: “Biết tất
cả phảp như ảnh tượng…” tức là vì soi gương nên nó ảnh hiện lên như
vậy.
KINH: Nên đối với thế
gian không ghét chê. Vì biết tất cả pháp như biến hóa nên không nhiễm trước các
pháp hữu lậu. Vì biết tất cả pháp không có ngã nên giáo hóa chúng sanh lòng
không nhàm mỏi. Vì dùng đại từ bi làm thể tánh nên nhiếp thọ chúng sanh chẳng
biết lao khổ.
GIÁNG: Những phật tử đã
đọc kinh Đại thừa rồi, người nào có căn cơ thấy rằng lời kinh không ai có thể
bịa đặt được, vì lời kinh mênh mang vô chừng, bóng chuốt như lụa, văn chương
như nước chảy. Đã là người mang thân máu thịt hôi thối cùng với tâm thức nhỏ bé
này không ai có thể viết được những lời kinh như thế ấy, kể cả những vị quĩ
thần lớn. Hơn nữa, cho dù các bậc tu hành cao, có thể viết gần như kinh thì
những người đó không bao giờ dám phạm tội đại vọng ngữ mà nhận cuốn sách của
mình viết là kinh cả. Vì sao? Vì tội đại vọng ngữ rất lớn, nghiệp báo dằng dặc
không bao giờ hết, mà nói thế để làm gì? Chỉ một vài ngàn người ở thế gian này
ca tụng mình giỏi mà so với cái nghiệp báo phải mang thì người trí không bao
giờ làm điều đó cả. Chỉ có người ngu si không hiểu mới dám làm mà thôi.
HỎI: Nhưng nếu có một vị
cao tăng, tu hành đạo đức như các tổ bên tàu viết sách, lấy ý của Phật, nhưng
là lời của Tổ thì có được gọi là kinh không?
ĐÁP: Vẫn không được cho
đó là kinh. Vì ta phải hiểu rằng các Tổ là những vị thọ Bồ Tát giới…
HỎI (Phật tử sôi nổi cắt ngang lời giảng): Thì cũng như Tổ
gì biết bộ Đại Thừa khởi tín, vẫn biết bộ này là luận thôi, nhưng chúng ta cũng
vin từ đó để khai triển ra thành những kinh lớn, diễn giảng ra một khía cạnh
khác nhưng gốc cũng là một, cũng từ trong kinh của Phật nói ra.
ĐÁP: Vẫn không thể coi
là kinh được, mà chỉ gọi là luận thôi.
HỎI (Phật tử với giọng bất bình): Ồ, có thể gọi là
kinh được chứ, vì đó là ý của Phật mà, chứ có phải chư Tổ nghĩ ra đâu?
ĐÁP: Ông vẫn chưa hiểu Ý
nghĩa chữ “KINH.” Các vị Tổ là những vị đã thọ Bồ Tát giới từ nhiều kiếp, không
bao giờ các ngài nói lời vọng ngữ. Kinh có nghĩa như thế này: Một là do chính
kim khẩu của Phật nói ra, hai là do các hàng đệ tử, hay những vị Bồ Tát lớn,
hay một vị quỉ thần lớn, hoặc ngài Đế Thích nói mà có Phật ấn chứng, và luôn
luôn sau khi các vị nói xong đều bảo rằng đó là vì Phật gia trì như vậy mới
được gọi là kinh. Còn những vị Bồ Tát lớn, sau khi Phật nhập diệt viết ra thì
chỉ gọi là “luận” thôi, tuy viết những bộ luận giống kinh nhưng vì giữ giới
không nói lời vọng ngữ, không bao giờ các ngài tự nhận đó là những bộ kinh cả.
Nên phải hiểu KINH rất ghê gớm, vì nó có huyền lực phổ trong ấy, khi nói một
lời kinh, phần nhiều là huy động cả một pháp giới, pháp giới đều chấn động, hào
quang soi chiếu khắp mười phương, có rất nhiều các vị Quỉ Thần Vương, Tứ Thiên
Vương, các vua tầng trời, như Vua Phạm Thiên, vua Đế Thích v.v… đều vân tập. Và
sau một buổi giảng nói về kinh, thường các ngài phát thệ hộ trì kinh, rằng
người nào đọc những kinh này, chúng con xin hộ trì cho người ấy được yên ổn.
Nên tôi vẫn nói, người tụng chú Thủ Lăng Nghiêm có 84 ngàn vị đại quỉ thần đi
theo, và trong kinh Hiền Ngu nói rõ, người nào đi ngoài đường mà tụng chú thì
các vị Chư Thiên trên trời phải dừng lại nghe những bài chú ấy. Vì vậy, kinh có
huyền lực ghê gớm, nên không ai có thể tự nhận mình nói ra những lời kinh cả,
trừ khi có Đức Phật ấn chứng, hay chính Phật bảo nói như ngài Tu Bồ Đề chẳng
hạn. Nếu ông có lạy các vị Tổ một nghìn lạy các ngài cũng không bao giờ tự nhận
mình nói ra những lời kinh, vì đó là đã mắc vào tội đại vọng ngữ rồi, nên có vị
nào tu hành lâu mà dại dột đến thế? Xưng ta nói kinh để làm gì? Người đời khen
chăng? người thế gian này thì ăn thua gì, vài vạn người là cùng, mà với cái trí
hạn hẹp, thân căn thô kệch, người nào cũng phải chết, không có được một sự tự
tại nhỏ bé nào, họ khen hôm nay, ngày mai lại chê, thì người trí không ai lại
chịu làm những việc điên rồ ấy, để chỉ lấy những lời khen bọt bèo như bóng nổi.
Không biết những ý tôi
vừa nói, vị Phật-Tử-không- tin-kinh-Đại-Thừa có… chấp nhận được tí nào không?
PHẬT TỬ không-tin-kinh-Đại-Thừa: Riêng tôi còn có rất
nhiều thắc mắc, nhưng cũng không dám hỏi nhiều vì sợ làm mất thì giờ của quí vị
trong ban kinh này.
ĐÁP: Không sao, trái lại
từ khi ông đến đây hỏi ba bốn lần tôi thấy rất có lợi ích, không những thế, tôi
cũng được dịp giải thích thêm trên những phương diện và những thắc mắc khác của
những người Phật Tử chưa hoàn toàn bước vào đại thừa. Tiện đây, tôi cũng xin
nhắc thêm một vài chi tiết, trong kinh thường có các vị đệ tử Phật đôi khi hỏi
một vài câu ta cho là ngớ ngẩn, ngây thơ, như ngài A Nan chẳng hạn, nhưng thực
ra những câu ấy, ngài có thể tự trả lời được, nhưng ngài vẫn cứ hỏi, vì do lòng
đại bi để cho đức Phật trả lời, lưu lại thành kinh cho người đời sau có mà học.
PHẬT TỬ không-tin-kinh-Đại-Thừa: Trong các sách thiền
nói rằng cần phải có cơn đại hoài nghi, cái “nghi tình” đó là gi?
ĐÁP: Bây giờ chúng ta
giảng chữ Nghi trước. Chữ này cũng… ghê gớm lắm. Quí vị trong ban kinh, nghĩ
sao về chữ này? Cái nghi của người thường ra sao? cái nghi của một vị triết
nhân như thế nào? và cái nghi của các vị thiền sư ra sao?
Nói đến cái nghi của
phàm phu chúng ta thì vì ta hay dùng đôi mắt thịt, và dùng ý thức suy luận. Vì
suy luận lâu ngày, từ rất nhiều kiếp, đến nay thấy bất cứ gì trái với cái mắt
thịt (như nói mọi vật có thể biến hóa được), trái với ý
thức (như nói vật này là không thật có), mà lại dạy rằng: Vật
này là vật kia thì thấy nó không đúng như ta nghĩ từ xưa đến giờ, nên sanh
nghi. Còn cái nghi của mấy vị thiền sư, là phải để khởi nghi tình, vậy
để khởi nghi tình như thế nào? Tôi có hỏi một vị thiền sư ở đây câu hỏi
ấy, thì vị ấy trả lời cũng không rõ lắm, ông ta chỉ bảo rằng “trước khi
cha, mẹ sinh ra anh, thì anh là cái gì?'” Rồi cứ ôm câu nghi
tình ấy mà nghĩ mãi cho đến khi vỡ ra thì gọi là ngộ. Hỏi câu ấy,
riêng tôi hiểu ngay câu trả lời ra sao mà chẳng cần khỏi nghi tình gì cả. Vì
trước đó, tôi chỉ là cái thần thức lãng đãng từ chân không khởi lên. Vậy thì
làm sao đề khởi nghi tình bây giờ? Một công án khác là: “Bản lai diện
mục của anh là gì?” Tôi lại trả lời rằng đó chính là chân không nên
lại… không thể có sự hoài nghi được. Nên phải hiểu, mỗi một đệ tử của mình,
người thầy phải đưa ra một nghi tình đặt đúng vào căn cơ người trò. Như vị đệ
tử này phải đề khởi nghi tình chữ “vô,” tức là phải khởi nghi tình rằng, cái vô
hình kia làm sao có thể khởi lên được tất cả những vật hữu hình này? người kia
thì phải đề khởi nghi tình chữ “CÓ,” hay chữ “PHẬT TÁNH” v.v… Trong tất cả
những công án trong nhà thiền, có nhiều công án khó, mà mỗi một công án như một
mũi tên đâm suốt vào tim của người đệ tử, lúc nào cũng thao thức, băn khoăn,
như người sống không sống vẹn, chết không chết an. Như công án “Ai là
người niệm Phật,” chữ AI đó là gì, từ đâu mà ra?
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
Ngày 12 tháng 5 năm 1991
Hôm nay là buổi thuyết
giảng thứ 127 về kinh Hoa Nghiêm tại chùa này.
Nay chúng ta đi vào ngài
Thiện Tài, trong những đoạn cuối cùng trên con đường tìm cầu thiện tri thức của
ngài. Chúng ta đang ở chỗ Thiện Tài đồng tử sắp từ biệt ngài Di Lặc. Đây là
những lời ngài Di Lặc nói…
KINH: Này thiện nam tử,
Đại Bồ Tát sanh nhà tôn thắng như vậy rồi…
GIẢNG: Ý ngài muốn nói
rằng, ngài thị hiện thọ sanh trong nơi tôn thắng ấy để độ chúng sanh, vì những
người đó trước đã đồng hạnh, đồng tu với ngài nhiều kiếp, đã phát bồ đề tâm,
nhưng sau đó lại quên mất, nên ngài phải trở lại để nhắc nhở cho họ tiếp tục tu
hành.
KINH: Vì biết tất cả pháp
như ảnh tượng nên đối với thế gian không ghét chê.
GIẢNG: Tất cả đều là ảnh
tượng, khi ta hiểu được nghĩa thú ấy thì không có tâm ghét bỏ, chê trách.
KINH: Vì biết tất cả pháp
như biến hóa…
GIẢNG: Ta thấy rất rõ, đạo
Phật khẳng định rõ ràng là tất cả pháp giới này, (mà chúng ta luôn nghĩ
nó ù lì cố định) đều là biến hóa, pháp nào cũng chẳng có, chẳng không.
KINH: Nên không nhiễm
trước các cõi hữu lậu..
GIẢNG: Tất cả thế gian này
hiện lên, Bồ Tát lớn đi qua như người khách, vì các ngài biết nó là biến hóa
nên không bị nhiễm trước.
KINH: Vì biết tất cả pháp
không có ngã nên giáo hóa chúng sanh lòng không nhàm mỏi. Vì liễu đạt sanh tử
dường như mộng nên trải qua tất cả kiếp mà không e sợ. Vì biết rõ các uẩn (sắc,
thọ, tưởng, hành, thức) đều như huyễn nên thị hiện thọ sanh lòng không
nhàm mỏi. Vì biết các giới, xứ, đồng pháp giới nên nơi các cảnh giới không bị
hoại diệt.
GIẢNG: Giới là 18 giới:
Gồm có, sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Sáu trần: sắc, thanh, hương, vị,
xúc, pháp. Sáu thức: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, và ý thức. Xứ
đại khái cũng giống như thế, như mắt là một xứ sở, nhìn trần lại là một xứ sở
thứ hai v.v…
KINH: Vì biết các tưởng
như dương diệm…
GIẢNG: Dương diệm là ánh
nắng quái của mặt trời, như khi ta đi trên đường nhìn đằng xa thấy ánh mặt trời
rọi trên mặt đường loang loáng như ướt nước, mà không phải nước. Những tưởng
niệm của chúng ta cũng đều như thế, chỉ như nắng quái cả mà không thật có.
KINH: Nên vào trong các
loài mà chẳng sanh điên đảo mê hoặc.
GIẢNG: Vì biết tất cả đều
như dương diệm nên đi vào bất cứ loài nào như Dạ Xoa, La Sát, súc sanh, ngạ
quỉ, loài người v.v… cũng không bị mê hoặc hay sợ hãi.
KINH: Vì đạt tất cả pháp
đều như huyễn nên vào cảnh giới ma chẳng sanh nhiễm trước.
GIẢNG: Bồ Tát dù có đi vào
cảnh giới ma cũng không bị nhiễm trước vì hiểu tất cả đều huyễn hóa.
KINH: Vì biết pháp thân
nên tất cả phiền não chẳng khi dối được.
GIẢNG: Vì tâm trụ nơi pháp
thân, chỗ bất động như như rồi, thì ngay những phiền não, lo buồn, bệnh tật
v.v.., không thể di lụy được.
KINH: Này thiện nam tử,
thân ta sanh khắp tất cả pháp giới…
GIẢNG: Ngài nói rõ rằng
tất cả pháp giới rộng lớn như thế mà thân ngài sanh cùng khắp, không có một
tinh cầu nào, một hạt bụi, một cọng cỏ nào mọc lên, hoa nào nở ra v.v… mà ngài
không nhập vào trong ấy.
KINH: Đồng các tướng sai
biệt với tất cả chúng sanh…
GIẢNG: Không có tướng sai
biệt nào của chúng sanh mà không có trong thân ngài, chúng sanh khởi một tâm
niệm ưa thích, yêu ghét v.v… thế nào ngài đều biết cả.
KINH: …(Bỏ một đoạn)… Đồng với tâm tưởng
của tất cả chúng sanh, đồng thệ nguyện với tất cả Bồ Tát mà hiện thân mình đầy
khắp pháp giới.
GIẢNG: Đây là ngài nói về
sự nhập pháp giới của ngài. Chúng sanh bời bời vô tận thế, nhưng tất cả tâm
tưởng của chúng sanh ngài đều biết cả. Tất cả Bồ Tát khác phát thệ nguyện thế
nào ngài cũng đồng những thệ nguyện như thế. Thân của ngài trùm pháp giới, thì
thân của các đại Bồ Tát khác cũng trùm pháp giới, xen kẽ lồng vào nhau nên giao
thoa rất vi diệu, vì thế ngài theo thệ nguyện đó để hiện thân mình đầy khắp
pháp giới.
KINH: …(Bỏ một đoạn)… Này thiện nam tử,
lúc ta viên mãn bổn nguyện thành nhất thiết trí…
GIẢNG: Ngài là bậc nhất
sanh bổn xứ, trong chừng tám triệu năm nữa thì ngài sẽ xuống cõi Ta Bà này bên
núi Kê Túc thị hiện thành Phật ở đó. “Viên mãn bổn nguyện thành nhất
thiết trí” là đã thành tựu bổn nguyện trí biết tất cả các pháp. Trong
kinh thường dùng hai chữ gần giống nhau, đó là “nhất thiết trí” và “nhất
thiết chủng trí.” Nhất thiết trí là biết tất cả các pháp với cái tổng
tướng của nó, thí dụ như biết tất cả các pháp là khổ, vô thường, vô ngã, biết
Niết Bàn là an lạc tịch tĩnh. Còn nhất thiết chủng trí là cái
biết sâu hơn, vì có thêm chữ “chủng” là biết tất cả dòng giống
các pháp, không những biết rõ tổng tướng của nó mà còn biết những biệt tướng
nữa. Như ngoài sự biết các pháp là khổ, nhưng trong các khổ ấy còn có muôn vàn
cơ duyên gây nên sự khổ, ngoài tám món khổ chính như sanh, già, bệnh, chết, ái
biệt ly khổ, oán tằng hội khổ… những khổ này thuộc về nhất thiết chủng
trí, vì nó đi sâu vào chi tiết hơn.
KINH: Lúc ta viên mãn bổn
nguyện Thành Nhất Thiết Trí, chứng Vô Thượng Bồ Đề, thời ngươi và Văn Thù Sư
Lợi đều được thấy ta.
GIẢNG: Ý đoạn kinh này
muốn nói rằng, ngài Văn Thù Sư Lợi là biển giác tánh nguyên sơ, nguồn phát khởi
tất cả các pháp. Còn Thiện Tài là một chúng sanh đã bắt đầu muốn trở lại biển
Chân Như ấy. Trên con đường đạo, Thiện Tài được gọi là thủy giác, còn ngài Văn
Thù là căn bổn giác. Khi cái gốc khởi lên một dòng đi xuống, đi mãi đến khi nó
bắt đầu muốn vòng trở về thì gọi là thủy giác (Thiện Tài), để nhập vào biển
Chân Như ấy là căn bổn giác (ngài Văn Thù Sư Lợi). Còn ngài Di Lặc đã trở về
gần đến nơi rồi, vì ngài đã là Nhất Sanh Bổ Xứ, chỉ còn một
kiếp nữa là thành Phật, nên ngài sẽ nhập vào Bổn giác ấy. Nên ngài muốn nói
rằng, tất cả ta với ngươi và ngài Văn Thù đều ở trong giác tánh ấy cả, và khi
ngài thành Phật, chúng ta sẽ gặp nhau tại đó. Chúng ta cũng đều là những tia
sáng phụt lên từ căn bổn giác ấy, nay bắt đầu mới có một chút thủy giác muốn
trở về, nhưng con đường còn rất xa, nhưng cũng được gọi là thủy giác. Vì khi đã
hiểu được chút ít kinh điển Đại Thừa, và có ý muốn trở về, không muốn đi sâu
hơn nữa vào sanh tử, bắt đầu nhàm chán thế gian, chĩ muốn làm con cá Tích, mặc
dù nghiệp chướng vẫn còn nhiều, vô minh còn dầy đặc, nhưng cũng tạm được gọi là
thủy giác.
KINH: Này thiện nam tử,
ngươi nên qua đến chỗ Văn Thù Sư Lợi thiện tri thức mà hỏi rằng, Bồ Tát thế nào
học Bồ Tát hạnh, thế nào nhập Phổ Hiền hạnh môn, thế nào thành tựu, thế nào
quảng đại, thế nào tùy thuận, thế nào thanh tịnh, thế nào viên mãn? Văn Thù sư
Lợi sẽ vì ngươi mà phân biệt diễn nói.
GIẢNG: Ý ngài Di Lặc vẫn
dạy rằng, Thiện Tài trước kia ra đi, do sức gia trì của ngài Văn Thù Sư Lợi.
Lịch trình tu chứng Phật giáo là con đường đi vòng xoáy trôn ốc, cái vòng ấy
khởi lên và vòng trở lại, nhưng dần dần đi lên đến những nấc cao hơn. Chúng ta
cũng “đi lòng vòng’ hoài đấy chứ, nhưng cái đi lòng vòng của
chúng ta không giúp ích gì cho ta mấy đỗi, không đưa chúng ta đi lên mà nhiều
khi lại còn đi xuống, vì còn đầy những vọng tình và vọng tưởng. Sáng thức dậy
đánh rằng rửa mặt, đi làm, chiều về ra quán ăn uống, nói ba câu chuyện tào lao,
sau đó lại… trở về nhà. Đó cũng là một vòng chu kỳ của đời sống, nhưng nó không
phải vòng trôn ốc, vì chỉ lập đi lập lại từng đó động tác mà không có gì làm
chúng ta thăng hoa, nên không giúp ích gì cho sự giải thoát của chúng ta mấy
đỗi. Nhưng cho đến một lúc nào đó, khi tâm thức chín mùi, chu kỳ ấy chợt thay
đổi chút ít, biết thích đọc kinh sách, thích suy tư về kinh, rồi có ý tưởng
muốn quay trở về. Lúc đó, từng ngày, từng tháng, từng năm, từng kiếp sống, tâm
thức sẽ được dũa mài để chín mùi hơn, đường vòng trôn ốc càng ngày càng đi lên
hơn, rồi đến một kiếp nào đó, chúng ta cũng là một Thiện Tài đi tìm cầu các
thiện tri thức như thế này. Hoặc giả, nếu đủ túc duyên chúng ta sẽ được vãng
sanh bên Cực Lạc, con đường tu sẽ thênh thang rộng mở, được vào bậc bất thối
chuyển, khi hoa sen nở, đắc vô sanh pháp nhẫn, bay đi mười phương cúng dường
chư Phật cùng dự những pháp hội nhiệm mầu, có thể hóa thân để độ sanh.
