BÀNH THIỆU THĂNG


Lần bẩn phong trần tự bấy lâu
Mà chân hạnh phúc những là đâu?
Ngày nay hồi hướng về An Dưỡng
Kiếp mộng vô minh đã dãi dầu!


Thần Phật bao la khắp thái hư
Điểm trần lặng lẽ chẳng còn dư!
Chớ đem tri kiến nhiều phân biệt
Một niệm hồi quang thấy Đại Từ.


Chuỗi lần trăm tám chẳng đuôi đầu
Mỗi niệm tinh minh mỗi hạt châu.
Sáu chữ mở toang Vô tận tạng
Như như buông thả lại hồi thâu.


Cảnh vườn tịch mịch tợ thâm san
Ngày vắng kìa ai gõ bế quan?
Nhắn bạn đồng tu nên tự tỉnh
Đừng theo ngoài cửa mãi mơ màng!


Dưới đỉnh Nghiêu phong ngập ráng mây
Ngon mùi lê hoát dạ vui đầy!
Gió đông khéo mách niềm tâm sự
Tiếng Phật thâm trầm quá gác tây.


Rừng lạnh ngàn mai nở trắng phau
Cành xuân chim hót giọng thanh thao
Hương nguyền vì niệm Quan Âm hiệu
Thinh sắc đường kia chớ lạc vào!


Ngước lên rồi lại cúi đầu trông
Liên quốc đâu từng cách điểm lông?
Tiếng hát Ca lăng đà nói rõ
Đây miền chân tịnh chớ mê lòng!


Giữa đêm trừ tịch chốn môn đình
Phá cảnh u trầm xướng kệ kinh.
Mãn khóa Pháp Hoa nhàn rỗi việc
Chén trà Long Tỉnh uổng vơi bình.


Lại đối Ni Sơn hỏi cựu manh?
Cung đàn réo rắt điệu vô sanh.
Trong bầu xuân sắc đi thong thả
Dưới gót hoa luân nở một vành.


Hương sơn lão tử rất thanh chân
Lối rẽ nhiều phen phải hỏi thăm!
Chớ xót nguồn hoa tin tức vắng
Cảnh xưa bên suối vẫn đầy xuân!



Nếu người muốn biết rõ
Chư Phật trong ba đời.
Nên quán tánh pháp giới
Tất cả do tâm tạo.
Tôi đọc kệ Hoa Nghiêm
Tin vào môn Tịnh độ
Do tịnh nguyện chư Phật
Thành cảnh diệu trang nghiêm
Tịnh nguyện như hư không
Chẳng ngăn các hình tướng
Nước công đức vô biên
Nổi hiện hoa sen báu.
Mỗi hoa một chúng sanh
Có đủ Như Lai Tạng.
Bảo trì và bảo thọ
Câu lơn báu vây quanh.
Lớp lớp lầu các màu
Đầy khắp hư không giới.
Hoặc tắm dòng hương thủy
Hoặc hưởng vị diệu trân
Hoặc ngồi thiền kinh hành
Hoặc tụng kinh nghe pháp.
Hoặc giỏ đựng hoa đẹp
Cúng dường Phật mười phương
Hoặc bạn lành hội họp
Đồng vào Bồ đề tràng.
Các chim cùng nhạc trời
Phát xướng tiếng hòa nhã
Từ Văn vào Tư, Tu
Một niệm đều siêu việt
Huống đức Vô Lượng Thọ
Ngồi yên đài bảo hoa
Mây từ che trời người
Mưa pháp nhuần nhã khắp.
Nghe rồi được giải thoát
Thẳng đến ngôi nhất sanh
Việc lợi ích như thế
Vô cùng, chẳng nghĩ bàn!
Cũng như họa sư kia
Một tâm biến các cảnh
Chẳng lìa đầu lông nhỏ
Hiện chỗ ở Bảo Vương.
Không phân biệt kia đây
Một tức khắp tất cả.
Bức họa cùng người họa
Kết cuộc chẳng có chi!
Nguyện những người nghe thấy
Như tôi cùng phát tâm
Nương niệm công đức nầy
Lên ngôi Bất thối chuyển.
Đường vạn ức đâu xa
Ngày đây đã đầy đủ!



