BỔN-THÂN NGÀI VĂN-THÙ-SƯ-LỢI BỒ-TÁT


78. bà lô yết đế
__________________________________

pháp vương trưởng tử văn thù tôn

The eldest disciple of the Dharma King is the Venerable Manjushri.

từ tâm giáo hóa ta bà dân

Kindhearted, he transforms and teaches inhabitants of the Saha world.

đồng nguyện chứng đắc vô lượng trí

With identical vows, they certify to infinite wisdom.

thường tịch quang độ vạn Phật thôn

The Land of Stillness and Light is the village of ten thousand Buddhas.

 


VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT

  

 

(Văn Thù Sư Li có ch gi là Mn Thù Tht L, dch là Diu Đc hoc Diu Kiết Tưng. Theo Kinh Bi Hoa, B Tát khi xưa là thái t Vương Chúng, con th ba ca Luân Vương thi đc Pht Bo Tng. Khi Thái T phát hong th trưc Pht ri, lin đưc đi tên là Văn Thù Sư Li, và đưc th ký v sau thành Pht hiu Ph Hin, thế gii Thanh Tnh Vô Cu Bo Chi v phương Nam. Li kinh Văn Thù Bát Niết Bàn nói: “Văn Thù B Tát th hin sanh nưc Xá V, làng Đa La, làm con ca Phm Đc Bà La Môn, B Tát t hông bên mt ca m sanh ra, thân sc t kim, biết nói lin lúc y. Ln lên theo Pht xut gia”).


 

Kinh Hoa Nghiêm nói: “Bấy giờ, ánh sáng chiếu qua ngàn thế giới, tất cả đức Văn Thù ở các cõi đều đồng thời đối trước Phật nói kệ rằng:

“Trong tất cả oai nghi. Thường nhớ công đức Phật. Ngày đêm không xen hở. Nghiệp như thế nên tu”.

 

Kinh Quán Phật Tam Muội Hải nói: “Sau khi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát này bỏ túc nhân, tự nói đã chứng được Niệm Phật Tam Muội, tất sanh về Tịnh Độ, đức Thế Tôn thọ ký rằng: “Ông sẽ được sanh về cõi Cực Lạc”. Bồ Tát liền đọc kệ phát nguyện:

“Tôi nguyện lúc mạng chung. Trừ tất cả chướng ngại. Thấy Phật A Di Đà. Sanh về cõi Cực Lạc. Khi đã về nơi ấy. Thành tựu các đại nguyện. A Di Đà Thế Tôn. Thọ ký cho thành Phật”.

 

Trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục nói: “Đời Đường, Pháp Chiếu Đại Sư nhờ đức Văn Thù dùng thần lực nhiếp vào thánh cảnh ở non Ngũ Đài. Đại sư đảnh lễ Bồ Tát và thưa thỉnh về yếu môn tu hành. Đức Văn Thù bảo: “Nay ngươi nên niệm Phật, chính là lúc hợp thời, bởi các môn tu hành không chi hơn niệm Phật. Siêng năng cúng dường Tam Bảo, gồm tu phước huệ, hai điều này rất là cần yếu. Đời quá khứ ta nhân cúng dường, quán tưởng và niệm Phật mà được Nhứt Thiết Chủng Trí. Cho nên tất cả pháp, pháp Bát Nhã ba la mật, môn thiền định rất sâu, cho đến chư Phật, đều từ nơi niệm Phật mà sanh. Thế nên biết niệm Phật là vua của các pháp”. Ngài Pháp Chiếu hỏi: “Đệ tử phải niệm như thế nào?” Bồ Tát bảo: “Ở thế giới phương Tây có Phật A Di Đà. Nguyện lực của đức Phật ấy không thể nghĩ bàn, ngươi nên tưởng niệm chớ cho gián đoạn, khi mạng chung quyết định sẽ được vãng sanh không còn thối chuyển”. Nói rồi, Bồ Tát đưa cánh tay sắc vàng xoa đảnh ngài Pháp Chiếu và bảo rằng: “Do ngươi niệm Phật, không bao lâu sẽ chứng quả vô thượng Bồ Ðề”. Đại sư được thọ ký rồi, vui mừng đảnh lễ lui ra.