Bây giờ, Thiện Tài sẽ đến
gặp ngài Văn Thù Sư Lợi, sau đó sẽ gặp ngài Phổ Hiền. Ngày trước Thiện Tài bắt
đầu đi về phương Nam, đi mãi mãi sắp kết thúc một vòng tròn, giờ sắp trở về Bồ
đề Đạo Tràng, sẽ được gặp ngài Phổ Hiền để viên mãn hạnh nguyện của mình. Thiện
Tài bắt đầu từ tạ ngài Di Lặc để đi kiếm ngài Văn Thù.
36. Hóa-Cung-Điện Thủ Nhãn Ấn Pháp
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
Phẩm Nhập Pháp Giới
Thứ ba mươi chín
Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
51.- DI LẶC BỒ TÁT
Thiện-Tài được nghe lời thiện-tri-thức dạy nhuận trạch tâm
mình, chánh-niệm tư-duy công-hạnh của Bồ-Tát. Tự nhớ đời trước chẳng tu hạnh lễ
kính, tức thời phát tâm cố gắng tiến bước. Lại nhớ đời trước thân tâm chẳng
thanh-tịnh, tức thời phát tâm chuyên tự sửa sạch. Lại nhớ đời trước làm những
ác-nghiệp, tức thời phát ý chuyên tự phòng ngừa và dứt diệt. Lại nhớ đời trước
khởi những vọng-tưởng, tức thời phát ý hằng suy gẫm chơn chánh. Lại nhớ đời
trước tu tập chỉ vì tự-thân, tức thời phát ý khiến tâm quảng-đại lợi khắp
chúng-sanh. Lại nhớ đời trước theo cầu cảnh dục thường tự tổn hao không chút
lợi ích, tức thời phát ý tu hành phật-pháp nuôi lớn các căn để tự an-ổn. Lại
nhớ đời trước khởi tà tư-niệm điên-đảo, tức thời phát ý sanh tâm chánh-kiến
khởi nguyện bồ-tát. Lại nhớ đời trước ngày đêm siêng nhọc làm những sự ác, tức
thời phát ý khởi đại tinh-tấn thành-tựu phật-pháp. Lại nhớ đời trước thọ sanh
ngũ-thú, thân mình thân người đều không lợi ích, tức thời phát ý nguyện đem
thân mình nhiêu ích chúng-sanh thành-tựu phật-pháp kính thờ tất cả
thiện-tri-thức. Suy nghĩ như trên đây rồi trong lòng rất hoan-hỉ.
Thiện-Tài lại quán thân nầy là nhà khổ sanh lão bịnh tử.
Nguyện tận kiếp vị-lai tu bồ-tát-đạo giáo-hóa chúng-sanh, gặp chư Như-Lai thành
tựu phật-pháp, du hành tất cả cõi Phật, kính thờ tất cả pháp-sư, trụ-trì tất cả
phật-giáo, tìm cầu tất cả pháp-lữ, thấy tất cả thiện-tri-thức, chứa họp tất cả
những phật-pháp, làm nhơn-duyên cho tất cả bồ-tát nguyện-trí-thân. Lúc nghĩ như
vậy, Thiện-Tài được thêm lớn vô-lượng thiện-căn. Liền ở nơi tất cả Bồ-Tát thâm
tín tôn trọng, tưởng là hi-hữu, tưởng là đại-sư, các căn thanh-tịnh, pháp lành
càng thêm, khởi tất cả bồ-tát cung kính cúng-dường, làm tất cả bồ-tát cúi mình
chắp tay, sanh con mắt thấy khắp thế-gian của tất cả Bồ-Tát, khởi lòng nhớ khắp
chúng-sanh của tất cả Bồ-Tát, hiện vô-lượng thân nguyện-hóa của tất cả Bồ-Tát,
xuất âm-thanh nói khen thanh-tịnh của tất cả Bồ-Tát, thấy tất cả chư Phật và
Bồ-Tát quá-khứ, hiện-tại, thị-hiện thành đạo và thần-thông biến-hóa ở khắp mọi
nơi. Nhẫn đến không có một chỗ nhỏ nào bằng đầu sợi lông mà chẳng châu biến.
Thiện-Tài lại được trí-nhãn quang-minh thanh-tịnh, thấy
cảnh-giới sở-hành của tất cả Bồ-Tát, Tâm vào khắp thập phương sát-võng, nguyện
rộng khắp hư-không pháp-giới, tam thế bình-đẳng không thôi nghỉ.
Tất cả những sự lợi ích lớn mà Thiện-Tài đã được, đều do tin
thọ lời dạy của thiện-tri-thức cả.
Ðến nước Hải-Ngạn, Thiện-Tài dùng tâm tôn trọng như vậy,
cúng-dường như vậy, xưng tán như vậy, quán-sát như vậy, nguyện lực như vậy,
tưởng niệm như vậy, vô-lượng cảnh-giới trí-huệ như vậy, ở trước đại lâu-các
Tỳ-Lô-Giá-Na Trang-Nghiêm-Tạng gieo năm vóc đảnh lễ, tạm thời nhiếp niệm tư duy
quán-sát.
Vì sức đại-nguyện tín giải sâu nên nhập môn trí-huệ-thân
bình-đẳng khắp tất cả xứ, hiện thân mình ở khắp trước chư Như-Lai, chư Bồ-Tát,
chư thiện-tri-thức, chư Phật tháp miếu, chư Phật hình tượng, ở trước tất cả chỗ
ở của chư Phật chư Bồ-Tát, tất cả pháp-bửu, tất cả Thanh-Văn, Bích-Chi-Phật va
tháp miếu của chư vị ấy. Cũng hiện thân mình ở trước tất cả Thánh-Chúng, tất cả
phụ-mẫu, tất cả chúng-sanh. Tất cả chỗ, Thiện-Tài đều tôn trọng lễ tán suốt
vị-lai-tế không thôi nghỉ, khắp hư-không vì chẳng có biên-lượng, khắp pháp-giới
vì không chướng-ngại, khắp thiệt-tế vì khắp tất cả, khắp Như-Lai vì vô
phân-biệt, dường như bóng vì tùy trí hiện, dường như mộng vì từ tư-duy khởi,
giống như tượng vì thị hiện tất cả, dường như vang vì theo duyên mà phát, không
có sanh vì xoay vần khởi diệt, không có tánh vì theo duyên mà chuyển.
Lại quyết định biết tất cả báo đều do nghiệp, tất cả quả đều
do nhơn, tất cả nghiệp, đều do hoặc tập, tất cả Phật xuất thế đều do đức tin,
tất cả sự hóa hiện cúng-dường đều do quyết định giải, tất cả Hóa-Phật đều do
tâm cung-kính, tất cả phật-pháp đều do thiện-căn, tất cả hóa-thân đều do phương
tiện, tất cả phật-sự đều do đại-nguyện, tất cả Bồ-Tát tu công-hạnh đều do
hồi-hướng, tất cả pháp-giới quảng-đại trang-nghiêm đều từ cảnh-giới
nhất-thiết-trí.
Rời đoạn-kiến nên biết hồi-hướng, rời thường-kiến nên biết
vô-sanh, rời vô nhơn-kiến nên biết chánh-nhơn, rời điên-đảo-kiến nên biết
như-thật-lý, rời tự-tại-kiến nên biết chẳng do nơi khác, rời tự-tha-kiến nên
biết từ-duyên-khởi, rời biên-chấp-kiến nên biết pháp-giới vô-biên, rời
vãng-lai-kiến nên biết như ảnh tượng, rời hữu-vô-kiến nên biết chẳng sanh diệt,
rời nhất thiết-pháp-kiến nên biết không, vô sanh, nên biết chẳng tự-tại, nên
biết do nguyện lực xuất sanh, rời nhất-thiết-tướng kiến nên nhập vô-tướng-tế.
Vì biết tất cả pháp như hột giống nẩy mầm, như ấn sanh văn.
Vì biết chất như tượng, biết thanh-âm như vang, biết cảnh như
mộng, biết nghiệp như huyễn, rõ đời do tâm hiện, quả do nhơn khởi, rõ báo do
nghiệp tập.
Biết rõ tất cả pháp công-đức đều từ bồ-tát phương-tiện
thiện-xảo mà lưu xuất
Thiện-Tài Ðồng-Tử nhập quán-trí như vậy, đoan tâm khiết niệm,
ở trước lâu các mọp lạy sát đất, bất-tư-nghì thiện-căn lưu chú thân tâm mát mẻ
thơ-thời. Rồi đứng dậy chiêm ngưỡng, mắt không tạm rời, chắp tay hữu nhiễu
vô-lượng vòng. Tự nghĩ rằng:
Ðại lâu các nầy là chỗ ở của bậc đạt không, vô-tướng,
vô-nguyện.
Là chỗ ở bực nhất-thiết-pháp vô-phân-biệt.
Là chỗ ở của bậc rõ pháp-giới vô-sai-biệt.
Là chỗ ở của bậc biết tất cả chúng-sanh bất-khả-đắc.
Là chỗ ở của bậc biết tất cả pháp vô-sanh.
Là chỗ ở của bậc chẳng tham chấp tất cả thế-gian.
Là chỗ ở của bậc chẳng tham chấp tất cả nhà của.
Là chỗ ở của bậc chẳng thích tất cả tụ-lạc.
Là chỗ ở của bậc chẳng dựa tất cả cảnh-giới.
Là chỗ ở của bậc lìa tất cả tưởng.
Là chỗ ở của bậc biết tất cả pháp không tự-tánh.
Là chỗ ở của bậc dứt tất cả nghiệp phân-biệt.
Là chỗ ở của bậc lìa tất cả tưởng, tâm, ý, thức.
Là chỗ ở của bậc chẳng xuất, chẳng nhập tất cả đạo.
Là chỗ ở của bậc nhập thậm-thâm bát-nhã ba-la-mật.
Là chỗ ở của bậc hay dùng phương-tiện trụ phổ-môn pháp-giới.
Là chỗ ở của bậc tắt dứt tất cả lửa phiền não.
Là chỗ ở của bậc dùng tăng-thượng huệ dứt trừ tất cả kiến, ái,
mạn.
Là chỗ ở của bậc xuất sanh tất cả thiền, giải-thoát, tam-muội,
thông-sáng và du-hí trong đó.
Là chỗ ở của bậc cảnh-giới tam-muội của tất cả Bồ-Tát.
Là chỗ ở của bậc an-trụ chỗ của tất cả Như-Lai.
Là chỗ ở của bậc đem một kiếp vào tất cả kiếp, đem tất cả kiếp
vào một kiếp mà không hư tướng thời-gian.
Là chỗ ở của bậc đem một thế-giới vào tất cả thế-giới, đem tất
cả thế-giới vào một thế-giới mà chẳng hoại tướng không-gian.
Là chỗ ở của bậc đem một pháp vào tất cả pháp, đem tất cả pháp
vào một pháp mà chẳng hư hoại tướng của pháp.
Là chỗ ở của bậc đem một chúng-sanh vào tất cả chúng-sanh, đem
tất cả chúng-sanh vào một chúng-sanh, mà không hư tướng chúng-sanh.
Là chỗ ở của bậc đem một Phật vào tất cả Phật, đem tất cả Phật
vào một Phật, mà chẳng hoại tướng Phật.
Là chỗ ở của bậc ở trong một niệm mà biết tất cả tam-thế.
Là chỗ ở của bậc trong khoảng một niệm qua đến tất cả quốc-độ.
Là chỗ ở của bậc hiện thân mình ra trước tất cả chúng-sanh.
Là chỗ ở của bậc tâm thường lợi ích tất cả thế-gian.
Là chỗ ở của bậc hay đến khắp tất cả chỗ.
La chỗ ở của bậc dầu đã thoát ly tất cả thế-gian, nhưng vì hóa
độ chúng-sanh nên hằng hiện thân ở trong-thế-gian.
Là chỗ ở của bậc chẳng chấp lấy tất cả cõi, nhưng vì
cúng-dường chư Phật mà du hành tất cả cõi.
Là chỗ ở của bậc chẳng động bổn-xứ, mà có thể đến khắp tất cả
phật-độ để trang-nghiêm.
Là chỗ ở của bậc thân cận tất cả Phật mà chẳng khởi
phật-tưởng.
Là chỗ ở của bậc y chỉ tất cả thiện-tri-thức mà chẳng khởi
thiện-tri-thức tưởng.
Là chỗ ở của bậc ở tất cả ma-cung mà chẳng đắm nhiễm cảnh dục.
Là chỗ ở của bậc rời hẳn tất cả tâm tưởng.
Là chỗ ở của bậc dầu hiện thân trong tất cả chúng-sanh mà
không có quan niệm mình người riêng khác.
Là chỗ ở của bậc hay vào khắp tất cả thế-giới, mà đối với
pháp-giới không có tưởng sai biệt.
Là chỗ ở của bậc nguyên trụ tất cả kiếp vị-lai, nhưng đối với
kiếp số không có quan-niệm thời-gian dài vắn.
Là chỗ ở của bậc chẳng rời chỗ một đầu sợi lông mà hiện thân
khắp tất cả thế-giới.
Là chỗ ở của bậc hay diễn thuyết những pháp khó được gặp, được
nghe.
Là chỗ ở của bậc hay trụ pháp khó biết, pháp thậm thâm, pháp
không hai, pháp vô-tướng, pháp không đối-trị, pháp vô-sở-đắc, pháp không
hí-luận.
Là chỗ ở của bậc trụ đại-từ đại-bi.
Là chỗ ở của bậc đã vượt hẳn trí nhị-thừa, đã siêu cảnh-giới
ma, đã không nhiễm thế-pháp, đã đến bờ của Bồ-Tát đã đến, đã trụ nơi chỗ trụ
của Như-Lai.
Là chỗ ở của bậc dầu rời tất cả tướng mà chẳng nhập chánh-vị
của Thanh-Văn, dầu rõ tất cả pháp vô-sanh mà cũng chẳng trụ pháp-tánh vô-sanh.
Là chỗ ở của bậc dầu quán bất-tịnh mà chẳng chứng pháp ly-tham
cũng chẳng cùng chung với tham-dục, dầu tu hạnh từ mà chẳng chứng pháp ly-sân
cũng chẳng cùng chung với sân hận, dầu quán duyên-khởi mà chẳng chứng pháp
ly-si cũng chẳng cùng chung với si hoặc.
Là chỗ ở của bậc dầu trụ tứ-thiền mà chẳng tùy thiền sanh, dầu
tu hành tứ-vô-lượng-tâm nhưng vì hóa độ chúng-sanh nên chẳng sanh cõi sắc, dầu
tu vô-sắc-định nhưng vì đại-bi nên chẳng trụ cõi vô-sắc.
Là chỗ ở của bậc dầu siêng tu chỉ quán nhưng vì hóa độ
chúng-sanh nên chẳng chứng quả giải thoát, dầu thật hành hạnh xả mà chẳng bỏ sự
hóa độ chúng-sanh.
Là chỗ ở của bậc dầu quán không mà chẳng khởi không-kiến, dầu
hành vô-tướng mà thường giáo-hóa chúng-sanh chấp tướng, dầu hành vô-nguyện mà
chẳng bỏ hạnh nguyện vô-thượng bồ-đề.
Là chỗ ở của bậc dầu ở trong tất cả nghiệp phiền-não mà vẫn
tự-tại, vì để hóa độ chúng-sanh nên tùy-thuân các nghiệp phiền-não, dầu không
sanh tử mà vì hóa độ chúng-sanh nên thị hiện thọ sanh tử, dầu đã rời tất cả
loài mà vì hóa độ chúng-sanh nên thị hiện vào các loài.
Là chỗ ở của bậc dầu thật hành hạnh từ mà không ái luyến
chúng-sanh, dầu thật hành hạnh bi mà không chấp trước chúng-sanh, dầu thật hành
hạnh hỉ mà thường ai mẫn chúng-sanh khổ, dầu thật hành hạnh xả mà chẳng bỏ sự
lợi ích cho người khác.
Là chỗ ở của bậc dầu hành cửu thứ-đệ-định mà chẳng nhàm lìa
thọ sanh dục-giới, dầu biết tất cả pháp vô sanh vô diệt mà chẳng tác chứng nơi
thiệt-tế, dầu nhập ba môn giải-thoát mà chẳng lấy quả giải-thoát của Thanh-Văn,
dầu quán tứ thánh-đế mà chẳng trụ quả tiểu-thừa, dầu quán duyên khởi thậm-thâm
mà chẳng trụ rốt ráo tịch-diệt, dầu tu bát thánh-đạo mà chẳng cầu thoát hẳn
thế-gian, dầu siêu phàm-phu-địa mà chẳng sa Thanh-Văn Bích-Chi-Phật-Ðịa, dầu
quán ngũ-thủ-uẩn mà chẳng diệt hẳn các uẩn, dầu siêu-xuất tứ ma mà chẳng phân
biệt các ma, dầu chẳng chấp lục xứ mà chẳng dứt hẳn lục xứ, dầu an-trụ
chân-như mà chẳng đọa thiệt-tế, dầu nói tất cả thừa mà chẳng bỏ đại-thừa.
Bấy giờ Thiện-Tài nói kệ rằng:
Lâu các đây là chỗ ở của
Ðức Từ-Thị lợi ích thế-gian
Quán-đảnh đại-bi thanh-tịnh-trí
Pháp-Vương-Tử nhập Như-Lai cảnh.
Tất cả Phật-tử có tiếng tăm
Ðã nhập môn giải-thoát đại thừa
Du hành pháp-giới tâm không nhiễm
Bậc vô-đẳng ở lâu các nầy.
Thí, giới, nhẫn, tấn, thiền, trí, huệ,
Phương-tiện, nguyện, lực và thần thông
Những bậc đầy đủ đại-thừa-hạnh
Mười ba-la-mật ở lầu nầy.
Trí-huệ rộng lớn như hư-không
Khắp biết tam thế tất cả pháp
Vô-ngại, vô-y, không chấp lấy
Biết rõ các cõi ở lầu nầy.
Khéo biết rõ được tất cả pháp
Không tánh, không sanh, không sở-y
Như chim bay không, được tự-tại
Bậc có đại-trí ở lầu nầy.
Biết rõ phiền-não chân-thật-tánh
Phân-biệt nhơn-duyên hư-vọng khởi
Cũng chẳng nhàm nó mà cầu ra
Lầu nầy của bậc tịch-tịnh ở.
Ba môn giải-thoát, tám thánh-đạo
các uẩn, xứ, giới và duyên-khởi
Ðều hay quán-sát chẳng nhập diệt
Bậc thiện-xảo đây ở lầu nầy.
Mười phương quốc-độ và chúng-sanh
Dùng trí vô-ngại đều quán-sát
Biết tánh đều không chẳng phân biệt
Bậc chứng tịch-diệt ở lầu nầy.
Ði khắp pháp-giới đều vô-ngại
Mà cầu tánh đi chẳng thể được
Như gió trong không chẳng chỗ đi
Lầu nầy của bậc vô-y ở.
Thấy khắp ác-đạo loài quần-sanh
Chịu những khổ độc không nơi về
Phóng đại-từ-quang đều trừ diệt
Lầu nầy của bậc từ-mẫn ở.
Thấy các chúng-sanh mất chánh-đạo
Như kẻ đui mù đi đường hiểm
Dẫn họ vào thẳng thành giải-thoát
Lầu nầy của bậc Ðạo-Sư ở.
Thấy các chúng-sanh vào lưới ma
Sanh lão bệnh tử thường bức bách
Cứu họ thoát khổ được an vui
Lầu nầy của bậc dũng-kiện ở.
Thấy các chúng-sanh mang phiền-não
Nên sanh lòng bi-mẫn quảng đại
Dùng thuốc trí-huệ đều trừ diệt
Lầu nầy của bậc y-vương ở.
Thấy các quần-sanh chìm biển khổ
Nổi trôi chịu bao sanh tử khổ
Ðều dùng pháp-thuyền cứu vớt họ
Lầu nầy của bậc khéo độ ở.
Thấy các chúng-sanh tại phiền-não
Hay phát tâm bồ-đề diệu-bửu
Ðều vào trong đó để cứu họ
Lầu nầy của bậc khéo vớt ở.
Hằng dùng cập mắt đại từ-bi
Quán khắp tất cả các chúng-sanh
Cứu họ thoát khỏi biển sanh tử
Lầu nầy của Kim-Sí-Vương ở.
Như vầng nhật nguyệt tại hư-không
Tất cả thế-gian được soi sáng
Ánh sáng trí-huệ cũng như vậy
Lầu nầy của bậc Chiếu-Thế ở.
Bồ-Tát vì độ một chúng-sanh
Khắp cả vị-lai vô-lượng kiếp
Vì độ tất cả cũng như vậy
Lầu nầy của bậc Cứu-Thế ở.
Tại một quốc-độ cứu chúng-sanh
Tận vị-lai kiếp không thôi nghĩ
Mỗi mỗi quốc-độ đều như vậy
Lầu nầy của bậc kiên-cố ở.
Chánh-pháp của chư Phật diễn nói
Bồ-Tát nghe lãnh đều khắp hết
Suốt kiếp vị-lai đều vậy cả
Lầu nầy của bậc trí-hải ở.