Thân số trầm luân tợ điểm trần
Duyên sao chìm nổi chốn mê tân?
Ngày nay thăng hướng Liên hoa quốc
Chớp mắt thu về vạn kiếp xuân!



BÀNH THIỆU THĂNG

 

Cư sĩ Bành Thiệu Thăng, pháp danh Thế Thanh, tự Doãn Sơ, người đời Thanh, ở huyện Trường Châu, tại Tô Châu. Từ thuở bé ông đã thông tuệ, lên mười sáu tuổi được bổ làm chư sanh, năm sau đỗ Hương thi. Năm kế đó lại đỗ Tiến sĩ, trọn đời an dưỡng không ra làm quan.

Ban sơ cư sĩ không tin Phật, chỉ ưa văn tự thế gian, có chí muốn giúp đời. Một hôm ông tự cảnh giác nói: “Tâm địa ta chưa sáng tỏ, biết làm sao?” Có kẻ bảo cho phép tu luyện đạo Tiên, ông tập theo ba năm không kiến hiệu. Sau đọc đến sách Phật, chợt tỉnh ngộ bảo: “Chỗ về của đạo là đây!” Từ đó ông mới tín hướng Phật thừa. Cư sĩ mến phong cách của Cao Trung Hiếu ở Lương Khê và Lưu Di Dân ở Lô Sơn, nên lại tự hiệu là Nhị Lâm, vì chỗ tu học của hai ngài trên đều gọi là Đông Lâm. Tế Thanh tánh thuần hiếu, khi cư tang mẹ, ngủ bên nhà tẩn ba năm. Lúc cha mất, ông lập đạo tràng niệm Phật nguyện đem công đức tụng mười bộ kinh Hoa Nghiêm, một ngàn quyển kinh Di Đà, một ngàn quyển kinh Kim Cang và mười triệu câu Phật hiệu của mình đã tu, hồi hướng cầu cho thân phụ sanh về Cực Lạc.

Kế đó không bao lâu, cư sĩ bỏ hết tập quán theo đời, chuyên tâm tu học Phật pháp. Ông rất thích những tác phẩm của hai ngài Phương Sơn, Vĩnh Minh, suy tôn ngài Liên Trì và Hám Sơn làm bậc tiền đạo của tông Tịnh độ. Năm hai mươi chín tuổi, cư sĩ ăn chay trường. Qua năm năm lại thọ giới Bồ Tát nơi ngài Văn Học Định. Từ đó ông không còn gần đàn bà, tự xưng là Tri Quy Tử, từng nói: “Tế Thanh nầy chí ở Tây phương, hạnh ở kinh Phạm Võng”. Cư sĩ có lời văn quì phát thệ trước bàn Phật rằng: “Nếu Tế Thanh con, đã thọ giới rồi mà còn phá giới, tăng trưởng pháp ác, hủy hoại căn lành, xin hộ pháp chư thiên chu diệt ngay để làm gương cho thế tục. Như con nghiêm sửa thân tâm, giữ gìn giới phẩm, thì hết kiếp nầy nguyện được sanh về An Dưỡng. Xin mười phương Tam Bảo chứng minh, khiến con mau đắc Niệm Phật tam muội. Nguyện con khi lâm chung xa lìa trần cấu, thấy đức Di Đà, nhẹ thoát về Tây, không còn chướng ngại. Khi đó nguyện cho kẻ thấy người nghe đều phát tâm như con, cầu về Cực Lạc, chứng Vô sanh nhẫn, rồi cùng trở lại Ta Bà độ khắp loài hữu tình đồng thành Chánh giác!” Sau cư sĩ bế quan ở Văn Tinh Các tu môn Nhất hạnh tam muội, đề chỗ ở là Nhất Hạnh Cư. Ông có làm mười thi bế quan như sau:

 

I


Lần bẩn phong trần tự bấy lâu
Mà chân hạnh phúc những là đâu?
Ngày nay hồi hướng về An Dưỡng
Kiếp mộng vô minh đã dãi dầu!


II


Thần Phật bao la khắp thái hư
Điểm trần lặng lẽ chẳng còn dư!
Chớ đem tri kiến nhiều phân biệt
Một niệm hồi quang thấy Đại Từ.