ĐẠI TRÍ VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT

 

Đức Văn Thù Sư Lợi là một vị Bồ Tát. Trong thời kỳ Đức Bổn Sư ứng thế, ngài là vị thượng thủ trong hàng Bồ Tát chúng, mà cũng là thượng thủ cả chúng hội. ngài thường vì chúng hội mà khải thỉnh nơi Đức Bổn Sư. Ngài cũng là người thường thay mặt Đức Bổn Sư mà khai thị diệu pháp cho chúng hội.

Dưới đây là lời của ngài khuyến tấn chúng hội nên thường niệm Phật, trích trong Kinh “Quán Phật Tam Muội Hải”.

 

Lúc Đức Thế Tôn giảng pháp “Quán Phật Tam Muội” xong. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bảo đại chúng rằng :

Về thuở quá khứ, thời kỳ Phật Đức Như Lai, đồng tử Giới Hộ, con trai của một ông trưởng giả, từng thọ pháp Tam quy khi còn ở trong thai mẹ. Năm lên tám, một hôm cha mẹ thỉnh Đức Bửu Oai Đức Phật về nhà cúng dường. Đồng tử Giới Hộ thấy Đức Phật cử chỉ đoan trang đi chậm rãi, dưới chân Phật, mỗi bước mọc hoa sen, thân Phật tỏa ánh sáng rực rỡ, thời mừng rỡ cung kính, liền cúi đầu đảnh lễ. Lễ Phật rồi, đồng tử chí thành chăm nhìn Phật không rời.

Đồng tử Giới Hộ nhơn vì một lần được thấy Phật và nhìn Phật đó mà tiêu trừ được tội sanh tử của trăm nghìn ức na-do-tha kiếp. Từ đó về sau, đời đời luôn được gặp chư Phật, nhiều đến số trăm ức na-do-tha hằng hà sa Đức Phật. Các Đức Thế Tôn ấy đều giảng dạy pháp “Quán Phật Tam Muội” đúng như lời của Đức Bổn Sư vừa giảng hôm nay.

Sau đó, có trăm vạn Đức Phật ra đời đồng một hiệu Chiên Đàn Hải. Đồng tử chầu chực khắp tất cả chư Phật, thường lễ Phật, cúng dường, chắp tay nhìn Phật. Do công đức quán Phật, nên rồi lại được gặp trăm vạn a-tăng-kỳ Đức Phật liền chứng được trăm vạn ức “niệm Phật Tam muội”, chứng được trăm vạn a-tăng-kỳ “triền đà-la-ni môn”. Khi đồng tử đã chứng các môn Tam muội và đà-la-ni, chư Phật liền hiện thân thuyết vô tướng pháp cho. Khi đồng tử được nghe vô tướng pháp, trong giây lát bèn chứng đặng “Thủ Lăng Nghiêm Tam muội”.

Thuật xong, đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát kết luận : “Đồng tử Giới Hộ tối sơ do nhờ thọ pháp Tam quy, một lần chí thành lễ Phật, quán Phật, tâm không mỏi nhàm, nên rồi được gặp vô số chư Phật. Huống là người chuyên lòng luôn tưởng nơi Phật !

 Đồng tử Giới Hộ đó không phải ai đâu lạ, chính là tiền thân của tôi đấy !”.

Văn Thù Bồ Tát nói dứt lời, Đức Bổn Sư phán với ngài A Nan : “Ông nên đem lời của Văn Thù Sư Lợi nói lại cho khắp cả đại chúng và tất cả vô số đời sau.

Nếu ai có thể lễ Phật, ai có thể niệm Phật, ai có thể quán Phật, thời người ấy sẽ đồng với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát”.


Cũng như Phổ Hiền, Văn Thù Bồ Tát từng có lời tự nguyện về Cực Lạc thế giới, chép trong Kinh “Văn Thù Phát Nguyện”.

 

Nguyện ngã mạng chung thời

Diệt trừ chư chướng ngại

Diện kiến A Di Đà

Vãng sanh Cực Lạc quốc

Sanh bỉ Phật quốc dĩ

Thành mãn chư đại nguyện

A Di Đà Như Lai

Hiện tiền thọ ngã ký

Nghiêm tịnh Phổ Hiền hạnh

Mãn túc Văn Thù nguyện

Tận vị lai tế kiếp

Cứu cánh Bồ Tát hạnh.