Ði khắp tất cả thế-giới-hải
Vào khắp tất cả đạo tràng-hải
Cúng-dường tất cả như-lai-hải
Lầu nầy của bậc tu hành ở.
Tu hành tất cả diệu-hạnh-hải
Phát khởi vô-biên đại-nguyện-hải
Như vậy trải qua những kiếp-hải
Lầu nầy của bậc công-đức ở.
Chỗ một đầu lông vô-lượng cõi
Phật, chúng-sanh, kiếp bất-khả-thuyết
Thấy rõ như vậy đều cùng khắp
Lầu nầy của bậc vô-ngại-nhãn.
Một niệm nhiếp khắp vô-biên kiếp
Quốc-độ, chư Phật và chúng-sanh
Trí-huệ vô-ngại đều chánh biết
Lầu nầy của bậc đủ đức ở.
Mười phương quốc-độ nghiền làm bụi
Tất cả đại-hải cùng lông chấm
Bồ-Tát phát nguyện số như vậy
Lầu nầy của bậc vô-ngại ở.
Thành-tựu tổng-trì môn tam-muội
Ðại nguyện thiền-định và giải thoát
Mỗi mỗi đều trụ vô-biên kiếp
Lầu nầy của bậc chân Phật-Tử.
Vô-lượng vô-biên các Phật-Tử
Luôn luôn thuyết pháp độ chúng-sanh
Cũng nói thế-gian các kỹ-thuật
Lầu nầy của bậc tu hành ở.
Thành-tựu thần-thông trí phương-tiện
Tu hành như huyễn diệu-pháp-môn
Mười phương ngũ thú đều hiện sanh
Lầu nầy của bậc vô-ngại ở.
Bồ-Tát bắt đầu sơ-phát-tâm0
Tu hành đầy đủ tất cả hạnh
Hoá-thân vô-lượng khắp pháp-giới
Lầu nầy của bậc thần-lực ở.
Một niệm thành-tựu đạo bồ-đề
Làm khắp vô-biên hạnh trí-huệ
Thế-tình suy toán rối loạn tâm
Lầu nầy của bậc nan-lượng ở.
Thành-tựu thần-thông không chướng-ngại
Du hành pháp-giới đều cùng khắp
Nơi tâm chưa từng có sở-đắc
Lầu nầy của bậc tịnh-huệ ở.
Bồ-Tát tu hành huệ vô-ngại
Vào các quốc-độ không nhiễm trước
Dùng trí vô-nhị chiếu khắp nơi
Lầu nầy của bậc vô-ngã ở.
Biết rõ các pháp không y-chỉ.
Bổn-tánh tịch-diệt đồng hư-không
Thường đi trong cảnh-giới như vậy
Lầu nầy của bậc ly-cấu ở.
Thấy khắp quần-sanh chịu khốn khổ
Pháp tâm nhơn từ đại trí-huệ
Nguyện thường lợi ích các thế-gian
Lầu nầy của bậc bi mẫn ở.
Phật-Tử ở lầu nầy
Hiện khắp chỗ chúng-sanh
Dường như vầng nhật nguyệt
Khắp trừ tối thế-gian.
Phật-Tử ở lầu nầy
Thuận khắp tâm chúng-sanh
Biến hiện vô-lượng thân
Sung-mãn mười phương cõi.
Phật-Tử ở lầu nầy
Ði khắp các thế-giới
Tất cả chỗ Như-Lai
Vô-lượng vô-số kiếp.
Phật-Tử ở lầu nầy
Tư-lương các phật-pháp
Vô-lượng vô-số kiếp
Tâm không hề nhàm mỏi.
Phật-Tử ở lầu nầy
Niệm niệm nhập tam-muội
Mỗi mỗi môn tam-muội
Xiển minh cảnh-giới Phật.
Phật-Tử ở lầu nầy
Ðều biết tất cả cõi
Vô-lượng vô-số kiếp
Danh-hiệu Phật, chúng-sanh.
Phật-Tử ở lầu nầy
Một niệm nhiếp các kiếp
Chỉ tùy tâm chúng-sanh
Mà không lòng phân-biệt.
Phật-Tử ở lầu nầy
Tu tập các tam-muội
Trong mỗi mỗi tâm-niệm
Biết rõ pháp tam-thế.
Phật-Tử ở lầu nầy
Kiết-già thân bất-động
Hiện khắp tất cả cõi
Trong tất cả các loài.
Phật-Tử ở lầu nầy
Uống nước biển phật-pháp
Vào sâu biển trí-huệ
Ðầy đủ biển công-đức.
Phật-Tử ở lầu nầy
Biết rõ số các cõi
Số đời, số chúng-sanh
Số phật-danh cũng vậy.
Phật-Tử ở lầu nầy
Một niệm đều biết rõ
Trong tất cả tam thế
Quốc-độ thành hay hoại.
Phật-Tử ở lầu nầy
Biết rõ hạnh nguyện Phật
Bồ-Tát hạnh tu hành
Chúng-sanh căn, tánh, dục.
Phật-Tử ở lầu nầy
Thấy trong một vị-trần
Vô-lượng cõi đạo-tràng
Chúng-sanh và các kiếp.
Như trong một vi-trần
Tất cả trần cũng vậy
Các thứ đều đầy đủ
Xứ xứ đều vô-ngại.
Phật-Tử trụ ở đây
Quán khắp tất cả pháp
Chúng-sanh, cõi và đời
không sanh, không sở-hữu.
Quán-sát những chúng-sanh
Chánh-pháp và Như-Lai
Quốc-độ cùng chí-nguyện
Tam-thế đều bình-đẳng.
Phật-Tử ở lầu nầy
Giáo-hóa các quần-sanh
Cúng-dường chư Như-Lai
Tư-duy các pháp-tánh.
Vô-lượng ngàn muôn kiếp
Tu tập nguyện, trí, hạnh
Rộng lớn chẳng thể lường
Tán dương chẳng thể hết.
Các bậc đại dũng-mãnh
Chỗ làm không chướng-ngại
An trụ ở trong đây
Tôi chắp tay kính lễ.
Trưởng-Tử của chư Phật
Ðức Di-Lặc Bồ-Tát
Nay tôi cung kính lễ
Cúi xin thương tưởng tôi.
Sau khi dùng vô-lượng pháp xưng tán để tán dương chư Bồ-Tát ở trong
đại lâu-các Tỳ-Lô-Giá-Na-Trang-Nghiêm, Thiện-Tài cung kính đảnh lễ nhất-tâm
nguyện thấy DI LẶC BỒ TÁT để thân-cận cúng-dường, bèn thấy đức Di-Lặc
Bồ-Tát từ chỗ khác đến, vô-lượng Thiện, Long, Bát-Bộ, Ðế-Thích, Phạm-Vương,
Tứ-Thiện-Vương cùng vô-lượng thân-quyến và vô-số chúng-sanh theo Di-Laặc
Bồ-Tát.
Thiện-Tài vui mừng hớn hở, gieo mình mọp lạy.
Di-Lặc Bồ-Tát quan-sát Thiện-Tài, chỉ-thị với đại-chúng về
công-đức của Thiện-Tài mà nói kệ rằng:
Ðại-chúng xem Thiện-Tài
Tâm trí-huệ thanh-tịnh
Vì cầu hạnh bồ-đề
Nên đến lầu của ta.
Lành thay viên-mãn-từ!
Lành thay thanh-tịnh-bi!
Lành thay tịch-tịch-nhãn!
Tu hành không lười mỏi.
Lành thay thanh-tịnh ý!
Lành thay quảng-đại-tâm!
Lành thay bất-thối-căn!
Tu hành không lười mỏi.
Lành thay bất-động-hạnh!
Thường cầu thiện-tri-thức
Thấu rõ tất cả pháp
Ðiều phục các quần-sanh.
Lành thay hành diệu-đạo!
Lành thay trụ công-đức!
Lành thay xu phật-quả!
Chưa từng có mỏi nhọc.
Lành thay đức làm thể
Lành thay pháp tư nhuận
Lành thay vô-biên-hạnh
Thế-gian khó được thấy.
Lành thay lìa mê hoặc
Thế pháp chẳng nhiễm được
Lợi, suy, chê, khen thảy
Tất cả không phân biệt.
Lành thay chí an lạc
Ðiều-nhu kham dược độ
Tâm siểm cuống sân mạn
Tất cả đều trừ-diệt.
Lành thay chân Phật-Tử
Ðến khắp cả mười phương
Thêm lớn các công-đức
Ðiều-nhu không lười mỏi.
Lành thay tam-thế trí
Biết khắp tất cả pháp
Khắp sanh tạng công-đức
Tu hành chẳng mỏi nhàm.
Văn-Thù, Ðức-Vân thảy
Tất cả các Phật-Tử
Bảo ngươi đến gặp ta
Dạy ngươi chỗ vô-ngại.
Tu đủ hạnh bồ-tát
Nhiếp khắp các quần-sanh
Người quảng đại như đây
Nay đến tìm gặp ta.
Vì cầu những cảnh-giới
Thanh-tịnh của Như-Lai
Nên hỏi nguyện quảng-đại
Nay đến tìm gặp ta.
Phật quá, hiện, vị-lai
Ðã thành tựu công-hạnh
Người muốn tu học cả
Nay đến tìm gặp ta.
Với chư thiện-tri-thức
Ngươi cầu pháp vi-diệu
Muốn thọ bồ-tát-hạnh
Nay đến tìm gặp ta.
Ngươi nghĩ thiện-tri-thức
Ðược chư Phật khen ngợi
Làm cho người thành đạo
Nay đến tìm gặp ta.
Ngươi nghĩ thiện-tri-thức
Như cha mẹ sanh thành
Nuôi nấng như nhũ-mẫu
Lớn bồ-đề cho mình.
Như y-sư trị-bệnh,
Như trời rưới cam-lộ,
Như mặt nhật soi đường,
Như mặt nguyệt thanh-tịnh,
Như núi vững không lay,
Như biển không tăng giảm,
Như lái thuyền tế độ,
Nay tìm đến gặp ta.
Ngươi xem thiện-tri-thức
Dường như tướng dũng-mãnh
Cũng như chủ thương-gia
Lại như đại đạo-sư,
Hay dựng tràng chánh-pháp,
Hay bày phật công-đức,
Hay diệt các ác-đạo,
Hay mở cửa đường lành,
Hay hiển thân chư Phật,
Hay gìn tạng chư Phật,
Hay giữ pháp chư Phật,
Nên ngươi nguyện kính thờ.
Muốn đủ trí thanh-tịnh
Muốn đầy thân đoan-chánh
Muốn sanh nhà tôn-quý
Nay ngươi đến gặp ta.
Ðại-chúng xem người nầy
Gần-gũi thiện-tri-thức
Chỗ người nầy tu học
Tất cả phải thuận hành.
Do phước-duyên thuở trước
Văn-Thù khiến phát tâm
Tùy thuận không trái nghịch
Tu hành chẳng mỏi nhọc.
Cha mẹ cùng thân thuộc
Cung-điện và tài sản
Tất cả đều bỏ lìa
Khiêm hạ cầu tri-thức.
Tịnh trị ý như vậy
Rời hẳn thân thế-gian
Thường sanh cõi cước Phật
Hưởng quả báo thù thắng.
Thiện-Tài thấy chúng-sanh
Khổ sanh, già, bệnh, chết
Vì phát ý đại-bi
Siêng tu đạo vô-thượng.
Thiện-Tài thấy chúng-sanh
Ngũ-thú thường lưu chuyển
Vì cầu kim-cang-trí
Ðể phá những khổ-luân.
Thiện-Tài thấy chúng-sanh
Tâm-điền rất hoang dơ
Vì trừ gai tam độc
Chuyên cầu cày trí bén.
Chúng-sanh ở si tối
Ðui mù mất chánh-đạo
Thiện-Tài làm đạo-sư
Chỉ cho chỗ an ổn.
Giáp nhẫn, xe giải-thoát,
Trí-huệ làm gươm bén
Hay ở trong ba cõi
Phá các giặc phiền-não.
Thiện-Tài lái thuyền pháp
Tế độ khắp hàm-thức
Vượt qua biển lửa dữ
Mau đến xứ tịnh-bửu.
Thiện-Tài mặt nhật sáng
Vầng trí-quang đại-nguyện
Ði khắp pháp-giới-không
Chiếu khắp nhà quần-mê.
Thiện-Tài mặt nguyệt sáng
Pháp lành đều viên-mãn
Từ tam-muội thanh-lương
Chiếu khắp tâm chúng-sanh.
Thiện-Tài biển thắng-trí
An-trụ nơi trực-tâm
Hạnh bồ-đề lần sâu
Xuất sanh những pháp-bửu.
Thiện-Tài rồng đại-tâm
Bay lên pháp-giới-không
Nổi mây tuôn mưa ngọt
Sanh thành tất cả quả.
Thiện-Tài thắp đèn pháp
Tim: tin, dầu: từ bi,
Bình: niệm, sáng: công-đức
Diệt trù tối tam độc.
Giác-tâm: ca-la-lã,
Bi: bào thai, từ: thịt,
Bồ-đề phần: chi tiết
Lớn nơi như-lai-tạng.
Thêm lớn phước-đức-tạng,
Thanh-tịnh trí-huệ-tạng,
Khai hiển phương-tiện-tạng,
Xuất sanh đại-nguyện-tạng,
Ðại-trang-nghiêm như vậy
Cứu hộ các quần-sanh
Trong tất cả thiên nhơn
Khó nghe khó thấy được.
Cây trí-huệ như vậy
Rễ sâu chẳng lay động
Công-hạnh lần tăng trưởng
Che mát khắp quần-sanh.
Muốn sanh tất cả đức
Muốn hỏi tất cả pháp
Muốn dứt tất cả nghi
Chuyên cầu thiện-tri-thức.
Muốn phá những ma hoặc
Muốn trừ những kiến chấp
Muốn mở trói chúng-sanh
Chuyên cầu thiện-tri-thức.
Phải diệt các ác-đạo,
Phải chỉ đường nhơn thiên,
Khiến ta công-đức-hạnh,
Mau nhập thành niết-bàn,
Phải độ nạn chấp kiến,
Phải cắt lưới chấp kiến,
Phải khô nước ái dục,
Phải chỉ đường ba cõi,
Phải làm chỗ đời nương
Phải làm săng đời soi
Phải làm thầy ba cõi
Chỉ cho chỗ giải-thoát.
Cũng phải khiến thế-gian
lìa tất cả tưởng chấp
Ðánh thức giấc phiền-não
Thoát bùn lầy ái dục.
Phải biết tất cả pháp,
Phải tịnh tất cả cõi
Tất cả đều rốt ráo
Trong lòng rất hoan-hỉ.
Hạnh ngươi rất điều-nhu
Tâm ngươi rất thanh-tịnh
Những công-đức muốn tu
Tất cả sẽ viên-mãn.
Ngươi sẽ thấy chư Phật
Thấu rõ tất cả pháp
Nghiêm tịnh tất cả cõi
Thành-tựu đại bồ-đề.
Sẽ viên-mãn hạnh-hải
Sẽ thấu rõ pháp hải
Sẽ độ chúng-sanh-hải
Tu các hạnh như vậy.
Sẽ đến bờ công-đức
Sẽ sanh những thiện-phẩm
Sẽ đồng chư Phật-Tử
Tâm quyết định như vậy.
Sẽ dứt tất cả hoặc
Sẽ sạch tất cả nghiệp
Sẽ phục tất cả ma
Ðầy đủ nguyện như vậy.
Sẽ sanh diệu-trí-đạo
Sẽ khai chánh-pháp-đạo
Chẳng lâu sẽ bỏ rời
Hoặc, nghiệp và khổ-đạo.
Tất cả chúng-sanh-luân
Trầm mê tam-hữu-luân
Ngươi sẽ chuyển pháp-luân
Cho họ hết khổ-luân.
Ngươi sẽ gìn phật-chủng
Ngươi sẽ tịnh pháp-chủng
Ngươi hay họp tăng-chủng
Tam-thế đều cùng khắp.
Sẽ cắt những lưới ái
Se xé những lưới chấp
Sẽ cứu những lưới khổ
Sẽ thành những lưới nguyện.
Sẽ độ chúng-sanh-giới
Sẽ tịnh quốc-độ-giới
Sẽ chứa tri-tuệ-giới
Sẽ thành tâm-nguyện-giới.
Sẽ làm chúng-sanh-mừng
Sẽ làm Bồ-Tát mừng
Sẽ làm chư Phật mừng
Sẽ thành sự vui mừng.
Sẽ thấy tất cả loài
Sẽ thấy tất cả cõi
Sẽ thấy tất cả pháp
Sẽ thành thấy của Phật.
Sẽ phóng sáng phá tối
Sẽ phóng sáng dứt nóng
Sẽ phóng sáng diệt ác
Trừ sạch khổ ba cõi.
Sẽ mở cửa thiên-đạo
Sẽ mở cửa Phật-đạo
Sẽ chỉ cửa giải-thoát
Sẽ bảo chúng-sanh vào.
Sẽ chỉ cho chánh-đạo
Sẽ dứt hết tà-đạo
Như vậy siêng tu hành
Thành-tựu bồ-đề đạo.
Sẽ tu công-đức-hải
Sẽ độ tam-hữu-hải
Khiến khắp chúng-sanh-hải
Thoát khỏi những khổ-hải.
Phải nơi chúng-sanh-hải
Tiêu diệt phiền-não-hải
Khiến tu những hạnh-hải
Mau vào đại-trí-hải.
Ngươi sẽ thêm trí-hải
Ngươi sẽ tu hạnh-hải
Ngươi sẽ đều đầy đủ
Chư Phật đại-nguyện-hải.
Ngươi sẽ nhập sát-hải
Ngươi sẽ quán chúng-hải
Ngươi sẽ dùng trí-lực
Uống tất cả pháp-hải.
Sẽ thấy chư-phập-vân
Sẽ khởi cúng-dường-vân
Sẽ nghe diệu-pháp-vân
Sẽ nổi những nguyện vân.
Ði khắp nhà ba cõi
Phá khắp nhà phiền-não
Vào khắp nhà Như-Lai
Sẽ hành đạo như vậy.
Vào khắp môn tam-muội
Dạo khắp môn giải-thoát
Trụ khắp môn thần-thông
Ði khắp trong pháp-giới.
Hiện khắp trước chúng-sanh
Ðối trước khắp chư Phật
Ví như sáng nhật nguyệt
Sẽ thành sức như vậy.
Chỗ đi không động loạn
Chỗ đi không nhiễm trước
Như chim bay hư không
Sẽ thành diệu-dụng nầy.
Ví như Phạm-Thiên-Võng
Sát-võng trụ như vậy
Ngươi sẽ đều qua đến
Như gió không chướng ngại.
Ngươi sẽ nhập pháp-giới
Qua khắp các thế-giới
Thấy khắp tam-thế Phật
Trong lòng rất hoan-hỉ.
Ngươi ở các pháp-môn
Ðã được và sẽ được
Phải vui mừng hớn-hở
Không tham cũng không nhàm.
Người là công-đức-khí
Hay thuận lời Phật dạy
Hay tu hạnh bồ-tát
Ðược thấy sự lạ nầy.
Chư Phật-Tử như vậy
Ức kiếp khó gặp được
Huống thấy được công-đức
Và diệu-đạo đã tu.
Ngươi sanh trong nhơn-gian
Ðược những lợi lành lớn
Ðược thấy đức Văn-Thù
Vô-lượng công-đức lớn.
Ðã rời các ác-đạo
Ðã ra khỏi chỗ nạn
Ðã vượt khỏi khổ hoạn
Lành thay! Chớ giải-đãi.
Ðã rời phàm-phu-địa
Ðã trụ bồ-tát-địa
Sẽ đầy trí-huệ-địa
Mau nhập như-lai-địa.
Bồ-tát-hạnh như biển
Phật-trí đồng hư-không
Nguyện của ngươi cũng vậy
Nên sanh lòng vui mừng.
Các căn chẳng lười trễ
Chí nguyện hằng quyết định
Thân cận thiện-tri-thức
Chẳng lâu sẽ thành mãn.
Bồ-Tát nhiều công-hạnh
Ðều vì độ chúng-sanh
Làm khắp các pháp-môn
Cẩn thận chớ nghi hoặc.
Ngươi đủ phước nan-tư
Và cùng chân-thiệt-tín
Vì thế nên hôm nay
Ðược thấy các Phật-Tử.
Ngươi thấy các Phật-Tử
Ðều được lợi rộng lớn
Mỗi mỗi những đại-nguyện
Tất cả đều tin thọ.
Ngươi ở trong ba cõi
Hay tu hạnh bồ-tát
Thế nên các Phật-Tử
Dạy cho môn giải-thoát.
Người chẳng phải pháp-khí
Cùng ở với Phật-Tử
Dầu đến vô-luợng kiếp
Cũng chẳng biết cảnh-giới.
Ngươi thấy các Bồ-Tát
Ðược nghe pháp như vậy
Thế-gian rất khó có
Nên sanh lòng vui mừng.