III


Chuỗi lần trăm tám chẳng đuôi đầu
Mỗi niệm tinh minh mỗi hạt châu.
Sáu chữ mở toang Vô tận tạng
Như như buông thả lại hồi thâu.


IV


Cảnh vườn tịch mịch tợ thâm san
Ngày vắng kìa ai gõ bế quan?
Nhắn bạn đồng tu nên tự tỉnh
Đừng theo ngoài cửa mãi mơ màng!


V


Dưới đỉnh Nghiêu phong ngập ráng mây
Ngon mùi lê hoát dạ vui đầy!
Gió đông khéo mách niềm tâm sự
Tiếng Phật thâm trầm quá gác tây.


VI


Rừng lạnh ngàn mai nở trắng phau
Cành xuân chim hót giọng thanh thao
Hương nguyền vì niệm Quan Âm hiệu
Thinh sắc đường kia chớ lạc vào!


VII


Ngước lên rồi lại cúi đầu trông
Liên quốc đâu từng cách điểm lông?
Tiếng hát Ca lăng đà nói rõ
Đây miền chân tịnh chớ mê lòng!


VIII


Giữa đêm trừ tịch chốn môn đình
Phá cảnh u trầm xướng kệ kinh.
Mãn khóa Pháp Hoa nhàn rỗi việc
Chén trà Long Tỉnh uổng vơi bình.


IX


Lại đối Ni Sơn hỏi cựu manh?
Cung đàn réo rắt điệu vô sanh.
Trong bầu xuân sắc đi thong thả
Dưới gót hoa luân nở một vành.


X


Hương sơn lão tử rất thanh chân
Lối rẽ nhiều phen phải hỏi thăm!
Chớ xót nguồn hoa tin tức vắng

Cảnh xưa bên suối vẫn đầy xuân!

 

 

( Ni Sơn, tc Ni Khâu Sơn, nơi sanh quán ca đc Khng T. Cu manh là li ưc hn cũ, có ý thm tr cho tông chí đo Nho. Mt hôm môn đ ca đc Khng T đánh đàn, đến đon cui khy lên vài tiếng rn rang ri chm dt. Ngài gi thy Tăng T bo: “Ny Tăng Sám Đo ta mt mà sut tt c!” (Sám h! Ngô đo nht dĩ quán chi!) Câu ny tư nhiên thm hp vi ý “Mt tâm ham mun pháp” ca đo Pht, nên cư sĩ gi là cu manh. Qua câu y, cung đàn kia chính là khúc điu vô sanh vy.

 

Tuyết Sơn hay Hương Sơn lão t đu ch cho đc Thích Ca vì cnh Tuyết Sơn n Đ có mt vùng xanh tươi gi là Hương Thy. Hai câu trên ý nói đưng tu nhiu li r, phi hc hi Pht pháp mi đi đúng no chánh.

 

Ngun hoa, tc là s tích Đào Nguyên đã nói tp trưc. Đây ý bo: Ngư lang ch bun xót vì lc li ngun đào dn đến đng Tiên, vì các pháp đu là Niết Bàn chân cnh, nếu tâm thanh tnh tt s thy nơi đâu cũng đy v xuân tươi đp c.)

 

 

Cư sĩ lại thuê họa công vẽ bức đồ Cực Lạc Thế Giới, căn cứ theo chánh báo y báo trang nghiêm của ba kinh Tịnh độ. Bức đồ nầy sửa đi đổi lại tất cả bốn lượt, trải nửa năm mới hoàn thành. Tế Thanh tự đề lời kệ rằng:

 