HAI ĐẠI THÁNH ỨNG TÍCH

 

 

Trích ở bộ “Tống Cao Tăng”

và “Lạc Ban Văn Loại”

 

Đời Đường, ngài Thích Pháp Chiếu trụ trì chùa Vân Phong ở Hoành Châu, hàng ngày tinh tấn tu hành không bê trễ.

Năm Đại Lịch thứ hai, một buổi sáng nọ, ngài thấy trong bát cháo nơi nhà Tăng hiện bóng mây lành năm màu. Trong mây hiện ra một cảnh chùa, hướng Đông Bắc ngõ chùa có dãy núi, chân núi có khe nước, phía Bắc của khe có một cửa ngõ bằng đá, trong ngõ đá lại có một ngôi chùa to để hiệu “Đại Thánh Trúc Lâm Tự”.

Ít hôm sau, ngài lại thấy trong bát cháo hiện cảnh chùa, vườn, ao, lầu đài đồ sộ, và một vạn vị Bồ Tát ở trong đó.

Ngài mới đem cảnh tượng đã thấy mà hỏi cùng các bậc trí thức.

Một Đại đức bảo : “Việc biến hiện của chư Thánh khó nghĩ bàn được. Nhưng nếu luận về thế diện phương hướng núi sông, thời đó là cảnh Ngũ Đài Sơn”.

Nghe Đại đức nói, ngài có ý muốn viếng cảnh Ngũ Đài Sơn.

Năm Đại Lịch thứ tư, ngài Pháp Chiếu gặp một cụ già bảo : “Ông từng có ý muốn đến Kim Sắc thế giới (Ngũ Đài) để kính lễ Đại Thánh (Văn Thù), sao đến nay vẫn chưa đi ?”. Ngài bèn cùng với các pháp hữu đi Ngũ Đài.

Năm Đại Lịch thứ năm, ngày mùng sáu tháng Tư thời đến chùa Phật Quang ở huyện Ngũ Đài. Đêm ấy, vào lối canh tư, ngài bỗng thấy ánh sáng lạ từ xa xẹt đến chiếu mình ngài. Ngài liền nhắm theo tia sáng mà đi. Đi được năm mươi dặm thời đến một dãy núi, dưới chân núi có khe, phía Bắc của khe có ngõ đá. Nơi ngõ có hai đồng tử đứng chực sẵn xưng tên là Thiện Tài và Nan Đà. Hai đồng tử dắt ngài đến một ngôi chùa to, trên bảng đề hiệu “Đại Thánh Trúc Lâm Tự”, đất vàng, cây báu rất trang nghiêm. Giống hệt như cảnh đã thấy trong bát cháo lúc trước.

Ngài vào chùa, lên giảng đường, thấy phía Tây thời đức Văn Thù, phía Đông thời đức Phổ Hiền, hai vị đại Bồ Tát đều ngự trên tòa cao lớn, đương thuyết pháp cho một vạn vị Bồ Tát.

Ngài Pháp Chiếu cung kính đến trước tòa đảnh lễ rồi bạch rằng : “Phàm phu thời mạt pháp, cách Phật đã xa, chướng sâu nghiệp nặng, phước mỏng trí cạn. Dầu sẵn đủ Phật tánh, nhưng không sao phát hiện được. Phật pháp quá mênh mông, chưa rõ nên tu pháp môn nào cho thích hợp ?”.

Đức Văn Thù dạy : “Nay ông niệm Phật chính là phải lúc. Các môn tu hành không môn nào qua môn niệm Phật cả. Rồi thêm cúng dường Tam Bảo, gồm tu cả phước và huệ. Hai môn này rất là thiết yếu.


Tu “Phưc” là cúng dưng. Tu “Hu là nim Pht.


Về thuở quá khứ, nhờ quán Phật, niệm Phật, cúng dường Phật, mà ta chứng đặng Nhứt thiết chủng trí.

Vì thế nên tất cả các pháp môn : Bát nhã Ba-la-mật, thậm thâm thiền định, đến như Phật cũng đều từ niệm Phật mà sanh. Do đây nên biết, “niệm Phật là vua trong các pháp môn”.