Chư Phật hộ niệm ngươi
Bồ-Tát nhiếp thọ ngươi
Thuận hành theo lời dạy
Lành thay trụ thọ-mạng.
Ðã sanh nhà Bồ-Tát
Ðã đủ đức Bồ-Tát
Ðã lớn giống Như-Lai
Sẽ lên bậc Quán-Ðảnh.
Chẳng lâu ngươi sẽ được
Ðồng với chư Phật-Tử
Thấy chúng-sanh khổ não
Ðều đặt chỗ an ổn.
Ðã gieo giống như vậy
Sẽ gặt trái như vậy
Nay ta khen tặng ngươi
Nên sanh lòng vui đẹp.
Vô-luợng chư Bồ-Tát
Hành đạo vô-lượng kiếp
Chưa thành được hạnh nầy
Nay ngươi đều được trọn.
Thiện-Tài thành những hạnh:
Tín, nguyện, kiên, tấn, lực,
Ai có lòng kính mộ
Cũng phải học như vậy.
Tất cả công-đức-hạnh
Ðều từ tâm nguyện sanh
Thiện-Tài đã biết rõ
Thường thích siêng tu học.
Như rồng bủa mây dầy
Tất sẽ tuôn mưa lớn
Bồ-Tát khởi nguyện trí
Quyết định tu công-hạnh.
Nếu có thiện-trí-thức
Dạy ngươi hạnh Phổ-Hiền
Ngươi nên khéo kính thờ
Cẩn thận chớ nghi hoặc.
Ngươi trong vô-lượng kiếp
Vì dục vọng bỏ thân
Nay vì cầu bồ-đề
Xả thân mới là tốt.
Ngươi trong vô-lượng kiếp
Chịu đủ khổ sanh tử
Chẳng từng thờ chư Phật
Chưa nghe hạnh như vậy.
Nay ngươi được thân người
Gặp Phật, thiện-tri-thức
Nghe lãnh hạnh bồ-đề
Thế nào chẳng hoan-hỉ.
Dầu gặp Phật xuất thế
Cũng gặp thiện-tri-thức
Mà lòng chẳng thanh-tịnh
Chẳng nghe pháp như vậy.
Nếu nơi thiện-tri-thức
Tin mến lòng tôn trọng
Lìa nghi chẳng mỏi nhàm
Mới nghe pháp như vậy.
Nếy ai nghe pháp nầy
Mà phát lòng thệ nguyện
Phải biết người như vậy
Ðược lợi ích rộng lớn.
Tâm thanh tịnh như vậy
Thường được gần chư Phật
Cũng gần chư Bồ-Tát
Quyết định thành bồ-đề.
Nếu vào pháp-môn nầy
Thời đủ các công-đức
Lìa hẳn các ác-thú
Chẳng thọ tất cả khổ.
Chẳng lâu bỏ thân nầy
Vãng sanh về Phật-Ðộ
Thường thấy thập phương Phật
Và cùng chư Bồ-Tát.
Nhơn trước, nay trí-huệ
Và thờ thiện-tri-thức
Thêm lớn các công-đức
Như nước mọc hoa sen.
Thích thờ thiện-tri-thức
Siêng cúng tất cả Phật
Chuyên tâm nghe chánh-pháp
Thường tu chớ lười mỏi.
Ngươi là chân-pháp-khí
Thường đủ tất cả pháp
Sẽ tu tất cả đạo
Sẽ mãn tất cả nguyện.
Ngươi dùng tâm tín giải
Mà đến kính lễ ta
Chẳng lâu sẽ vào khắp
Tất cả phật-pháp-hội.
Lành thay chân Phật-Tử
Cung kính tất cả Phật
Chẳng lâu đủ các hạnh
Ðến bờ phật công-đức.
Ngươi nên mau đến chỗ
Của Ðại-Trí Văn-Thù
Ngài sẽ khiến ngươi được
Hạnh thâm-diệu Phổ-Hiền.
Thiện-Tài nghe Di-Lặc Bồ-Tát ở trước đại-chúng tán dương
công-đức tạng quảng-đại của mình, liền vui mừng hớn hở, toàn thân rởn ốc, rơi
lệ nghẹn ngào, đứng dậy chắp tay cung kính hữu nhiễu vô-lượng vòng. Do sức
tưởng niệm đức Văn-Thù nên bất giác những hoa anh-lạc và diệu-bửu bỗng
nhiên đầy cả hai tay. Thiện-Tài liền rải lên cúng-dường Di-Lặc Bồ-Tát.
Bấy giờ Di-Lặc Bồ-Tát xoa đầu Thiện-Tài mà nói kệ rằng:
Lành thay, lành thay chơn Phật-Tử!
Tinh tấn các căn không lười mỏi
Chẳng lâu sẽ đủ các công-đức
Giống như Văn-Thù và Di-Lặc.
Thiện-Tài nói kệ kính thưa:
Tôi nghĩ thiện-tri-thức
Ức kiếp khó được gặp
Nay đều được thân-cận
Và đến gặp được Ngài.
Tôi nhờ đức Văn-Thù
Ðược thấy người khó thấy
Bậc đại công-đức kia
Nguyện sớm về thờ kính.
Bạch Ðại-Thánh! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề, mà chưa biết
Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo?
Ðức Như-Lai thọ ký cho Ðại-Thánh một đời sẽ chứng quả
vô-thượng chánh-giác.
Nếu là một đời sẽ được vô-thượng chánh-giác thời là đã
siêu-việt tất cả chỗ sở-trụ của Bồ-Tát, thời đã xuất quá tất cả bậc ly sanh của
Bồ-Tát, thời đã viên-mãn tất cả ba-la-mật, thời đã thâm nhập tất cả nhẫn-môn,
thời đã đầy đủ bồ-tát-địa, thời đã du-hí tất cả giải-thoát-môn, thời đã
thành-tựu tất cả pháp tam-muội, thời đã thông đạt tất cả bồ-tát-hạnh, thời đã
chứng được tất cả đà-la-ni biện-tài, thời đã ở trong tất cả bồ-tát tự-tại mà
được tự-tại, thời đã chứa nhóm tất cả pháp trợ-đạo của Bồ-Tát, thời đã du-hí
trí-huệ phương-tiện, thời đã xuất sanh trí đại thần-thông, thời đã thành-tựu
tất cả học-xứ, thời đã viên mãn tất cả diệu-hạnh, thời đã đầy đủ tất cả
đại-nguyện, thời đã lãnh thọ tất cả ký-biệt của Phật, thời đã biết rõ tất cả
các thừa-môn, thời đã kham thọ chỗ hộ-niệm của tất cả chư Phật, thời đã có thể
nhiếp tất cả phật bồ-đề, thời đã có thể trì pháp-tạng của tất cả Phật, thời đã
có thể trì tạng bí-mật của tất cả chư Phật và Bồ-Tát, thời đã có thể làm
thượng-thủ trong tất cả chúng Bồ-Tát, thời đã có thể làm đại-mãnh-tướng phá
phiền-não ma-quân, thời đã có thể làm đại-đạo-sư ra khỏi đồng-hoang sanh-tử,
thời đã có thể làm đại y-vương trị những bệnh nặng phiền-não, thời đã có thể
làm bậc tối-thắng trong tất cả chúng-sanh, thời đã có thể được tự-tại ở trong
tất cả Thế-Chủ, thời đã có thể tối-đệ-nhứt trong tất cả Thánh, thời đã có thể
tối-tăng-thượng trong tất cả Thanh-Văn và Bích-Chi-Phật, thời đã có thể làm lái
thuyền trong biển sanh tử, thời đã có thể bủa lưới điều phục tất cả chúng-sanh,
thời đã có thể quán căn của tất cả chúng-sanh, thời đã có thể nhiếp tất cả
chúng-sanh giới, thời đã có thể thủ hộ tất cả chúng Bồ-Tát, thời đã có thể luận
nghị tất cả bồ-tát-sự, thời đã có thể qua đến tất cả chỗ Như-Lai, thời đã có
thể ở trong hội của tất cả Như-Lai, thời đã có để hiện thân ở trước tất cả
chúng-sanh, thời đã có thể không nhiễm trước tất cả thế-pháp, thời đã có thể
siêu-việt tất cả cảnh-giới ma, thời đã có thể an-trụ tất cả cảnh-giới Phật,
thời đã có thể đến cảnh vô-ngại của tất cả Bồ-Tát, thời đã có thể tinh-cần
cúng-dường tất cả chư Phật, thời đã đồng thể-tánh với tất cả phật-pháp, đã cột
lụa diệu-pháp, đã thọ Phật quán đảnh, đã trụ nhất-thiết-trí, đã có thể khắp
sanh tất cả phật-pháp, đã có thể mau lên bậc nhất-thiết-trí.
Bạch Ðại-Thánh! Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh? Thế nào tu
bồ-tát-đạo?
Thế nào tùy chỗ tu học mau được đầy đủ tất cả phật-pháp, đều
có thể độ thoát chúng-sanh đã nhớ đến, có thể thành mãn những đại-nguyện đã
phát, có thể khắp rốt ráo những hạnh đã khởi, có thể an-ủi tất cả thiên nhơn,
chẳng phụ tự-thân, chẳng dứt Tam-Bảo, chẳng hư tất cả phật-chủng bồ-tát-chủng,
có thể gìn pháp-nhãn của tất cả chư Phật?
Những sự trên đây xin Ðại-Thánh chỉ dạy cho.
Di-Lặc Bồ-Tát quán-sát tất cả chúng-hội nơi đạo-tràng, chỉ dạy
Thiện-Tài rằng:
Nầy đại-chúng! Các Ngài thấy Ðồng-Tử nầy hiện đương hỏi tôi về
công-đức của bồ-tát-hạnh đây chăng?
Ðồng-Tử nầy dũng-mãnh tinh-tấn, chí nguyện không tạp, thâm tâm
kiên-cố hằng chẳng thối-chuyển, đủ những hi-vọng thù-thắng như chữa dầu cháy
không hề nhàm đủ, mến chư thiện-tri-thức thân-cận cúng-dường, tìm cầu khắp nơi
để kính thờ thỉnh pháp.
Trước đây, Ðồng-Tử nầy thọ giáo nơi đức Văn-Thù, rồi lần lượt
đi qua phương nam cầu thiện-tri-thức. Trải qua một trăm mười vị thiện-tri-thức,
nay mới đến đây gặp tôi. Ðồng-Tử nầy chưa từng có một niệm lười mỏi.
Ðồng-Tử nầy rất là khó có.
Ðồng-Tử nầy xu hướng đại-thừa, đi nơi đại-huệ, phát đại
dũng-mãnh, choàng giáp đại-bi, dùng tâm đại-từ cứu hộ chúng-sanh, khởi đại hạnh
đại-tinh-tấn ba-la-mật, làm đại thương-chủ hộ trợ các chúng-sanh, làm thuyền
pháp lớn vượt qua biển hữu-lậu, trụ ở đại-đạo, chứa họp pháp-bửu lớn, tu những
pháp trợ-đạo rộng lớn. Người như thế rất khó được nghe, rất khó được thấy, rất
khó được gần-gũi, cùng ở cùng đi.
Tại sao vậy? Vì Ðồng-Tử nầy phát tâm cứu hộ tất cả chúng-sanh,
làm cho tất cả chúng-sanh thoát khổ, khỏi ác-thú, rời hiểm nạn, phá vô-minh,
khỏi sanh tử, dứt các loài, khỏi cảnh ma, chẳng nhiễm thế-pháp, ra khỏi ái dục,
dứt tham, hết kiến chấp, phá tưởng, tuyệt mê, xô kiêu mạn, trừ phiền-não, triệt
ngủ nghỉ, xé lưới ái, diệt vô-minh, qua khỏi dòng hữu-lậu, lìa siểm nịnh, tịnh
tâm-cấu ra khỏi sanh tử.
Ðồng-Tử nầy vì những người bị bốn dòng hữu lậu cuốn trôi mà
tạo thuyền đại-pháp. Vì những người bị sình lầy kiến chấp lún chìm mà lập cầu
đại-pháp. Vì những người bị si tối làm hôn mê mà thắp đèn đại-trí. Vì những
người đi trong đồng-hoang sanh tử mà khai thị thánh-đạo. Vì những người mang
bệnh nặng phiền-não mà điều hòa pháp-dược. Cho người bị khổ sanh lão tử uống
cam-lộ để được an-ổn. Vì người vào trong lửa tham sân si mà tưới định-thủy cho
họ được thanh-lương. Với người nhiều lo sầu thời an-ủi cho họ được an. Với
người bị nhốt trong ngục hữu-lậu thời khuyên bảo họ thoát ra. Với người vào
lưới kiến chấp thời mở lưới bằng kiếm trí-huệ. Với người ở trong thành tam-giới
thời chỉ cửa giải-thoát. Với người ở chỗ hiểm nạn thời dắt họ đến chỗ an-ổn.
Với người sợ giặc kiết-sử thời cho họ pháp vô-úy. Với người đọa ác-thú thời
trao cho họ tay từ-bi. Với người bị hại về ngũ uẩn thời chỉ cho họ thành
niết-bàn. Với người bị ràng buộc trong thập-bát-giới thời dùng thánh-đạo để
mở.Với người đắm nơi trong tụ lạc lục-xứ trống rỗng thời dùng ánh sáng trí-huệ
để dẫn họ ra. Người ở nơi đạo tà thời dùng chánh-đạo cứu-họ. Người gần ác-hữu
thời chỉ thiện-hữu cho họ. Người ưa phàm-pháp thời dạy cho thánh-pháp. Người
ham sanh tử thời làm cho họ xu hướng thành nhất-thiết-trí.
Ðồng-Tử nầy hằng dùng những công-hạnh như vậy để cứu hộ
chúng-sanh, phát bồ-đề-tâm chưa từng thôi dứt, cầu đại-thừa-đạo chưa từng lười
mỏi, uống những pháp-thủy không lòng nhàm đủ, hằng siêng chứa nhóm hạnh
trợ-đạo, thường thích tịnh tu tất cả pháp-môn, tu hạnh Bồ-Tát chẳng bỏ
tinh-tấn, thành mãn đại-nguyện, khéo thật hành phương-tiện, luôn muốn được thấy
thiện-tri-thức, kính thờ thiện-tri-thức thân không lười mỏi, nghe
thiện-trí-thức dạy bảo thời luôn tùy thuận thật hành chưa từng trái nghịch.
Nầy đại-chúng! Nếu chúng-sanh nào có thể phát tâm vô-thượng
bồ-đề thời là rất hi-hữu. Nếu đã phát tâm lại có thể tinh-tấn phương-tiện chứa
nhóm những phật-pháp như vậy thời lại càng hi-hữu hơn.
Lại có thể cầu bồ-tát-đạo như vậy, tịnh bồ-tát-hạnh như vậy,
thờ thiện-tri-thức như vậy, như chữa dầu cháy như vậy, thuận theo lời dạy của
thiện-tri-thức như vậy. kiên-cố tu hành như vậy, chứa nhóm bồ-đề-phần như vậy,
chẳng cầu tiếng tăm lợi dưỡng như vậy, chẳng bỏ tâm bồ-tát thuần nhứt như vậy,
chẳng thích nhà cửa như vậy, chẳng ham dục lạc, chẳng luyến cha mẹ thân-thích
tri-thức, chẳng thích theo cầu bồ-tát bạn-lữ, lại có thể chẳng đoái đến thân
mạng mà chỉ nguyện siêng tu đạo nhứt-thiết-trí như vậy, thời nên biết đó là lần
lượt càng khó hơn.
Nầy đại-chúng! Chư Bồ-Tát khác trải qua vô-lượng trăm ngàn
muôn ức na-do-tha kiếp mới có thể đầy đủ bồ-tát hạnh nguyện, mới có thể gần
phật bồ-đề.
Ðồng-Tử nầy trong một đời có thể tịnh phật độ, có thể hóa
chúng-sanh, có thể dùng trí-huệ thâm-nhập pháp-giới, có thể thành-tựu các môn
ba-la-mật, có thể thêm rộng tất cả hạnh, có thể viên-mãn tất cả đại-nguyện, có
thể siêu xuất tất cả ma-nghiệp, có thể thừa sự tất cả thiện-hữu, có thể
thanh-tịnh bồ-tát-đạo, có thể đầy đủ những hạnh Phổ-Hiền.
Di-Lặc Bồ-Tát khen ngợi công-đức của Thiện-Tài làm cho vô-lượng
trăm ngàn chúng-sanh phát tâm-bồ-đề, rồi bảo Thiện-Tài rằng:
Lành thay! Lành thay! Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi vì lợi ích tất
cả thế-gian, vì cứu hộ tất cả chúng-sanh, vì siêng cầu tất cả phật-pháp, nên
phát tâm vô-thượng bồ-đề.
Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi được lợi lành, khéo được thân người,
khéo trụ thọ-mạng, khéo gặp đức Như-Lai xuất hiện, khéo thấy Văn-Thù Sư-Lợi đại
thiện-tri-thức, thân của ngươi là thiện-khí được những thiện-căn đượm nhuần,
được pháp lành nuôi lớn, bao nhiêu giải-dục đều được thanh-tịnh, đã được chư
Phật đồng hộ-niệm, đã được thiện-hữu nhiếp thọ.
Tại sao vậy?
Vì tâm bồ-đề như chủng-tử, vì có thể sanh tất cả phật-pháp.
Bồ-đề-tâm như ruộng tốt, vì có thể sanh trưởng bạch-tịnh-pháp cho tất cả
chúng-sanh. Bồ-đề-tâm như đại-địa, vì có thể giữ gìn tất cả thế-gian. Bồ-đề-tâm
như tịnh thủy, vì có thể rửa sạch phiền-não nhơ nhớp. Bồ-đề-tâm như gió lớn, vì
vô-ngại khắp ở thế-gian. Bồ-đề-tâm như lửa mạnh, vì có thể đốt tiêu củi kiến
chấp. Bồ-đề-tâm như tịnh-nhật, vì chiếu khắp tất cả thế-gian. Bồ-đề-tâm như mặt
nguyệt sáng, vì những pháp bạch-tịnh đều viên-mãn. Bồ-đề-tâm như đèn sáng, vì
có thể phóng những pháp quang-minh. Bồ-đề-tâm như mắt sáng, vì thấy khắp tất cả
chỗ an nguy. Bồ-đề-tâm dường như con đường lớn, vì dẫn vào thành đại-trí.
Bồ-đề-tâm như con đường chánh, vì làm cho rời khỏi tà-pháp. Bồ-đề-tâm như cỗ xe
lớn, vì có thể chuyên chở chư Bồ-Tát. Bồ-đề-tâm như cửa nẻo, vì khai thị tất cả
hạnh bồ-tát. Bồ-đề-tâm như cung-điện, vì an-trụ tu tập pháp tam-muội. Bồ-đề-tâm
như khu vườn vì, ở trong đó dạo chơi hưởng pháp-lạc. Bồ-đề-tâm như nhà cửa vì
an-ổn tất cả chúng-sanh. Bồ-đề-tâm là chỗ về, vì lợi ích tất cả thế-gian.
Bồ-đề-tâm là chỗ dựa, vì là dựa nương của những bồ-tát-hạnh. Bồ-đề-tâm như
từ-phụ, vì dạy dỗ tất cả chư Bồ-Tát. Bồ-đề-tâm như từ-mẫu, vì sanh trưởng tất
cả Bồ-Tát. Bồ-đề-tâm như nhũ-mẫu, vì dưỡng dục tất cả chư Bồ-Tát. Bồ-đề-tâm như
thiện-hữu, vì thành tựu lợi ích cho chư Bồ-Tát. Bồ-đề-tâm như vua chúa, vì vượt
hơn tất cả hàng nhị-thừa. Bồ-đề-tâm như đế-vương, vì được tự-tại trong tất cả nguyện.
Bồ-đề-tâm như đại-hải, vì tất cả công-đức đều vào trong đó. Bồ-đề-tâm như núi
Tu-Di, vì-bình-đẳng nơi tâm các chúng-sinh, Bồ-đề-tâm như Thiết-Vi vì nhiếp trì
tất cả thế-gian. Bồ-đề-tâm như Tuyết-Sơn, vì sanh lớn tất cả cây thuốc trí-huệ,
Bồ-đề-tâm như Hương-Sơn, vì xuất sanh tất cả hương công-đức, Bồ-đề-tâm như
hư-không, vì những diệu công-đức rộng vô-biên. Bồ-đề-tâm như liên-hoa, vì chẳng
nhiễm tất cả pháp thế-gian. Bồ-đề-tâm như voi thông-minh thuần thục, vì tâm ấy
thuận lành chẳng ngang trái. Bồ-đề-tâm như ngựa hiền hay, vì xa lìa tất cả
những tánh ác. Bồ-đề-tâm như điều-ngự-sư, vì thủ hộ tất cả pháp đại-thừa.