Nếu người muốn biết rõ
Chư Phật trong ba đời.
Nên quán tánh pháp giới
Tất cả do tâm tạo.
Tôi đọc kệ Hoa Nghiêm
Tin vào môn Tịnh độ
Do tịnh nguyện chư Phật
Thành cảnh diệu trang nghiêm
Tịnh nguyện như hư không
Chẳng ngăn các hình tướng
Nước công đức vô biên
Nổi hiện hoa sen báu.
Mỗi hoa một chúng sanh
Có đủ Như Lai Tạng.
Bảo trì và bảo thọ
Câu lơn báu vây quanh.
Lớp lớp lầu các màu
Đầy khắp hư không giới.
Hoặc tắm dòng hương thủy
Hoặc hưởng vị diệu trân
Hoặc ngồi thiền kinh hành
Hoặc tụng kinh nghe pháp.
Hoặc giỏ đựng hoa đẹp
Cúng dường Phật mười phương
Hoặc bạn lành hội họp
Đồng vào Bồ đề tràng.
Các chim cùng nhạc trời
Phát xướng tiếng hòa nhã
Từ Văn vào Tư, Tu
Một niệm đều siêu việt
Huống đức Vô Lượng Thọ
Ngồi yên đài bảo hoa
Mây từ che trời người
Mưa pháp nhuần nhã khắp.
Nghe rồi được giải thoát
Thẳng đến ngôi nhất sanh
Việc lợi ích như thế
Vô cùng, chẳng nghĩ bàn!
Cũng như họa sư kia
Một tâm biến các cảnh
Chẳng lìa đầu lông nhỏ
Hiện chỗ ở Bảo Vương.
Không phân biệt kia đây
Một tức khắp tất cả.
Bức họa cùng người họa
Kết cuộc chẳng có chi!
Nguyện những người nghe thấy
Như tôi cùng phát tâm
Nương niệm công đức nầy
Lên ngôi Bất thối chuyển.
Đường vạn ức đâu xa
Ngày đây đã đầy đủ!

 

Cư sĩ thương chúng sanh đời mạt pháp không đủ chánh nhãn, chống báng lẫn nhau, viết ra quyển Nhứt Thừa Quyết Nghi Luận, dung thông quan điểm hai đạo Nho, Thích. Lại trước tác quyển Hoa Nghiêm Niệm Phật Tam Muội Luận, hóa giải sự tranh chấp giữa Tịnh cùng Thiền. Và soạn thuật quyển Tịnh Độ Tam Kinh Tân Luận, phát huy những ý chỉ từ trước nói chưa hết của Liên Tông. Ngoài ra còn biên soạn các quyển: Cư Sĩ Truyện, Thiện Nữ Nhơn Truyện, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, tùy cơ tiếp dẫn. Những tác phẩm nầy được nhiều người truyền tụng và lưu hành rộng trong đời. Ông lại xuất ra muôn lượng vàng, phương tiện cho gây quỹ lấy lợi tức để tu tạo chùa, ấn tống kinh, cúng trai tăng, mở Cận Thủ Đường nuôi kẻ cô quả, đặt Nhuận Tộc Điền giúp hạng đói nghèo, dựng Truất Ly Hội trợ cấp người sương cư, lập Phóng Sanh Hội để châu toàn vật mạng. Những công đức ấy đều có văn phát nguyện hồi hướng cầu cho mình và các loài hữu tình đều sanh về Cực Lạc.

Cư sĩ nương các tăng xá thuộc vùng Tô, Hàng tịnh cư hơn mười năm, mỗi ngày đều có khóa trình tu niệm. Ông dự chế các điều khoản khi mình mạng chung, và không cho lập hậu. Mùa thu năm Càn Long thứ sáu mươi, cư sĩ bị nhiễm bịnh ở Văn Tinh Các. Sang tiết đông, tinh thần lần suy kém. Ông gọi cháu là Chúc Hoa giao cho quản lý các hội từ thiện, di chúc bảo duy trì đừng để suy mất. Một vị Tăng là Chơn Thanh hỏi ông có thấy điềm lành chăng? Cư sĩ đáp: “Đâu có điềm chi lạ, việc lớn của tôi ở vào ngày Khai ấn sang năm!” Qua xuân nhằm đầu niên hiệu Gia Khánh, ngày hai mươi tháng giêng, cư sĩ viết kệ từ thế rằng:

 

Thân số trầm luân tợ điểm trần
Duyên sao chìm nổi chốn mê tân?
Ngày nay thăng hướng Liên hoa quốc
Chớp mắt thu về vạn kiếp xuân!

 

Viết xong, ngồi kiết già niệm Phật mà thoát. Lúc ấy quả nhiên nhằm ngày Khai ấn trong nhà. Ông hưởng dương năm mươi bảy tuổi.

Comments

Popular posts from this blog