Ngài Pháp Chiếu bạch : “Nên niệm Phật như thế nào ?”.

Đức Văn Thù dạy : “Hướng Tây của thế giới này có Đức Phật A Di Đà, giáo chủ cõi Cực Lạc. Nguyện lực của Đức Phật ấy không thể nghĩ bàn. Ông nên chuyên niệm Đức Phật A Di Đà cho được không gián đoạn, đến lúc lâm chung quyết định vãng sanh, vĩnh viễn không thoái chuyển đạo Vô thượng”.

Dứt lời, hai vị Đại Thánh đồng đưa tay vàng xoa đầu ngài Pháp Chiếu mà phán rằng : “Nhơn vì ông niệm Phật, không bao lâu ông sẽ chứng quả Vô thượng Bồ-đề. Nếu thiện nam tín nữ nào nguyện mau thành Phật, không gì qua niệm Phật. Niệm Phật quyết mau chứng quả Vô thượng Bồ-đề”.

Hai Đại Thánh thọ ký xong, ngài Pháp Chiếu vui mừng đảnh lễ, rồi từ tạ lui ra.

Hai đồng tử đưa ngài ra khỏi ngõ chùa, ngài ngước đầu ngó lại, bỗng người, cảnh đều biến mất. Ngài bèn dựng đá đánh dấu chỗ ấy rồi trở về chùa Phật Quang.

Đến ngày 13 tháng Tư, ngài đi cùng năm mươi vị Tăng, đồng đến hang Kim Cương thành tâm đảnh lễ danh hiệu của 35 Đức Phật. Ngài Pháp Chiếu lễ vừa được 10 bận, bỗng tự thấy hang Kim Cương rộng lớn trang nghiêm thanh tịnh, có cung điện bằng lưu ly, thấy đức Văn Thù cùng đức Phổ Hiền đồng ngự trong ấy.

Hôm khác, ngài Pháp Chiếu đi riêng một mình đến hang Kim Cương cầu nguyện cho thấy Đại Thánh, rồi gieo mình rập lạy. Ngài bỗng thấy Thánh Tăng tự giới thiệu là Phật Đà Ba Lợi dắt ngài vào một viện, bảng đề “Kim Cương Bát Nhã Tự”. Toàn viện báu đẹp trang nghiêm ánh sáng chiếu lấp lánh.

Dầu đã nhiều lần thấy sự linh dị, nhưng ngài vẫn chưa thuật với ai cả.

Tháng Chạp năm ấy, ngài nhập đạo tràng niệm Phật nơi chùa Hoa Nghiêm. Ngài tuyệt thực nguyện vãng sanh Tịnh Độ. Đến ngày thứ bảy, đầu hôm, đương lúc niệm Phật, ngài thấy một Thánh Tăng vào bảo rằng : “Ông đã được thấy cảnh giới ở Ngũ Đài Sơn, sao ông không truyền cho đời được cùng biết !”. Nói xong, Thánh Tăng liền ẩn.

Rạng đông, ngài lại thấy Thánh Tăng vào bảo như hồi đầu hôm. Ngài mới đáp : “Chẳng phải là tôi có lòng dấu kín Thánh đạo, chỉ sợ rằng nói ra người đời không tin mà sanh sự chê bai thôi !”.

Thánh Tăng bảo : “Đức Đại Thánh Văn Thù hiện tại ở Ngũ Đài mà còn không khỏi có người hủy báng. Ông nên đem các căn giới mà ông được thân thấy ở Ngũ giới, truyền khắp với mọi người, làm cho mọi người được nghe biết mà phát Bồ-đề tâm”.

Ngài Pháp Chiếu tuân lời, nhớ kỹ lại những sự đã thấy, rồi chép ra truyền cho mọi người.

Năm sau, ông Thích Huệ Tùng với chư Tăng chùa Hoa Nghiêm đi cùng ngài Pháp Chiếu đến hang Kim Cương lễ Phật, rồi đến chỗ dựng đá lúc trước để chiêm ngưỡng cựu tích. Mọi người đương ngưỡng vọng ngậm ngùi, bỗng đồng nghe tiếng hồng chung từ vách đá vang ra, tiếng chuông ngân nga, nhặt khoan rành rẽ. Ai nấy đều lấy làm lạ và đồng công nhận những lời thuật của ngài Pháp Chiếu là thật.