Bồ-đề-tâm như thuốc hay, vì trị được tất cả bậnh phiền-não. Bồ-đề-tâm như hố
sâu, vì có thể làm sụp đổ tất cả những ác-pháp. Bồ-đề-tâm như kim-cang, vì đều
có thể xuyên thấu tất cả các pháp. Bồ-đề-tâm như thấp hương, vì có thể đựng tất
cả hương công-đức. Bồ-đề-tâm như diệu-hoa, vì tất cả thế-gian đều ưa thấy.
Bồ-đề-tâm như bạch-chiên-đàn, vì trừ những nóng tham dục làm cho mát-mẻ.
Bồ-đề-tâm như hắc-trâm-hương, vì có thể xong khắp pháp-giới. Bồ-đề-tâm như
Thiên-Kiến dược-vương, vì phá được tất cả bệnh phiền-não, Bồ-đề-tâm như thuốc
tỳ-cấp-ma, vì nhổ được tất cả hoặc-tiển. Bồ-đề-tâm như Ðế-Thích, vì là tối tôn
trong tất cả vua chúa. Bồ-đề-tâm như Tỳ-Sa-Môn, vì dứt được tất cả khổ nghèo
cùng. Bồ-đề-tâm như Công-Ðức-Thiên, vì trang-nghiêm với tất cả công đức.
Bồ-đề-tâm như đồ trang-nghiêm, vì trang-nghiêm tất cả chư Bồ-Tát. Bồ-đề-tâm như
kiếp-hỏa đốt cháy, vì có thể cháy tiêu tất cả hữu-vi. Bồ-đề-tâm như thuốc
vô-sanh-căn, vì trưởng-dưỡng tất cả phật-pháp. Bồ-đề-tâm như long-châu, vì tiêu
được tất cả độc phiền-não. Bồ-đề-tâm như thủy-thanh-châu, vì có thể thanh tất
cả phiền-não-trược. Bồ-đề-tâm như châu như-ý, vì châu cấp cho tất cả kẻ nghèo
thiếu. Bồ-đề-tâm như bình công-đức, vì làm cho tâm chúng-sanh được thoả-mãn.
Bồ-đề-tâm như cây như-ý, vì có thể mưa tất cả đồ trang-nghiêm. Bồ-đề-tâm như áo
lông ngỗng, vì chẳng dính bụi sanh-tử. Bồ-đề-tâm như chỉ bạch điệp, vì bổn lai
tánh thanh-tịnh. Bồ-đề-tâm như lưỡi cày bén, vì có thể dọn tất cả ruộng
chúng-sanh. Bồ-đề-tâm như na-la-diên, vì có thể dẹp tất cả kẻ địch ngã-kiến.
Bồ-đề-tâm như mũi tên đi mau, vì phá được tất cả đích khổ. Bồ-đề-tâm như ngọn
mâu nhọn, vì có thể xuyên thủng giáp phiền-não. Bồ-đề-tâm như giáp cứng, vì có
thể hộ tâm như-lý. Bồ-đề-tâm như dao bén, vì có thể chặt tất cả đầu phiền-não.
Bồ-đề-tâm như gươm bén, vì có thể chặt đức tất cả giáp kiêu-mạn. Bồ-đề-tâm như
dũng-tướng-tràng, vì có thể dẹp phục tất cả ma-quân. Bồ-đề-tâm như cưa bén, vì
có thể cưa đứt tất cả cây vô-minh. Bồ-đề-tâm như búa bén, vì có thể chặt những
cây khổ. Bồ-đề-tâm như binh-khí, vì có thể đề phòng nạn khổ. Bồ-đề-tâm như cánh
tay giỏi, vì phòng hộ tất cả những pháp độ thân, Bồ-đề-tâm như đôi chân tốt, vì
an lập tất cả những công-đức. Bồ-đề-tâm như thuốc chữa mắt, vì diệt trừ tất cả
bệnh lòa vô-minh. Bồ-đề-tâm như kìm nhiếp, vì có thể nhổ tất cả gai thân-kiến.
Bồ-đề-tâm như ngọa-cụ, vì dứt trừ những lao khổ sanh-tử. Bồ-đề-tâm như
thiện-tri-thức, vì có thể mở tất cả dây trói sanh-tử. Bồ-đề-tâm như tài-bửu, vì
trừ tất cả sự nghèo cùng. Bồ-đề-tâm như đại đạo-sư, vì khéo biết đạo xuất yếu
của Bồ-Tát. Bồ-đề-tâm như phục-tạng, vì xuất sanh của công-đức không thiếu.
Bồ-đề-tâm như nước suối trào, vì sanh nước trí-huệ không cùng tận. Bồ-đề-tâm
như gương sáng, vì hiện khắp tất cả tượng pháp-môn. Bồ-đề-tâm dường như
liên-hoa, vì chẳng nhiễm tất cả tội cấu. Bồ-đề-tâm như sông lớn, vì chảy dẫn ra
tất cả nhiếp-pháp độ-pháp. Bồ-đề-tâm như đại Long-Vương, vì có thể mưa tất cả
diệu-pháp. Bồ-đề-tâm dường như mạng-căn, vì nhậm trì thân đại-bi của Bồ-Tát.
Bồ-đề-tâm như cam-lộ, vì có thể làm cho an-trụ nơi cõi bất-tử. Bồ-đề-tâm như
tấm lưới lớn, vì nhiếp khắp tất cả những chúng-sanh. Bồ-đề-tâm như lưới chài,
vì nhiếp lấy tất cả kẻ đáng được hóa-độ. Bồ-đề-tâm như câu mồi, vì bắt những kẻ
ở trong vực hữu-lậu. Bồ-đề-tâm như thuốc a-già-đà, vì có thể làm cho người
vô-bệnh vĩnh-viễn được an-ổn. Bồ-đề-tâm như thuốc trừ độc, vì có thể tiêu hết
độc tham ái. Bồ-đề-tâm như người trì chú giỏi, vì có thể trừ tất cả độc
điên-đảo. Bồ-đề-tâm như gió mạnh, vì có thể thổi cuốn tất cả sương mù che
chướng. Bồ-đề-tâm như xứ châu bửu, vì xuất sanh tất cả báu giác-phần. Bồ-đề-tâm
như chủng-tánh tốt, vì xuất sanh tất cả pháp bạch-tịnh. Bồ-đề-tâm như nhà ở, vì
là chỗ ở của những pháp công-đức. Bồ-đề-tâm như trị-tứ, vì là chỗ đỗi chác cũa
thương-gia Bồ-Tát. Bồ-đề-tâm như thuốc luyện vàng, vì có thể trị tất cả
căn phiền-não. Bồ-đề-tâm như mật tốt, vì viên-mãn tất cả vị công-đức. Bồ-đề-tâm
như chánh-đạo, vì khiến chư Bồ-Tát vào trí-thành. Bồ-đề-tâm như chậu tốt, vì có
thể đựng tất cả pháp bạch-tịnh. Bồ-đề-tâm như mưa phải thời, vì có thể trừ tất
cả bụi phiền-não. Bồ-đề-tâm là chỗ ở, vì là chỗ ở của tất cả Bồ-Tát. Bồ-đề-tâm
là hạnh vô-tận, vì chẳng chứng lấy quả giải-thoát của Thanh-Văn. Bồ-đề-tâm như
tịnh lưu-ly, vì tự-tánh sáng sạch không nhơ, Bồ-đề-tâm như châu Ðế-thanh, vì
hơn hẳn trí của thế-gian và nhị-thừa. Bồ-đề-tâm như tiếng trống tan canh, vì
đánh thức chúng-sanh say ngủ bởi phiền-não. Bồ-đề-tâm như nước trong sạch, vì
tánh vốn thuần sạch không nhơ đục. Bồ-đề-tâm như vàng diêm-phù-đàn, vì che chói
tất cả pháp lành hữu-vi. Bồ-đề-tâm như đại-sơn-vương, vì siêu xuất tất cả
thế-gian. Bồ-đề-tâm là chỗ về, vì chẳng chối từ tất cả ai trở về. Bồ-đề-tâm là
nghĩa lợi, vì có thể trừ tất cả sự suy não. Bồ-đề-tâm là diệu-bửu, vì có thể
làm cho tất cả tâm sanh hoan-hỉ. Bồ-đề-tâm chư hội đại-thí, vì sung-mãn tất cả
tâm chúng-sanh. Bồ-đề-tâm là tôn-thắng, vì tâm chúng-sanh không tâm nào bằng.
Bồ-đề-tâm như phục-tạng, vì có thể nhiếp tất cả phật-pháp. Bồ-đề-tâm như lưới
nhơn-đà-la, vì có thể phục a-tu-la phiền-não. Bồ-đề-tâm như gió bà-lâu-na, vì
có thể chấn động những kẻ đáng được hóa-độ. Bồ-đề-tâm như lửa nhân-đà-la, vì có
thể đốt cháy tất cả hoặc-tập. Bồ-đề-tâm như phật-chi-đề, vì tất cả thế-gian nên
cúng-dường.
Nầy Thiện-nam tử! Bồ-đề-tâm thành-tựu vô-lượng công đức như
vậy.
Tóm lại, phải biết bồ-đề-tâm đồng với công-đức của tất cả
phật-pháp.
Tại sao vậy?
Vì nhân nơi bồ-đề-tâm mà xuất sanh tất cả bồ-tát-hạnh. Tam-thế
Như-Lai từ bồ-đề-tâm mà xuất sanh.
Vì thế nên nếu có ai phát tâm vô-thượng bồ-đề thời là đã xuất
sanh vô-lượng công-đức, có thể nhiếp thủ khắp nhất-thiết-trí-đạo.
Nầy Thiện-nam-tử! Ví như có người được thuốc vô-úy thời rời
năm điều khủng bố.
Những là lửa không cháy được. Ðộc không hại được. Gươm dao
không đứt được. Nước không làm trôi chìm được. Khói không xông ngộp được.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát được thuốc nhất-thiết-trí bồ-đề-tâm, thời
lửa tham không cháy, độc sân chẳng hại, dao hoặc chẳng đứt, dòng hữu-lậu chẳng
cuốn trôi, khói giác quán không thể xông hại.
Ví như có người được thuốc giải thoát, thời vĩnh viễn không
hoạn nạn. Cũng vậy, đại Bồ-Tát được thuốc giải-thoát-trí bồ-đề-tâm, thời lìa
hẳn sanh tử hoạn nạn.
Ví như có người cầm thuốc ma-ha-ưng-già, rắn độc nghe mùi thời
liền tránh xa. Cũng vậy, đại Bồ-Tát gìn lấy thuốc đại-ưng-già bồ-đề-tâm, thời
tất cả rắn độc ác phiền-não nghe hơi thảy đều tan mất.
Ví như có người cầm thuốc vô-thắng, tất cả oán địch không hơn
được. Cũng vậy, đại Bồ-Tát cầm thuốc vô-thắng đại-bồ-đề-tâm, thời hàng phục
được tất cả ma-quân.
Ví như có người cầm thuốc tỳ-cấp-ma, có thể làm cho độc-tiển
tự-nhiên rơi rớt. Cũng vậy, đại Bồ-Tát cầm thuốc ty-cấp-ma bồ-đề-tâm, làm cho
tên độc tham sân si ác-kiến tự-nhiên rơi rớt.
Ví như có người cầm thuốc thiện-kiến, có thể trừ tất cả bệnh
tật đã mang. Cũng vậy, đại Bồ-Tát cầm thuốc thiện-kiến bồ-đề-tâm, trừ hết tất
cả bệnh phiền-não.
Như có dược-thọ tên san-đà-na, có ai lấy vỏ dùng thoa ghẻ,
thời ghẻ liền lành, vỏ cây ấy vừa lấy là sanh lại liền, lấy không hết được.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát từ bồ-đề-tâm sanh cây nhất-thiết-trí, có ai thấy mà sanh
lòng tin, thời ghẻ phiền-não nghiệp đều được tiêu diệt, cây nhất-thiết-trí
không hề tổn.
Như có cây thuốc tên là vô-sanh-căn, do sức của cây nầy mà
tăng trưởng tất cả cây ở Diêm-Phù-Ðề. Cũng vậy do sức cây bồ-đề-tâm của đại
Bồ-Tát làm cho tất cả thiện-pháp của hàng hữu-học vô-học và chư Bồ-Tát
đều được tăng trưởng.
Ví như thuốc A-lam-bà, nếu dùng thoa thân, thời thân và tâm
đều có kham năng. Cũng vậy bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát làm cho thân tâm tăng
trưởng pháp lành.
Ví như có người được thuốc nhiệm lực, phàm những sự đã được
nghe thời ghi nhớ chẳng quên. Ðại Bồ-Tát được tâm bồ-đề thời nghe trì tất cả
phật-pháp đều không quên mất.
Ví như thuốc đại-liên-hoa, nếu ai uống thuốc nầy thời sẽ sống
lâu một kiếp. Cũng vậy, đại Bồ-Tát uống bồ-đề-tâm thời được thọ-mạng tự-tại
trong vô-số kiếp.
Ví như thuốc ẩn hình, người cầm thuốc nầy thời nhơn và
phi-nhơn đều không thấy được. Ðại Bồ-Tát cầm bồ-đề-tâm thời tất cả ma-chúng
không thấy được.
Nầy Thiện-nam-tử! Như biển có châu-vương tên là
Phổ-Tập-Chúng-Bửu. Châu nầy nếu còn, giả-sử kiếp-hỏa đốt cháy thế-gian cũng
không thể làm cho biển nầy giảm được một giọt nước. Cũng vậy, tâm bồ-đề ở trong
biển đại-nguyện của Bồ-Tát, nếu thường ghi nhớ gìn-giữ chẳng thối-thất, thời
không thể hư-hoại một thiện-căn của Bồ-Tát. Nếu thối tâm bồ-đề thời tất cả pháp
lành đều diệt tan.
Như có châu ma-ni tên là Ðại-Quang-Minh, nếu ai đeo châu nầy
thời bao nhiêu quang-minh của tất đồ trang-sức khác đều bị che chói khuất cả.
Cũng vậy bồ-đề tâm trang-nghiêm nơi thân của Bồ-Tát thời tất cả tâm nhị-thừa
đều khuất mất.
Như thủy-thanh-châu có thể lóng trong nước đục. Cũng vậy,
bồ-đề-tâm của Bồ-Tát lóng sạch tất cả phiền-não.
Như có người đeo châu Trụ-Thủy xuống biển không bị nước làm
hại. Cũng vậy, đại Bồ-Tát được bồ-đề-tâm vào trong tất cả biển sanh-tử trọn
không bị chìm.
Như có người được bửu châu của rồng rồi cầm đi vào long-cung,
không bị các loài rồng rắn làm hại. Cũng vậy, đại Bồ-Tát được tâm bồ-đề vào
trong dục-giới, tất cả phiền-não không làm hại được.
Như Thiên-Ðế-Thích đội mão ma-ni che khuất tất cả
thiên-chúng-khác. Cũng vậy, đại Bồ-Tát đội mão đại-nguyện bồ-đề-tâm thời vượt
hơn tất cả chúng-sanh trong tam-giới.
Như có người được châu như-ý thời hết nghèo khổ. Cũng vậy, đại
Bồ-Tát, được bồ-đề-tâm thời xa lì tất cả tà-mạng bố-úy.
Như có người được châu Nhựt-Tinh cầm hướng về phía ánh nắng
mặt trời thời sanh ra lửa. Cũng vậy, đại Bồ-Tát được tâm bồ-đề cầm hướng đến
trí-quang mà sanh trí-hỏa.
Như có người được châu Nguyệt-Tinh, cầm hướng về phía ánh sáng
mặt trăng thời sanh ra nước. Cũng vậy, đại Bồ-Tát được tâm bồ-đề xoay về
hồi-hướng thời sanh tất cả thiện-căn đại-nguyện.
Như Long-Vương đội mão ma-ni-bửu thời rời khỏi tất cả oán-địch
bố-úy. Cũng vậy, đại Bồ-Tát đội mão bồ-đề-tâm đại-bi thời rời khỏi ác-đạo và
các nạn.
Như có bửu-châu tên là nhất-thiết-thế-gian-trang-nghiêm-tạng,
nếu ai được châu nầy thời muốn chi cũng đều được thoả mãn, mà châu nầy không bị
tổn giảm. Cũng vậy, nếu ai được tâm bồ-đề nầy thời đều được toại nguyện, mà tâm
nầy không bị tổn giảm.
Như Chuyển-Luân-Vương có ma-ni-bửu để trong cung, phóng
ánh sáng lớn phá tất cả tối. Cũng vậy, đại Bồ-Tát đem bồ-đề-tâm để ở dục-giới
phóng đại-trí-quang phá vô-minh của mọi loài.
Như châu đế-thanh đại-ma-ni, ai được quang-minh của châu nầy
chiếu nhằm thời thân người ấy đồng màu với châu nầy. Cũng vậy, đại Bồ-Tát dùng
bồ-đề-tâm quán-sát các pháp hồi-hướng thiện-căn thời đều đồng, một màu
bồ-đề-tâm.
Như châu lưu-ly trăm ngàn năm ở trong chỗ nhơ uế mà chẳng
nhiễm nhơ-uế, vì tánh nó bổn lai trong sạch. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát
ở dục-giới trăm ngàn kiếp mà chẳng bị sự lỗi ác của cõi dục làm nhiễm, vì tánh
nó thanh-tịnh như pháp-giới.
Như châu tịnh-quang-minh có thể chói khuất màu sắc của tất cả
châu báu khác. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát, có thể chói khuất tất cả
công-đức của phàm-phu và nhị-thừa.
Như châu hỏa-diệm đều có thể trừ diệt tất cả tối tăm. Cũng
vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát có thể diệt-trừ tất cả sự tội tăm của vô-tri.
Như trong biển có vô-giá-bửu, người đi buôn châu báu lượm được
đem về thành thị, tất cả quang sắc của những châu ngọc khác không bằng được.
Cũng vậy, bồ-đề-tâm ở trong biển lớn sanh tử, đại Bồ-Tát dùng thuyền đại-nguyện
chở đem vô thành giải-thoát, công-đức của hàng nhị-thừa không bằng được.
Như có bửu-châu tên là tự-tại-vương ở tại châu Diêm-Phù-Ðề
cách mặt nhật mặt nguyệt bốn vạn do-tuần, bao nhiêu cảnh vật trang-nghiêm của
nhật nguyệt đều hiện bóng rõ ràng trong bửu châu nầy. Cũng vậy, công-đức thanh-tịnh
của đại Bồ-Tát phát bồ-đề-tâm ở trong sanh-tử chiếu pháp-giới không, tất cả
công-đức của phật-trí đều hiện trong đó.
Như bửu-châu tự-tại-vương, tất cả tài vật châu báu y-phục mà
ánh sáng nhật nguyệt chiếu đến giá trị không bằng được bửu-châu nầy. Cũng vậy,
tâm bồ-đề của đại Bồ-Tát, tất cả công-đức của thiên nhơn nhị-thừa mà
nhất-thiết-trí-quang chiếu đến đều không bằng được.
Như trong biển có bửu-châu hải-tạng. Châu nầy hiện khắp những
sự trang-nghiêm trong biển. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của Bồ-Tát hiện khắp những sự
trang-nghiêm của nhất-thiết-trí.
Như vàng Diêm-Phù-Ðàn trên trời chỉ trừ tâm-vương đại-ma-ni,
không bảo vật nào sánh bằng. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát, trừ
nhất-thiất-trí, không công-đức nào sánh bằng.
Như người giỏi phương-pháp thâu rồng, thời ở trong loài rồng
được tự-tại. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của Bồ-Tát được tự-tại trong tất cả phiền-não.
Như dũng-sĩ mặc giáp cầm binh-khí, tất cả oán địch không chế
phục được. Cũng vậy, đại Bồ-Tát mặc và cầm tâm bồ-đề thời tất cả nghiệp hoặc
không chế-ngự được.
Như hắc-chiên-đàn-hương trên trời, nếu đốt một chỉ thời hơi
hương xông khắp Tiểu-Thiên thế-giới, giá trị của tất cả trân-bửu trong
Ðại-Thiên thế-giới đều không bằng. Cũng vậy, một niệm công-đức của bồ-đề-tâm
của đại Bồ-Tát xông khắp pháp-giới, tất cả công-đức của Thanh-Văn Duyên-Giác
đều không bằng được.
Như bạch-chiên-đàn thoa trên thân thời có thể trừ tất cả nhiệt
não làm cho thân tâm được thanh-lương. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát có
thể trừ tất cả hư vọng phân biệt phiền não, làm cho được trí-huệ.
Như núi Tu-Di, nếu ai ở gần thời đồng một màu sắc với núi nầy.
Cũng vậy, nếu ai ở gần bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát thời đồng màu với
nhất-thiết-trí của Bồ-Tát.
Như cây ba-lợi-chất-đa-la, hương khí của vỏ cây nầy không cỏ
cây hoa nào ở Diêm-Phù-Ðề thơm bằng. Cũng vậy, hương công đức đại-nguyện của
bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát hơn hẳn công-đức của hương giới, định, huệ, giải-thoát
và giải-thoát tri-kiến của tất cả hàng nhị-thừa.
Như cây ba-lợi-chất-đa-la dầu chưa đơm hoa, nhưng nên biết
chính nơi cây nầy là chỗ sản xuất vô-lượng hoa. Cũng vậy, tâm bồ-đề của đại
Bồ-Tát dầu chưa phát sanh nhất thiết-trí, nhưng nên biết tâm nầy là chỗ xuất
sanh hoa trí-giác cho vô-số chúng nhơn thiên.
Như dùng hoa ba-lợi-chất-đa-la để ướp y phục trong một ngày,
thời mùi thơm hơn hẳn dùng các thứ hoa thơm khác ướp y-phục trong ngàn năm.
Cũng vậy, tâm bồ-đề của đại Bồ-Tát huân tập công-đức trong một đời hơn hẳn
công-đức vô-lậu của hàng nhị-thừa huân tập trong trăm ngàn kiếp.
Như trong hải-đảo mọc cây Gia-tử, cây rễ nhánh lá bông trái
của cây nầy, mọi người thường lấy ăn dùng, mà vẫn không hết. Cũng vậy, tâm
bồ-đề của đại Bồ-Tát, từ sơ phát tâm đến thành Phật, chánh-pháp trụ thế luôn
lợi ích tất cả thế-gian không lúc nào tạm dứt.
Như có nước thuốc tên là ha-trạch-ca, nếu dùng một lượng nước
thốc nầy thời biến được ngàn lượng đồng đều thành chân-kim, chẳng phải đồng
biến được thuốc nầy. Cũng vậy, đại Bồ-Tát dùng thuốc trí hồi-hướng của
bồ-đề-tâm, biến tất cả pháp nghiệp hoặc làm cho đều thành tướng nhất-thiết-trí,
chẳng phải nghiệp hoặc biến được tâm nầy.
Như chút ít lửa, tùy đem nhúm đốt chỗ nào thời ngọn lửa càng
thêm mạnh. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát, tùy chỗ nào phan-duyên thời
trí-huệ càng mạnh.
Như một ngọn đèn đem thắp trăm ngàn đèn khác, mà ngọn đèn nầy
không tổn giảm. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát sanh thành tam-thế phật-trí,
mà tâm nầy không giảm không hết.
Như đem một ngọn đèn vào trong nhà tối, thời có thể phá trừ sự
tối tăm đã trăm ngàn năm. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát đem vào trong tâm
của chúng-sanh, thời có thể trừ hết những phiền-não nghiệp-chướng trong trăm
ngàn vạn ức bất-khả-thuyết kiếp.
Như tim đèn, tùy lớn hay nhỏ mà phát ánh sáng, nếu thêm dầu
thời ánh sáng chẳng tắt. Cũng vậy, đèn bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát, dùng
đại-nguyện làm tim quang-minh chiếu pháp-giới, thêm dầu đại-bi thời giáo-hóa
chúng-sanh, tịnh phật-độ, thi hành phật-sự không thôi dứt.
Như Tha-Hóa-Tự-Tại Thiên-Vương đội thiên-quan diêm-phù-đàn
kim, tất cả vật trang-nghiêm của chư Thiên-Tử cõi dục đều không bằng được. Cũng
vậy, đại Bồ-Tát đội bồ-đề-tâm đại-nguyện, thời tất cả công-đức của phàm-phu
nhị-thừa đều không bằng được.
Như lúc sư-tử-vương gầm rống, sư-tử con nghe tiếng đều thêm
mạnh mẽ, còn các muông thú khác đều kinh sợ lẩn trốn. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của
Pháp-Vương gầm rống, chư Bồ-Tát pháp-vương-tử nghe tiếng Phật thời thêm
công-đức, còn người có sở-đắc nghe tiếng Phật thời đều thối tán.
Như có người lấy gân sư-tử làm dây đờn, tấu đờn nầy thời tiếng
của những đờn khác đều tắt mất. Cũng vậy, đại Bồ-Tát dùng tâm bồ-đề làm dây
pháp-nhạc, khi tấu lên thời tất cả ngũ-dục và công-đức của nhị-thừa đều
đoạn-tuyệt.
Như có người chứa sữa dê, sữa bò nhiều như biển lớn, đem một
giọt sữa sư-tử nhỏ vào trong đó, thời đều biến hoại, sữa sư-tử xuyên thẳng qua
không bị trở ngại. Cũng vậy, đại Bồ-Tát đem tâm bồ-đề để vào trong biển
phiền-não nghiệp đã chứa từ vô-lượng kiếp, thời đều hư hoại, mà bồ-đề-tâm thẳng
qua vô-ngại, trọn không trụ trong quả giải-thoát của nhị-thừa.
Như chim Ca-Lăng-Tần-Già lúc còn ở trong vỏ trứng đã có
thế-lực, các loại chim khác đều không bằng được. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại
Bồ-Tát có những thế-lực công-đức đại-bi, hàng Thanh-Văn và Duyên-giác không
bằng được.
Như chim Kim-Sí lúc mới sanh cặp mắt sáng lanh, bay liệng mau
chóng, tất cả chim khác dầu đã sanh lâu đã trưởng thành vẫn không bằng được.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát phát bồ-đề-tâm làm pháp-vương-tử thời trí-huệ thanh-tịnh,
đại-bi dũng-mãnh, tất cả hàng nhị-thừa dầu đã tu-hành trăm ngàn kiếp vẫn không
bằng được.
Như có tráng-sĩ cầm mâu nhọn đâm thủng giáp cứng dầy xuyên qua
vô-ngại. Cũng vậy, đại Bồ-Tát dùng bồ-đề-tâm đâm thủng hư những tà-kiến
phiền-não, xuyên qua vô-ngại.
Như đại-lực-sĩ Ma-Ha Na-Già, nếu phấn khởi oai lực, thời trên
trán nổi bóng ghẻ, nếu bóng ghẻ ấy chưa lặn, thời tất cả người trong
Diêm-Phù-Ðề không ai đấu sức lại. Cũng vậy, đại Bồ-Tát nếu khởi đại-bi thời tất
định phát bồ-đề-tâm, lúc chưa xả tâm nầy thời tất cả thế-gian những ma và
ma-dân không làm hại được.
Như xạ-sư có các đệ-tử, dầu chưa tập quen nghề của thầy, nhưng
sự khôn ngoan khéo léo đã hơn những người khác. Ðại Bồ-Tát lúc mới phát tâm
cũng như vậy, dầu chưa tập quen hạnh nhất-thiết-trí, nhưng bao nhiêu trí nguyện
dục giải đã hơn hẳn tất cả thế-gian và nhị-thừa.
Như người tập bắn tên, trước đặt chân sau mới tập cách bắn.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát muốn học đạo nhất-thiết-trí của Như-Lai, trước phải an-trụ
tâm bồ-đề, rồi sau mới tu hành tất cả phật-pháp.
Như nhà ảo-thuật sắp bày trò, trước phải nhớ và trì ảo-pháp,
sau đó biến hiện mới thành-tựu. Cũng vậy, đại Bồ-Tát sắp phát khởi thần-thông
của chư Phật Bồ-Tát, trước phải phát tâm bồ-đề, sau đó mọi sự mới được
thành-tựu.
Như ảo-thuật, không có hình sắc mà hiện ra hình sắc. Cũng vậy,
bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát dầu không hình sắc thấy được, nhưng có thể khắp thập
phương pháp-giới thị-hiên những công-đức trang-nghiêm.
Như mèo chồn vừa nhìn thấy chuột, thời chuột liền rút vô hang
chẳng dám ra. Cũng vậy, đại Bồ-Tát phát bồ-đề-tâm tạm dùng huệ-nhãn xem nghiệp
hoặc, thời nghiệp hoặc liền lẩn trốn chẳng còn sanh.
Như có người đeo đồ trang-sức bằng vàng diêm-phù-đàn, vàng nầy
chói che những vật khác, làm cho những vật khác như đống mực đen. Cũng vậy, đại
Bồ-Tát đeo bồ-đề-tâm, tâm nầy che chói tất cả công-đức của phàm-phu và
nhị-thừa, làm cho những công-đức nầy không còn quang sắc.
Như chút ít từ-thạch, sức của nó có thể hút những xiềng xích
sắt. Cũng vậy, đại Bồ-Tát khởi một niệm bồ-đề-tâm, thời có thể hoại diệt tất cả
kiến dục vô-minh.
Như có từ-thạch, sắt nếu đối diện thời đều bị hút đi không còn
an-trụ được. Bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát cũng như vậy, những nghiệp phiền-não và
nhị-thừa giải-thoát nếu tạm đối diện thời đều tan mất không còn lưu trú.
Như có người giỏi vào biển lớn, tất cả loài thủy-tộc không làm
hại được, giả-sử vào miệng cá Ma-Kiệt cũng không bi cắn nuốt. Cũng vậy, đại
Bồ-Tát phát tâm bồ-đề vào biển sanh-tử, những nghiệp phiền-não không làm hại
được, giả-sử vào trong pháp thiện-tế của Thanh-Văn Duyên-Giác cũng chẳng bị họ
làm lưu-nạn.
Như có người uống nước cam-lộ, tất cả vật độc không làm
hại được. Cũng vậy, đại Bồ-Tát uống bồ-đề-tâm thời chẳng sa vào hàng Thanh-Văn
Bích-Chi-Phật, vì đủ sức bi-nguyện quảng đại.
Như có người được thuốc an-thiện-na dùng thoa lên đôi mắt, dầu
đi trong nhân-gian mà không ai ngó thấy. Cũng vậy, đại Bồ-Tát được bồ-đề-tâm,
có thể dùng thiện-phương-tiện nhập cảnh-giới ma, nhưng tất cả chúng ma không
thấy được.
Như có người nương dựa Quốc-Vương thời chẳng sợ những người
khác. Cũng vậy, đại Bồ-Tát nương dựa thế-lực lớn của bồ-đề-tâm thời chẳng sợ
những nạn chướng cái ác-đạo.
Như có người ở trong nước thời chẳng sợ lửa cháy. Cũng vậy,
đại Bồ-Tát ở trong thiện-căn bồ-đề–tâm thời chẳng sợ trí giải-thoát của
nhị-thừa.
Như người nương dựa mãnh-tướng thời không sợ tất cả kẻ oán
địch. Cũng vậy, đại Bồ-Tát nương dựa sức dũng-mãnh của bồ-đề-tâm thời chẳng sợ
tất cả ác-hạnh.
Như Thiện-Ðế-Thích cầm chày kim-cang đánh dẹp tất cả chúng
A-Tu-La. Cũng vậy, đại Bồ-Tát cầm giữ tâm bồ-đề xô dẹp tất cả những ma
ngoại-đạo.
Như có người uống thuốc diên-mạng thời mãi-mãi được tráng-kiện
chẳng già chẳng ốm. Cũng vậy, đại Bồ-Tát uống bồ-đề-tâm thời trong vô-số kiếp
thật hành bồ-tát-hạnh không nhàm mỏi, cũng không nhiễm trước.
Như có người điều hòa thuốc nước, thời trước hết phải lấy nước
tốt trong sạch. Cũng vậy, đại Bồ-Tát muốn tu tất cả hạnh nguyện đại-thừa thời
trước hết phải phát bồ-đề-tâm.
Như người giữ-gìn thân thể, thời trước hết phải gìn-giữ
mạng-căn. Cũng vậy, đại Bồ-Tát hộ-trì phật-pháp thời phải hộ-trì bồ-đề-tâm
trước.
Như người nếu mạng-căn dứt thời không thể làm lợi-ích cho cha
mẹ tôn thân. Cũng vậy, đại Bồ-Tát nếu xả bỏ bồ-đề-tâm thời không thể làm lợi
ích cho tất cả chúng-sanh, không thể thành-tựu phật-công-đức.
Như đại hải không ai làm hư hoại được. Cũng vậy, những nghiệp
hoặc và tâm nhị-thừa chẳng thể làm hư hoại được.
Như ánh sáng mặt nhật, ánh sáng của tinh-tú không chói che
được. Cũng vậy, tất cả trí vô-lậu của nhị-thừa không thể chói che bồ-đề-tâm
được.
Như Vương-Tử sơ sanh, thời được tất cả quan đều tôn trọng, vì
là dòng Vua tự-tại. Cũng vậy, đại Bồ-Tát ở trong phật-pháp phát bồ-đề-tam thời
được các bực kỳ-túc tu phạm-hạnh, nhị-thừa đều tôn-trọng, vì đại-bi tự-tại.
Như Vương-Tử dầu tuổi còn nhỏ bé, nhưng các quan đều kính lễ.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát dầu mới phát tâm tu bồ-tát-hạnh, nhưng được các bực kỳ-cựu
Thanh-Văn kính lễ.
Như Vương-Tử dầu chưa được tự-tại nơi tất cả các quan, nhưng
đã đủ vương-tướng nên chẳng đồng với tất cả các quan, vì dòng dõi tôn thắng.
Cũng vậy, đại Bồ-Tát dầu chưa được tự-tại trong tất cả nghiệp hoặc nhưng đã đủ
tướng bồ-đề nên chẳng đồng với tất cả hàng nhị-thừa, vì là chủng-tánh Phật đệ
nhất.
Như ma-ni-bửu thanh-tịnh, vì mắt lòa nên thấy là bất-tịnh.
Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát vốn thanh-tịnh, kẻ vô-trí chẳng tin cho là
bất-tịnh.
Như có thuốc được chú-lực gia-trì, nếu ai được thấy nghe cùng
ở chung, thời tiêu diệt được tất cả bệnh. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát
được tất cả thiện-căn, trí-huệ, phương-tiện, nguyện trí đồng-nhiếp-trì, nếu có
chúng-sanh thấy, nghe, ở chung, ghi nhớ, thời tất cả bệnh phiền-não đều được
trừ diệt.
Như có người thường uống cam-lộ, thân người nầy chẳng biến
chẳng hoại. Cũng vậy, nếu đại Bồ-Tát ghi nhớ giữ-gìn bồ-đề-tâm thời thân nguyện
trí rốt ráo chẳng hoại.
Như người máy bằng gỗ, nếu không có chốt thời ly tán chẳng vận
động được. Cũng vậy, đại Bồ-Tát nếu không bồ-đề-tâm thời công-hạnh phân tán
chẳng thể thành-tựu tất cả phật-pháp.
Như Chuyển-Luân-Vương có trầm hương-bửu tên là Tượng-Tạng, nếu
đốt hương nầy thời bốn binh-chủng của Luân-Vương đều bay lên không trung. Cũng
vậy, đại Bồ-Tát có bồ-đề-tâm, nếu phát tâm nầy thời tất cả thiện-căn của Bồ-Tát
thoát hẳn tam-giới đi trong trí vô-vi của Như-Lai.
Như chất kim-cang chỉ sản xuất từ mỏ kim-cang hoặc mỏ vàng,
chẳng phải sản xuất từ mỏ báu khác. Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát chỉ phát
sanh từ lòng đại-bi cứu-hộ chúng-sanh, và từ cảnh giới thù-thắng
nhất-thiết-chủng trí, chẳng phải xuất sanh từ những thiện-căn khác.
Như cây vô-căn, chẳng có rễ mà nhánh lá bông trái đều sum-sê.
Cũng vậy, bồ-đề-tâm của đại Bồ-Tát vốn-không căn vô-sở-đắc mà có thể trưởng
dưỡng nhất-thiết-chủng trí thần-thông đại-nguyện che mát khắp thế-gian.
Như chất kim-cang chẳng phải chậu xấu chậu bể đựng được, chỉ
trừ chậu lành thật tốt. Cũng vậy, những chúng-sanh hạ-liệt tham sân phá giới
giải-đãi vọng-niệm vô-trí không thể chứa đựng bồ-đề-tâm, chỉ trừ Bồ-Tát
thâm-tâm.
Như kim-cang có thể xoi lũng các chất báu khác. Cũng vậy,
bồ-đề-tâm có thể xuyên thấu tất cả pháp-bảo.
Như kim-cang có thể làm hoại các hòn núi. Cũng vậy, bồ-đề-tâm
có thể phá vỡ những núi tà-kiến.
Như kim-cang dầu đã bể, nhưng các thứ báu khác vẫn không bằng.
Cũng vậy, bồ-đề-tâm dầu vì chí liệt mà có chút suy tổn, nhưng vẫn còn hơn tất
cả công-đức của hàng nhị-thừa.
Như kim-cang dầu tổn khuyết nhưng vẫn trừ được sự nghèo cùng.
Cũng vậy, bồ-đề-tâm dầu bị tổn khuyết chẳng tăng tấn được các công-hạnh, nhưng
còn bỏ rời được tất cả sanh tử.
Như chút ít kim-cang có thể phá hoại tất cả vật. Cũng vậy, tâm
bồ-đề nhập chút ít cảnh-giới liền phá tất cả vô-tri phiền-não.
Như kim-cang chẳng phải người phàm có được. Cũng vậy, chẳng
phải những chúng-sanh ý liệt mà có được bồ-đề-tâm.
Như kim-cang, nếu là người chẳng biết rành chất báu thời không
biết được công-năng tác-dụng của nó. Cũng vậy, người chẳng biết chánh-pháp thời
không biết được công-năng tác-dụng của bồ-đề-tâm.
Như kim-cang không gì làm tiêu diệt được. Cũng vậy, tất cả
pháp không thể tiêu-diệt được bồ-đề-tâm.
Như chày kim-cang, những người có sức khoẻ đều không cầm được,
chỉ trừ người có sức đại na-la-diên. Cũng vậy, bồ-đề-tâm, tất cả hàng nhị-thừa
đều không cầm giữ được, chỉ trừ Bồ-Tát có thiện-lực kiên-cố nhơn-duyên quảng
đại.
Như kim-cang, tất cả vật khác không làm hoại được, mà kim-cang
lại có thể làm hoại các vật, thể tánh nó vẫn không tổn giảm. Cũng vậy,
bồ-đề-tâm khắp tất cả kiếp giáo-hoá chúng-sanh tu hành khổ hạnh. Những sự mà
hàng Thanh-Văn Duyên-Giác không làm được, Bồ-Tát đều làm được, vẫn không nhàm
mỏi, không tổn giảm bồ-đề-tâm.
Như kim-cang, chỉ trừ đất kim-cang, những chỗ khác không thể
giữ chịu được. Cũng vậy, Thanh-Văn Duyên-Giác đều không thể giữ chịu được
bồ-đề-tâm, chỉ trừ người xu-hướng phật-trí.
Như chậu kim-cang không nứt mẻ dùng đựng nước, thời vĩnh viễn
nước không chảy rịn vào đất. Cũng vậy, dùng bồ-đề-tâm chứa đựng thiện-căn, thời
vĩnh-viễn không lọt vào các loài.
Như kim-cang-tế có thể giữ vững đại địa. Cũng vậy, bồ-đề-tâm
có thể giữ vững hạnh nguyện Bồ-Tát chẳng sa vào tam giới.
Như kim-cang ở lâu trong nước chẳng rã chẳng ướt. Cũng vậy,
bồ-đề-tâm ở trong nghiệp hoặc sanh tử nhiều kiếp, vẫn không hư không đổi.
Như kim-cang, tất cả thứ lửa không đốt cháy được, chẳng làm
nóng được. Cũng vậy, tất cả lửa phiền-não sanh tử không đốt được, không làm
nóng được bồ-đề-tâm.
Như trên tòa kim-cang trong Ðại-Thiên thế-giới có thể giữ vững
chư Phật ngời đạo-tràng, hàng ma, thành đạo vô thượng chánh-giác, tất cả những
tòa khác không kham được. Cũng vậy, bồ-đề-tâm có thể giữ vững tất cả hạnh
nguyện, các môn ba-la-mật, các nhẫn, các địa, hồi-hướng thọ-ký, tu tập pháp
bồ-đề trợ đạo, cúng-dường chư Phật nghe pháp thọ hành của Bồ-Tát, tất cả tâm
khác không có công năng nầy.
Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-đề-tâm thành-tựu vô-lượng vô-biên nhẫn
đến bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết công đức thù thắng.
Nếu có chúng-sanh phát tâm vô-thượng bồ-đề thời được công-đức
thù thắng như vậy.
Vì thế nên ngươi đã được lợi lành lớn, vì ngươi đã phát tâm
vô-thượng bồ-đề cầu bồ-tát-hạnh, đã được công-đức lớn như vậy.
Nầy Thiện-nam-tử! Như ngươi hỏi Bồ-Tát thế nào học
bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo?
Ngươi nên “VÀO TRONG LÂU CÁC
TỲ LÔ GIÁ NA ÐẠI TRANG NGHIÊM” nầy, ngươi quán-sát khắp nơi thời có thể
biết rõ học bồ-tát-hạnh, học rồi thời thành-tựu vô-lượng công-đức.
Thiện-Tài Ðồng-Tử cung kính hữu-nhiễu Di-Lặc Bồ-Tát, rồi thưa
rằng:
Xin Ðại-Thánh mở cửa lâu các cho tôi được vào.
Lúc ấy Di-Lặc Bồ-Tát đến trước cửa lâu các đàn chỉ ra tiếng,
cửa liền mở. Bồ-Tát bảo Thiện-Tài vào.
Thiện-Tài rất hoan-hỷ đi vào trong lâu các, cửa liền đóng lại.
Thiện-Tài thấy trong lâu các rộng vô-lượng đồng như hư-không.
Vô-số chất báu làm đất. Vô-số cung điện, vô-số cửa cái, vô-số cửa sổ, vô-số
thềm bậc, vô-số lan-can, vô-số đường sá, tất cả đều bằng thất-bửu.
Vô-số tràng, vô-số phan, vô-số lọng hàng liệt khắp nơi.
Vô-số chuỗi báu, vô-số chuỗi chân châu, vô-số chuỗi
xích-chân-châu, vô-số chuỗi sư-tử châu, thòng rũ khắp nơi.
Vô-số bán-nguyệt, vô-số dải lụa, vô-số lưới báu dùng đề
trang-sức.
Vô-số lục-lạc báu gió động thành tiếng.
Rải vô-số hoa trời đẹp.
Treo vô-số dải tràng báu cõi trời.
Vô-số lư-hương báu trang-nghiêm.
Rưới vô-số bột chân kim.
Treo vô-số gương báu.
Thắp vô-số đèn báu.
Trải vô-số y báu.
Giăng vô-số trướng báu.
Trần thiết vô-số tòa báu, vô-số lụa báu trải trên tòa.
Vô-số tượng đồng-nữ bằng vàng diêm-phù-đàn.
Vô-số hình tượng bằng chiều thứ báu.
Khắp nơi có vô-số tượng Bồ-Tát bằng diệu-bửu.
Vô-số chim hót tiếng hòa nhã.
Vô-số hoa sen xanh báu, vô-số hoa sen vàng báu, vô-số hoa sen
đỏ báu, vô-số hoa sen trắng báu, dùng để trang-nghiêm.
Vô-số cây báu thứ đệ hàng liệt.
Vô-số ma-ni-bửu phóng đại quang-minh.
Lại thấy trong đó có vô-lượng trăm ngàn lâu các đẹp, đều
nghiêm-sức như trên. Mỗi mỗi lâu các đều rộng rãi nghiêm-lệ, đồng như hư-không
chẳng ngại nhau cũng chẳng tạp loạn nhau.
Thiện-Tài ở một chỗ thấy tất cả chỗ. Nơi tất cả chỗ đều thấy
như vậy.
Thiện-Tài thấy lâu các Tỳ-Lô-Giá-Na-Trang-Nghiêm-Tạng có
bất-tư-nghì cảnh-giới tự-tại như vậy, lòng rất vui mừng hớn hở vô-lượng, thân
tâm nhu nhuyến, rời tất cả tưởng, trừ tất cả chướng, diệt tất cả hoặc, chỗ thấy
chẳng quên, chỗ nghe đều nhớ, chỗ nghĩ chẳng tạp, chứng nhập môn vô-ngại
giải-thoát, vận dụng tâm cùng khắp, thấy cùng khắp, kính lễ cùng khắp.
Vừa mới cúi đầu, do thần-lực của Di-Lặc Bồ-Tát, Thiện-Tài tự
thấy thân của mình ở khắp trong tất cả lâu các, thấy đủ những cảnh-giới tự-tại
bất-tư-nghì:
Những là thấy Di-Lặc Bồ-Tát lúc mới phát tâm tên hiệu như vậy,
chủng-tộc như vậy, thiện-hữu khai ngộ khiến gieo trồng căn lành như vậy, thọ
mạng như vậy, ở kiếp như vậy, gặp Phật tại quốc-độ như vậy, tu hành như vậy,
phát nguyện như vậy.
Chư Phật Như-Lai ấy, những chúng-hội, thọ-mạng, thân-cận
cúng-dường đều thấy rõ cả.
Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát tối-sơ chứng được từ-tâm tam-muội, từ
đó đến nay hiệu là từ-thị.
Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát tu những diệu-hạnh, thành mãn tất cả
môn ba-la-mật.
Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát đắc nhẫn, trụ địa, thành-tựu quốc-độ
thanh-tịnh, hô-trì phật-pháp, làm đại Pháp-Sư, được vô-sanh-nhẫn.
Hoặc thấy thời-gian ấy, tại xứ ấy, Ðức Phật ấy thọ ký thành
Phật cho Di-Lặc
Bồ-Tát.
Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát làm Chuyển-Luân-Vương khuyên các
chúng-sanh an trụ nơi thập-thiện-đạo.
Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát làm Hộ-Thế lợi ích chúng sanh, hoặc
làm Ðế-Thích quở trách ngũ-dục, hoặc làm Dạ-Ma Thiên-Vương tán dương hạnh
bất-phóng-dật, hoặc làm Ðâu-Suất Thiên-Vương khen ngợi công-đức của Bồ-Tát
nhất-sanh bổ-xứ, hoặc làm Hóa-Lạc Thiên-Vương vì chư thiên-chúng mà hiện những
sự biến-hóa trang-nghiêm của chư Bồ-Tát, hoặc làm Tha-Hóa-Tự-Tại Thiên-Vương vì
chư thiên-chúng mà diễn thuyết tất cả phật-pháp, hoặc làm Ma-Vương tuyên nói
tất cả pháp thảy đều vô-thường, hoặc làm Phạm-Vương tuyên nói chư thiền-định có
vô-lượng hỉ-lạc, hoặc làm A-Tu-La Vương vào biển đại-trí rõ pháp như huyễn vì
chúng A-Tu-Ta mà thường thuyết pháp dứt trừ tất cả kiêu mạn ngạo nghễ.
Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát ở xứ Diêm-La cứu khổ địa-ngục, hoặc
thấy ở xứ ngạ-quỷ bố-thí đồ uống ăn cứu sự đói khát, hoặc thấy ở đạo súc-sanh
dùng những phương-tiện điều-phục chúng-sanh.
Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát vì chúng hội Hộ-Thế Thiên-Vương mà
thuyết pháp, hoặc thấy vì chúng-hội Ðao-Lợi Thiên-Vương mà thuyết pháp, hoặc
thấy vì chúng-hội Dạ-Ma Thiên-Vương mà thuyết pháp, hoặc thấy vì chúng-hội
Ðâu-Suất Thiên-Vương mà thuyết pháp, hoặc thấy vì chúng-hội Hóa-lạc Thiên-Vương
mà thuyết pháp, hoặc thấy vì chúng-hội Tha-hóa Thiên-Vương mà thuyết pháp, hoặc
thấy vì chúng-hội Ðại-Phạm Thiên-Vương mà thuyết pháp, hoặc thấy vì chúng-hội
Long-Vương mà thuyết pháp, hoặc thấy vì chúng-hội Dạ-Xoa-Vương, La-Sát-Vương mà
thuyết pháp, hoặc thấy vì chúng-hội Càn-Thát-Bà Vương và Khẩn-Na-La Vương mà
thuyết pháp hoặc thấy vì chúng-hội A-Tu-La Vương và Ðà-Na-Bà Vương mà thuyết
pháp, hoặc thấy vì chúng-hội Ca-Lâu-La Vương và Ma-Hầu-La-Già Vương mà thuyết
pháp, hoặc thấy vì những chúng-hội nhân phi-nhân khác mà thuyết pháp, hoặc thấy
vì chúng-hội Thanh-Văn Duyên-Giác mà thuyết pháp, hoặc thấy vì chúng-hội Bồ-Tát
sơ-phát-tâm nhẫn đến Bồ-Tát nhất-sanh bổ-xứ trụ quán-đảnh vị mà thuyết pháp.
Hoặc lại thấy Di-Lặc Bồ-Tát khen nói những công đức của sơ-địa
nhẫn đến thập-địa.
Hoặc thấy khen nói đầy đủ tất cả ba-la-mật.
Hoặc thấy khen nói pháp môn nhập các nhẫn.
Hoặc thấy khen nói những môn đại tam-muội.
Hoặc thấy khen nói những môn giải-thoát thậm-thâm.
Hoặc thấy khen nói cảnh-giới của những tam-muội thần-thông.
Hoặc thấy khen nói những bồ-tát-hạnh.
Hoặc thấy khen nói những thệ nguyện lớn.
Hoặc thấy cùng với chư Bồ-Tát đồng hành khen nói những
phương-tiện lợi ích chúng-sanh.
Hoặc thấy cùng với chư Bồ-Tát nhất-sanh bổ-xứ khen nói tất cả
môn Phật quán đảnh.
Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát trong trăm ngàn năm kinh hành, đọc
tụng, thơ tả kinh quyển, siêng cầu quán sát vì đại-chúng mà thuyết pháp.
Hoặc nhập tứ-thiền, tứ vô-lượng tâm.
Hoặc nhập biến-xứ và những giải-thoát.
Hoặc nhập tam-muội dùng sức phương-tiện hiện những thần-biến.
Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát nhập biến-hóa tam-muội, nơi mỗi lỗ
lông trên thân hiện ra tất cả biến-hóa thân-vân. Hoặc hiện ra thiên-chúng
thân-vân. Hoặc hiện ra long-chúng thân-vân. hoặc hiện ra bát-bộ-chúng thân-vân.
Hoặc hiện ra Thích, Phạm, Hộ-Thế, Chuyển-Luân Thánh-Vương, Tiều-Vương,
Vương-Tử, Ðại-Thần, Quan-Thuộc, Trưởng-Giả, Cư-Sĩ thân-vân. Hoặc hiện ra
Thanh-Văn, Duyên-Giác, Bồ-Tát, Như-Lai thân-vân. Hoặc hiện ra tất cả chúng-sanh
thân-vân. Hoặc phát ra tiếng vi-diệu khen những pháp-môn của chư Bồ-Tát. Hoặc
khen nói môn công-đức của đàn-ba-la-mật nhẫn đến công-đức của trí-ba-la-mật.
Khen nói các nhiếp pháp, các thiền, các vô-lượng-tâm, các tam-muội chánh-quán,
các thông, các minh, tổng-trì, biện-tài, các đế, các trí, chỉ, quán,
giải-thoát, các duyên, các y, các thuyết, các pháp-môn. Khen nói niệm-xứ,
chánh-cần, thần-túc, căn, lực, bảy phần bồ-đề, tám thánh-đạo, những
thanh-văn-thừa, những duyên-giác-thừa, những bồ-tát-thừa, những địa, những
nhẫn, những hạnh, những nguyện, tất cả những công-đức-môn như vậy.
Hoặc ở trong những lỗ lông ấy lại thấy chư Như-Lai có
đại-chúng vây quanh. Cũng thấy chư Phật nầy: chỗ sanh, chủng-tánh, thân hình,
thọ-mạng, quốc-độ, kiếp-số, danh-hiệu, thuyết pháp lợi ích, chánh-pháp ở đời
mau hay lâu, nhẫn đến đạo-tràng chúng-hội đều thấy rõ cả.
Lại ở nơi những lâu các trong phạm-vi Trang-Nghiêm-Tạng nầy,
mỗi lâu các đều cao rộng trang-nghiêm tối thượng, trong đó đều thấy Ðại-Thiên
thế-giới, trăm ức Tứ-Thiên-Hạ, trăm ức Ðâu-Suất-Thiên. Mỗi mỗi đều có Di-Lặc
Bồ-Tát giáng thần đản-sanh. Thích, Phạm và Thiên-Vương ẫm bồng cung kính.
Bồ-Tát sơ sanh kinh hành bảy bước, nhìn xem mười phương, tuyên bố độc tôn, làm
đồng-tử, ở cung-điện, dạo chơi viên-uyển, vì cầu nhất-thiết-trí mà xuất-gia
khổ-hạnh, thị hiện thọ cháo sữa, đến ngồi đạo-tràng hàng phục ma-quân, thành
Ðẳng-Chánh-Giác, quán-sát bồ-đề-thọ. Phạm-Vương thỉnh chuyển pháp-luân. Lên
cung trời mà thuyết pháp. Kiếp số thọ-lượng, chúng-hội trang-nghiêm, nghiêm
tịnh quốc-độ, thật hành hạnh nguyện, phương-tiện giáo-hóa thành-thục
chúng-sanh, phân chia xá-lợi, trụ-trì giáo-pháp, những sự việc chẳng đồng như
vậy thảy đều thấy rõ.
Thiện-Tài lại thấy thân mình ở tại chỗ chư Phật Như-Lai ấy,
cũng dự trong chúng-hội ấy, đều nhớ rõ tất cả phật-sự và thông đạt vô-ngại.
Lại nghe tất cả lưới, linh, nhạc-khí trong tất cả lâu-các ấy
đều diễn sướng bất-tư-nghì pháp-âm vi-diệu: hoặc nói Bồ-Tát phát bồ-đề-tâm,
hoặc nói tu hành các môn ba-la-mật, hoặc nói các nguyện, các địa, hoặc nói cung
kính cúng-dường Như-Lai, hoặc nói trang-nghiêm phật-độ, hoặc nói chư Phật
thuyết pháp sai biệt.
Lại nghe xứ đó có Bồ-Tát nghe pháp-môn như vậy. Thiện-tri-thức
ấy khuyên phát tâm bồ-đề ở cõi ấy, kiếp ấy, chỗ đức Phật ấy, trong đại-chúng
ấy, phát tâm, khởi nguyện, gieo thiện-căn quảng đại như vậy, trải qua bao nhiêu
kiếp tu bồ-tát-hạnh, bao nhiêu thời gian sẽ thành chánh-giác danh hiệu như vậy,
thọ lượng như vậy, quốc-độ trang-nghiêm như vậy, mãn nguyện như vậy, giáo-hóa
chúng-sanh như vậy, chúng Thanh-Văn Bồ-Tát như vậy. Sau khi nhập niết-bàn,
chánh-pháp ở đời bao lâu năm lợi ích vô-lượng chúng-sanh.
Hoặc lại nghe xứ ấy có Bồ-Tát tu lục ba-la-mật.
Hoặc nghe xứ ấy có bồ-tát vì cầu pháp mà rời bỏ ngôi vua,
cung-điện, vợ con quyến-thuộc, tài-sản, nhẫn đến xả thí tay, chân, đầu, mắt,
thân thể.
Hoặc nghe xứ ấy có Bồ-Tát thủ hộ chánh-pháp làm đại Pháp-Sư
rộng hành pháp-thí, dựng pháp-tràng, thổi pháp-loa đánh pháp-cổ, mưa pháp-vũ,
xây phật tháp miếu, làm hình tượng Phật, bố-thí tất cả đồ an vui cho
chúng-sanh.
Hoặc nghe xứ ấy có đức Như-Lai ở kiếp ấy thành Ðẳng-Chánh-Giác
thuyết pháp độ sanh.
Thiện-Tài nghe bất-tư-nghì vi-diệu pháp-âm như vậy, thân tâm
hoan-hỉ nhu-nguyến liền được vô-lượng môn tổng-trì, vô-lượng môn biện-tài, các
thiền, các nhẫn, các nguyện, các độ, các thông, các minh và các giải-thoát, các
môn tam-muội.
Lại thấy những hình tượng trong các gương báu: những là chư
Phật chúng-hội đạo-tràng, Bồ-Tát chúng-hội đạo-tràng, Thanh-Văn chúng-hội
đạo-tràng, Duyên-Giác chúng-hội đạo-tràng, những tịnh thế-giới, những uế
thế-giới, hoặc những tịnh uế thế-giới, những thế-giới có Phật, những thế-giới
không Phật, những tiểu thế-giới, những trung thế-giới, những đại thế-giới,
những nhân-đà-la-võng thế-giới những thế-giới úp, những thế-giới ngửa, những
thế-giới bình-thản, những thế-giới của địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sanh ở, những
thế-giới đầy chúng nhân thiên.
Ở trong những thế-giới như vậy, thấy có vô-số chúng đại Bồ-Tát
hoặc đi hoặc ngồi làm nhiều sự-nghiệp:
Những là hoặc khởi đại-bi thương xót chúng sanh, hoặc soạn
những bộ luận lợi ích chúng-sanh, hoặc thọ, hoặc trì, hoặc biên, hoặc tụng,
hoặc hỏi, hoặc đáp, ba thời sám-hối hồi-hướng phát nguyện.
Thiện-Tài lại thấy trong tất cả cột báu phóng lưới đại
quang-minh ma-ni-vương, hoặc xanh, hoặc vàng, hoặc đỏ, hoặc trắng, hoặc màu
pha-lê, hoặc màu thủy-tinh, hoặc màu đế-thanh, hoặc màu hồng-nghệ, hoặc màu
vàng diêm-phù-đàn, hoặc làm thành màu tất cả quang-minh.
Lại thấy những bửu-tượng và hình đồng-nữ bằng vàng
diêm-phù-đàn, hoặc tay cầm hoa-vân, y-vân, tràng-phan, táng cái. Hoặc cầm những
hương thoa, hương bột. Hoặc cầm thượng-diệu ma-ni-bửu võng. Hoặc thòng xích
vàng, hoặc mang anh-lạc. Hoặc dơ cánh tay bưng đồ trang-nghiêm. hoặc cúi đầu
trút mão ma-ni khom mình chiêm ngưỡng mắt chẳng tạm rời.
Lại thấy chuỗi chân-châu thường xuất sanh nước thơm đủ tám
công-đức. Thấy chuỗi lưu-ly phóng trăm ngàn quang-minh đồng thời chiếu sáng.
Những tràng phan bửu-cái, bửu võng tất cả đều trang-nghiêm với những châu bửu.
Lại thấy bốn màu hoa sen, mỗi mỗi đều sanh vô-lượng hoa: hoặc
bằng cánh tay, hoặc bằng bánh xe. Trong mỗi hoa thảy đều thị-hiện nhiều thứ
hình tượng để trang-nghiêm:
Như là tượng nam, tượng nữ, tượng đồng-nam, tượng đồng-nữ,
tượng Thích, Phạm, Hộ-Thế, Thiên, Long, Dạ-Xoa, Càn-Thát-Bà, A-Tu-La,
Ca-Lâu-La, Khẩn-Na-La, Ma-Hầu-La-Già, tượng Thanh-Văn, Duyên-Giác, Bồ-Tát.
Tất cả những sắc tượng trên đây đều khom mình chắp tay kính
lễ.
Cũng thấy đức Như-Lai ngồi kiết-già, thân ba mười hai tướng
trang-nghiêm.
Lại thấy nơi đất tịnh lưu-ly, trong khoảng mỗi bước hiện
bất-tư-nghì những sắc-tượng:
Như là sắc-tượng thế-giới, sắc-tượng Bồ-Tát, sắc-tượng
Như-Lai, sắc-tượng những lâu các trang-nghiêm.
Lại nơi nhưng nhánh lá bông-trái của bửu-thọ, đều thấy những
sắc-tượng bán-thân:
Như là sắc-tướng bán-thân của Phật, của Bồ-Tát, của Thiên,
Long, bát-bộ. Sắc tượng bán thân của Hộ-Thế Tứ-Thiên-Vương, của
Chuyển-Luân-Vương, của Tiểu Vương, Vương Tử, Ðại-Thần, Quan-Trưởng và của tứ
chúng.
Những sắc-tượng bán-thân nầy hoặc cầm tràng hoa, hoặc cầm
anh-lạc, hoặc cầm những đồ trang-nghiêm, hoặc khom mình chắp tay lễ kính, nhất
tâm chiêm-ngưỡng mắt chẳng tạm rời. Hoặc ca ngợi, hoặc nhập tam-muội nơi thân
đều dùng tướng hảo trang-nghiêm phóng những quang-minh nhiều màu:
Như là quang-minh màu chân-kim, màu bạch-ngân, màu san-hô, màu
đâu-sa-la, màu đế-thanh, màu tỳ-lô-giá-na bửu, màu châu bửu, màu bông
chiêm-ba-ca.
Lại thấy trong tượng bán nguyệt phóng ra vô-số quang-minh của
nhật nguyệt tinh tú chiếu khắp mười phương.
Lại thấy bốn phía vách trong mỗi bước đều dùng châu bửu để
trang-nghiêm.
Trong mỗi châu bửu đều hiện hình Di-Lặc Bồ-Tát thuở kiếp xưa
tu hành bồ-tát-đạo: hoặc bố-thí đầu, mắt, tay, chân, môi, lưỡi, răng, nướu,
tai, mũi, máu, thịt, da thứa, xương tủy, nhẫn đến móng, tóc. Hoặc bố-thí vợ
con, thành ấp, tụ lạc, quốc-độ, ngôi vua. Làm cho người ở lao ngục thời được ra
khỏi, kẻ bị trói buộc thời được cởi mở, người bệnh tật thời được lành,
người vào đường tà thời chỉ cho đương chánh.
Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát làm lái thuyền đưa qua biển lớn. Hoặc
làm mã-vương cứu hộ ác nạn. Hoặc làm đại-tiên khéo giảng-luận. Hoặc làm
Luân-Vương khuyên tu thập thiện. Hoặc làm y-vương khéo chữa các bệnh. Hoặc hiếu
thuận cha mẹ. Hoặc thân cận thiện-hữu. Hoặc làm Thanh-Văn, Duyên-Giác, Bồ-Tát.
Hoặc làm Như-Lai giáo-hóa điều-phục tất cả chúng-sanh. Hoặc làm Pháp-Sư phụng
hành phật-giáo, thọ-trì, độc tụng, tư-duy đúng lý. Lập phật-tháp, tạo
phật-tượng. Hoặc mình cúng dường, hoặc khuyên người cúng, thoa hương, rải hoa,
cung kính lễ bái. Những sự như trên thật hành luôn không dứt.
Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát ngồi tòa sư-tử thuyết pháp
khuyên chúng-sanh an-trụ thập-thiện, nhất tâm quy hướng Tam-Bửu, thọ-trì năm
giới và tám giới, xuất gia nghe pháp, thọ-trì đọc tụng, tu hành đúng pháp.
Nhẫn đến hoặc thấy những sắc-tượng của Di-Lặc Bồ-Tát tu hành
các môn ba-la-mật trong trăm ngàn ức na-do-tha vô-số kiếp.
Lại thấy Di-Lặc Bồ-Tát từng kính thờ chư thiện-tri-thức đều
dùng tất cả công-đức trang-nghiêm.
Lại thấy Di-Lặc Bồ-Tát tại chỗ của mỗi thiện-tri-thức thân-cận
cúng-dường, tuân hành lời dạy, nhẫn đến trụ bực Quán-Ðảnh.
Bấy giờ chư thiện-tri-thức ấy bảo Thiện-Tài rằng:
Lành thay Ðồng-Tử! Ngươi nhìn xem những sự bất-tư-nghì của
Di-Lặc Bồ-Tát chớ có nhàm mỏi.
Lúc đó vì được sức ghi nhớ chẳng quên, vì được mắt
thanh-tịnh thấy mười phương, vì được trí vô-ngại khéo quán-sát, vì được trí
tự-tại của Bồ-Tát, vì được quảng-đại-giải của chư Bồ-Tát đã nhập trí-địa, nên
Thiện-Tài ở trong mỗi vật của tất cả lâu các đều thấy vô-lượng cảnh-giới
bất-tư-nghì như vậy.
Như người nằm mộng thấy những cảnh vật, khi thức dậy bèn biết
là cảnh mộng, nhưng có thể nhớ rõ không quên mất. Cũng vậy, nhờ thần lực
gia-trì của Di-Lặc Bồ-Tát, vì biết những pháp trong tam-giới như mộng, vì diệt
được tâm tưởng hèn kém của chúng-sanh, vì được tri-giải rộng lớn vô-ngại, vì an
trụ cảnh-giới thù-thắng của Bồ-Tát, vì nhập trí phương-tiện bất-tư-nghì, nên
Thiện-Tài thấy được cảnh-giới tự-tại như vậy.
Như người sắp mạng-chung, thấy tướng thọ báo theo nghiệp của
họ: người gây ác-nghiệp thời thấy tất cả cảnh-giới khổ nơi địa-ngục, ngạ-quỷ,
súc-sanh. Hoặc thấy lính ngục tay cầm binh khí sân mắng trói bắt dẫn đi. Cũng
nghe những tiếng kêu khóc than van. Hoặc thấy sông tro, vạc nước sôi, núi dao,
cây gươm, rồi bị bức vào chịu khổ.
Người làm lành thời thấy cung-điện trời, vô-lượng thiên-chúng,
thiên-nữ, y-phục trang-nghiêm, cung-điện viên lâm đều đẹp tốt.
Dầu thân chưa chết, nhưng do nghiệp-lực thấy những sự như vậy.
Cũng vậy, do sức bất-tư-nghì của bồ-tát-nghiệp nên Thiện-Tài
được thấy tất cả cảnh-giới trang-nghiêm.
Như có người bị quỷ nhiếp trì thấy các sự việc tùy nơi người
hỏi đều đáp được cả.
Cũng vậy, do bồ-tát trí-huệ nhiếp-trì nên Thiện-Tài được thấy
tất cả sự trang-nghiêm, nếu có ai hỏi đều đáp được cả.
Như có người bị rồng nhiếp trì, tự cho mình là rồng rồi vào
long-cung, trong thời-gian ngắn tự cho là đã trải qua nhiều ngày nhiều tháng
nhiều năm.
Cũng vậy, vì trụ bồ-tát trí-huệ, vì Di-Lặc Bồ-Tát da-trì, nên
trong một ít thời-gian mà Thiện-Tài cho là vô-lượng kiếp.
Như Phạm-Thiên-Cung tên là Trang-Nghiêm-Tạng, trong đó hiện
tất cả sự vật trong Ðại-Thiên thề-giới chẳng tạp loạn nhau.
Cũng vậy, Trong lâu các nầy, Thiện-Tài thấy khắp tất cả
cảnh-giới trang-nghiêm, nhiều thứ sai khác chẳng tạp loạn nhau.
Như Tỳ-Kheo nhập biến-xứ-định, khi đi đứng ngồi nằm, tùy theo
định đã nhập, cảnh-giới ấy hiện tiền.
Cũng vậy, Thiện-Tài nhập lâu-các nầy, tất cả cảnh-giới đều
hiện rõ.
Như có người ở không-trung thấy thành Càn-Thát-Bà đủ sự
trang-nghiêm đều thấy biết rõ không chướng ngại.
Như cung-điện của thần Dạ-Xoa cùng cung-điện của người đồng ở
một chỗ mà chẳng tạp loạn nhau, đều tùy theo nghiệp nên chỗ thấy chẳng đồng.
Như nơi đại-hải, tất cả sắc tượng của thế-giới đều hiện trong
đó.
Như nhà ào-thuật, dùng ảo-lực hiện những ảo-sự.
Cũng vậy, do sức oai-thần của Di-Lặc Bồ-Tát, do sức huyễn-trí
bất-tư-nghì, do có thể dùng huyễn-trí biết các pháp, do được sức tự-tại của
Bồ-Tát, nên Thiện-Tài thấy tất cả cảnh giới tự-tại trang-nghiêm trong lâu các.
Bấy giờ Di-Lặc Bồ-Tát nhiếp thần-lực vào trong lâu-các,
đàn-chỉ ra tiếng bảo Thiện-Tài rằng:
Thiện-nam-tử dậy! Pháp-tánh như vậy. Ðây là những tướng của
trí biết các pháp của Bồ-Tát làm nhơn-duyên tụ tập mà hiện ra. Tự-tánh như vậy,
như huyễn, như mộng, như-ảnh, như tượng, đều chẳng thành-tựu.
Nghe tiếng đàn-chỉ, Thiện-Tài liền từ tam-muội dậy.
Di-Lặc Bồ-Tát nói:
Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi ở trong giải-thoát tự-tại bất-tư-nghì
của Bồ-Tát thọ những hỉ-lạc tam-muội của Bồ-Tát, có thể thấy cung-điện
trang-nghiêm của Bồ-Tát thần-lực gia-trì, của trợ-đạo lưu xuất, của nguyện-trí
hiển hiện. Ngươi thấy bồ-tát-hạnh, nghe bồ-tát-pháp, biết bồ-tát-đức, rõ
như-lai nguyện.
Thiện-Tài thưa:
Bạch Ðại-Thánh! Ðây là sức oai-thần gia hộ ghi nhớ của
thiện-tri-thức.
Bạch Ðại-Thánh! Môn giải-thoát nầy tên là gì?
Di-Lặc Bồ-Tát nói:
Nầy Thiện-nam-tử! Môn giải-thoát nầy tên là “TẠNG TRÍ TRANG NGHIÊM NHẬP TẤT CẢ CẢNH GIỚI BA
ĐỜI CHẲNG QUÊN MẤT.
Nầy Thiện-nam-tử! Trong môn giải-thoát nầy có bất-khả-thuyết
bất khả-thuyết môn giải-thoát, là chỗ chứng đắc của Bồ-Tát nhất-sanh bổ-xứ.
Thiện-Tài hỏi:
Sự trang-nghiêm nầy đi về đâu?
Di-Lặc Bồ-Tát nói:
Ði về nơi chỗ đến.
Thiện-Tài hỏi:
Từ chỗ nào đến?
Di-Lặc Bồ-Tát nói:
Từ trong trí-huệ thần-lực của Bồ-Tát mà đến, nương thần-lực
của Bồ-Tát mà an-trụ, không có chỗ đi, cũng không có chỗ trụ, chẳng phải tích
tập, chẳng phải thường hằng, xa rời tất cả.
Nầy Thiện-nam-tử! Như Long-Vương làm mưa: chẳng từ thân ra,
chẳng từ tâm ra, chẳng có tích tập, mà chẳng phải là chẳng thấy. Chỉ do sức
tâm-niệm của Long-Vương mà mưa tuôn khắp thiên-hạ.
Cảnh-giới như vậy chẳng thể nghĩ bàn.
Nầy Thiện-nam-tử! Cũng vậy, những sự trang-nghiêm trong
lâu-các nầy chẳng ở trong cũng chẳng ở ngoài, mà chẳng phải là không thấy. Chỉ
do thần-lực của Bồ-Tát và sức thiện-căn của ngươi, mà ngươi được thấy như vậy.
Nầy Thiện-nam-tử! Như nhà ảo-thuật làm những ảo-sự: không từ
đâu lại, không đi đến đâu. Dầu không lại không đi, nhưng do ảo-lực mà thấy rõ
ràng.
Cũng vậy, sự trang-nghiêm nầy không từ đâu lại, cũng không chỗ
đi. Dầu không lại không đi, nhưng do quen tập sức huyễn-trí bất-tư-nghì và do
sức đại-nguyện thuở xưa mà hiển- hiện như vậy.
Thiện-Tài thưa:
Ðại-Thánh từ-xứ nào đến đây?
Di-Lặc Bồ-Tát nói:
Nầy Thiện-nam-tử! Chư Bồ-Tát không đến không đi, như vậy mà
đến. Không đi không ở, như vậy mà đến. Không chỗ, không chấp, không mất, không
sanh, chẳng ở, chẳng dời, chẳng động, chẳng khởi, không luyến, không nhiễm,
không nghiệp, không báo, chẳng khởi, chẳng diệt, chẳng đoạn, chẳng thường, như
vậy mà đến.
Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát từ chỗ đại-bi mà đến, vì muốn điều
phục các chúng-sanh.
Từ chỗ đại-từ mà đến, vì muốn cứu hộ các chúng-sanh.
Từ chỗ tịnh-giới mà đến, vì tùy sở-thích mà thọ sanh.
Từ chỗ đại-nguyện mà đến, vì nguyện-lực thuở xưa gia-trì.
Từ chỗ thần-thông mà đến, vì nơi tất cả xứ, tùy thích mà hiện.
Từ chỗ không lay động mà đến, vì hằng chẳng bỏ rời tất cả
Phật.
Từ chỗ không thủ xả mà đến, vì chẳng bắt buộc thân tâm phải
qua lại.
Từ chỗ phương-tiện trí-huệ mà đến, vì tùy thuận tất cả
chúng-sanh.
Từ chỗ thi-hiện biến-hóa mà đến, vì dường như ảnh tượng mà hóa
hiện.
Nhưng nầy Thiện-nam-tử! Ngươi hỏi ta từ chỗ nào mà đến?
Nầy Thiện-nam-tử! Ta từ sanh-quán, nước Ma-La-Ðề mà đến nơi
đây.
Nầy Thiện-nam-tử! Nước ấy có tụ-lạc tên là Phòng-xá. Trong
tụ-lạc có Trưởng-Giả-Tử tên là Cù-Ba-La, ta vì hóa độ người ấy vào phật-pháp mà
ở nơi đó. Lại vì tất cả nhân-dân đáng được hóa-độ nên sanh nơi đó để
thuyết pháp. Lại cũng vì cha mẹ quyến thuộc nói pháp đại thừa cho được xu nhập
nên ở nơi đó, rồi từ đó đến đây.
Thiện-Tài thưa:
Bạch Ðại-Thánh! Những gì là sanh-xứ của Bồ-Tát?
Di-Lặc Bồ-Tát nói:
Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát có mười thứ sanh-xứ:
Bồ-dề-tâm là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh ra Bồ-Tát.
Thâm-tâm là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh thiện-tri-thức.
Chư-địa là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh các môn
ba-la-mật.
Ðại-nguyện là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh diệu-hạnh.
Ðại-bi là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh tứ-nhiếp-pháp.
Quán-sát đúng lý là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh bát-nhã
ba-la-mật.
Ðại-thừa là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh thiện-xảo
phương-tiện.
Giáo-hóa chúng-sanh là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh chư
Phật.
Trí-huệ phương-tiện là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh
vô-sanh pháp-nhẫn.
Tu hành tất cả pháp là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh tam
thế tất cả Như-Lai.
Nầy Thiện-nam-tử! Ðại Bồ-Tát dùng bát-nhã ba-la-mật làm
mẹ, phương-tiện thiện-xảo làm cha, thí-ba-la-mật làm nhũ-mẫu, giới-ba-la-mật
làm dưỡng-mẫu, nhẫn-ba-la-mật làm đồ-trang-nghiêm, tinh-tấn ba-la-mật làm ông
gìa dưỡng-dục, thiền ba-la-mật làm người rửa giặt, thiện-tri-thức làm thầy dạy,
tất cả phần bồ-đề làm bạn, tất cả pháp lành làm quyến-thuộc, tất cả Bồ-Tát làm
huynh đệ, bồ-đề-tâm làm nhà, tu hành đúng lý làm gia-pháp, chư địa làm gia-xứ,
chư nhẫn làm gia-tộc, đại-nguyện làm gia-giáo, đầy đủ các hạnh làm thuận
gia-pháp, khuyên phát đại-thừa làm nối gia-nghiệp, pháp-thủy rưới đầu nhất-sanh
bổ-xứ Bồ-Tát làm Thái-Tử, thành-tựu bồ-đề là hay tịnh gia-tộc.
Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát siêu phàm-phu-địa, nhập bồ-tát-vị,
sanh nhà Như-Lai, trụ chủng-tánh Phật như vậy, có thể tu các hạnh chẳng dứt
Tam-Bảo, khéo giữ được chủng-tộc Bồ-Tát, tịnh bồ-tát-chủng, chỗ sanh tôn-thắng,
không lỗi ác, tất cả thế-gian, thiên, nhơn, ma, phạm, sa-môn, bà-la-môn
cung-kính ngợi khen.
Nầy Thiện-nam-tử! Ðại Bồ-Tát sanh nhà tôn-thắng như vậy rồi,
vì biết tất cả pháp như ảnh tượng nên đối với thế-gian không ghét chê. Vì biết
tất cả pháp như biến-hóa nên không nhiễm trước các cõi hữu-lậu. Vì biết tất cả
pháp không có ngã nên giáo-hóa chúng-sanh lòng không nhàm mỏi. Vì dùng
đại-từ-bi làm thể tánh nên nhiếp thọ chúng-sanh chẳng biết lao khổ. Vì liễu đạt
sanh tử dường như mộng nên trải qua tất cả kiếp mà không e sợ. Vì biết rõ các
uẩn đều như huyễn nên thị hiện thọ sanh mà không nhàm mỏi. Vì biết các giới,
xứ, đồng pháp-giới nên nơi các cảnh-giới không bi hoại diệt. Vì biết tất cả
tưởng như dương-diệm nên vào trong các loài mà chẳng sanh điên-đảo mê hoặc. Vì
đạt tất cả pháp đều như huyễn nên vào cảnh-giới ma chẳng sanh nhiễm
trước. Vì biết pháp-thân nên tất cả phiền-não chẳng khi dối được. Vì được
tự-tại nên nơi tất cả loài đều thông đạt vô-ngại.
Nầy Thiện-nam-tử! Thân ta sanh khắp tất cả pháp-giới, đồng sắc
tướng sai-biệt với tất cả chúng-sanh, đồng ngôn âm sai khác với tất cả
chúng-sanh, đồng những danh hiệu với tất cả chúng-sanh, đồng những cử chỉ sở
thích của tất cả chúng-sanh để tùy thuận thế-gian giáo-hóa điều-phục, thị-hiện
thọ sanh đồng với tất cả chúng-sanh thanh-tịnh, những sự nghiệp làm ra đồng với
tất cả phàm-phu chúng-sanh.
Ðồng với tâm tưởng của tất cả chúng-sanh, đồng thệ nguyện với
tất cả Bồ-Tát mà hiện thân mình đầy khắp pháp-giới.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta vì hóa độ những người thuở xưa cùng ta
đồng tu công-hạnh mà nay thối thất tâm bồ-đề. Cũng vì giáo-hóa cha mẹ thân
thuộc. Cũng vì giáo-hóa các Bà-La-Môn khiến họ bỏ tánh kiêu-mạn để được sanh
trong chủng-tánh Như-Lai, nên ta sanh tại nhà bà-la-môn nơi tụ-lạc Phòng-Xá
trong nước Ma-La-Ðề ở Diêm-Phù-Ðề nầy.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta ở trong đại-lâu-các nầy tùy tâm sở-thích
của các chúng-sanh dùng nhiều phương-tiện để giáo-hóa đều-phục.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta vì tùy thuận tâm chúng-sanh, ta vì
thành-thục chư Thiên đồng hành nơi cung Ðâu-Suất, ta vì thị-hiện bồ-tát phước
trí biến-hóa trang-nghiêm siêu quá tất cả dục-giới cho họ bỏ rời những dục lạc,
vì cho họ biết hữu-vi đều vô-thường, vì cho họ biết chư Thiên hễ thạnh tất có
suy, vì muốn thị-hiện lúc sắp giáng sanh dùng đại-trí pháp-môn cùng chư Bồ-Tát
nhất-sanh bổ-xứ cùng nhau đàm luận, vì muốn nhiếp hóa những người đồng hành, vì
muốn giáo-hóa những kẻ mà đức Thích-Ca Như-Lai để sót lại cho họ đều được khai
ngộ như hoa sen nở, nên khi mạng chung ta sẽ sanh lên trời Ðâu-Suất.
Nầy Thiện-nam-tử! Lúc ta viên-mãn bổn-nguyện thành
nhất-thiết-trí, chứng vô-thượng bồ-đề, thời ngươi và Văn-Thù Sư-Lợi đều được
thấy ta.
Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi nên qua đến chỗ Văn-Thù Sư-Lợi
thiện-tri-thức mà hỏi rằng: Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào nhập
Phổ-Hiền hạnh-môn, thế nào thành-tựu, thế nào quảng đại, thế nào tùy thuận, thế
nào thanh-tịnh, thề nào viên-mãn?
Văn-Thù Sư-Lợi sẽ vì ngươi mà phân-biệt diễn nói.
Tại sao vậy?
Vì những đại-nguyện của Văn-Thù Sư-Lợi, chẳng phải vô-lượng
trăm ngàn ức na-do-tha Bồ-Tát khác có được.
Nầy Thiện-nam-tử! Văn-Thù Sư-Lợi có hạnh quảng đại, nguyện
vô-biên, xuất sanh tất cả Bồ-Tát công-đức không thôi dứt.
Văn-Thù Sư-Lợi thường làm mẹ của vô-lượng trăm ngàn ức
na-do-tha chư Phật. Thường làm thầy của vô-lương trăm ngàn ức na-do-tha Bồ-Tát.
Giáo hóa thành-tựu vô-lượng chúng-sanh. Tiếng đồn vang khắp mười phương
thế-giới. Thường làm Thuyết-Pháp-Sư trong tất cả chúng hội của chư Phật. Ðược
tất cả Như-Lai khen ngợi, trụ nơi trí thậm-thâm, có thể thấy tất cả pháp như
thiệt, thông đạt tất cả cảnh-giới giải-thoát, rốt ráo những hạnh của Phổ-Hiền.
Nầy Thiện-nam-tử! Văn-Thù Sư-Lợi là thiện-tri-thức của ngươi,
làm cho ngươi được sanh nhà Như-Lai, trưởng dưỡng tất cả thiện-căn, phát khởi
tất cả pháp trợ-đạo, gặp thiện-tri-thức chơn thiệt khiến người tu tất cả
công-đức, nhập tất cả nguyện võng, trụ tất cả đại-nguyện, vì ngươi mà nói tất
cả pháp bí-mật của Bồ-Tát, hiện tất cả hạnh bất-tư-nghì của bồ-tát, thuở xưa
cùng người đồng sanh đồng hành.
Vì thế nên nguơi phải đến chỗ Văn-Thù Sư-Lợi chớ có nhàm mỏi.
Văn-Thù Sư-Lợi sẽ vì ngươi mà nói tất cả công-đức.
Tại sao vậy? Vì trước kia ngươi thấy thiện-tri-thức, nghe
bồ-tát-hạnh, nhập môn giải-thoát, đầy đủ đại-nguyện, đều do thần-lực của
Văn-Thù Sư-Lợi.
Văn-Thù Sư-Lợi đều được rốt ráo tất cả xứ.
Lúc đó Thiện-Tài Ðồng-Tử đảnh lễ chân Di-Lặc Bồ-Tát, hữu-nhiễu vô-lượng vòng, ân-cần chiêm-ngưỡng từ tạ mà đi.
Comments
Post a Comment