Nhơn vì muốn người đời phát đạo tâm, nên Tăng chúng khắc sự tích của ngài Pháp Chiếu được thấy vào vách đá.

Ít năm sau, chư Tăng lại dựng một kiểng chùa ngay nơi chỗ ngài Pháp Chiếu đánh dấu, để hiệu là “Trúc Lâm tự”, nơi mà ngài Pháp Chiếu được đức Văn Thù cùng đức Phổ Hiền giảng dạy và thọ ký lúc trước.

 


TỨ TỔ

PHÁP CHIẾU ĐẠI SƯ

 

Trích ở những bộ: 

“Tống Cao Tăng Truyện”,

“Lạc Ban Văn Loại”

 

Pháp Chiếu Đại sư ban đầu ngài ở chùa Vân Phong tại Hoành Châu chuyên cần tu tập.

Năm Đại Lịch thứ tư nhà Đường, ngài mở đạo tràng niệm Phật tại chùa Hồ Đông. Ngày khai hội, cảm đến mây lành giăng che, trong mây hiện cung điện, Đức A Di Đà Phật và Quan Thế Âm, Đại Thế Chí hiện thân vàng sáng chói cả hư không. Khắp thành Hoành Châu, nam nữ già trẻ đều đặt bàn thắp hương đảnh lễ.

Do Phật và Bồ Tát hiện thân như thế, nên mọi người đều phát tâm tinh tấn hành đạo. Đạo tràng này, ngài khai được năm hội.

Năm Đại Lịch thứ năm, ngài được gặp Văn Thù và Phổ Hiền hai vị đại Bồ Tát tại chùa “Đại Thánh Trúc Lâm tự” ở Ngũ Đài Sơn. Hai vị Bồ Tát khuyên ngài gắng chuyên chí nơi Pháp môn niệm Phật để giáo hóa mọi người, đồng thọ ký cho ngài sẽ được vãng sanh Cực Lạc và mau chứng quả Vô thượng Bồ-đề.

Triều vua Đức Tông, ngài mở đạo tràng niệm Phật ở Tinh Châu cũng được năm hội.

Mỗi đêm khuya, vua và người trong cung thường nghe vẳng tiếng niệm Phật rất thanh. Nhà vua bèn sai người theo tiếng mà tìm và sau khi biết đó là tiếng niệm Phật ở đạo tràng tại Tinh Châu. Nhà vua bèn phái sứ giả mang lễ thỉnh ngài vào triều.

Ngài mở đạo tràng niệm Phật tại hoàng cung cũng được năm hội. Vì thế nên người đời gọi là “Ngũ Hội Pháp sư”.

Một hôm, đang lúc định tâm niệm Phật, bỗng có một vị Thánh Tăng hiện đến bảo ngài rằng: “Tòa sen báu của Pháp sư đã hoàn thành. Ba năm sau thời hoa nở”. Dứt lời, Thánh Tăng liền ẩn.

Đúng ba năm sau, ngài hội đại chúng lại mà dặn rằng: “Ta về Cực Lạc, mọi người phải gắng tinh tu”.

Dặn bảo xong, ngài ngồi ngay mà tịch.


 

LI PH. – Đc Văn Thù B Tát dy : “Các môn tu hành, không môn nào qua môn nim Pht c”. Và ngài li dy : “Nim Pht là vua trong các pháp môn”.

Ngm li B Tát, nếu chúng ta, ngưi thi mt pháp, ai là ngưi phát B tâm : “Cu thành Pht nguyn đ sanh”, đu phi tuân li B Tát mà tu nim Pht. Vì “nim Pht thi mau thành Pht”. Li ca hai Đi Thánh phán khi xoa đu ngài Pháp Chiếu.

Nên nim như thế nào ? B Tát dy : “Chuyên nim Đc Pht A Di Đà cho đưc không gián đon”.

Ta nên chú trng nơ“chuyên nim” và “không gián đon”, vì đó là công phu phi có nơi ngưi nim Pht.

“Chuyên nim” tc là ch thun nim Pht không xen tp vic khác, mà cũng không cho tâm móng tưng s khác.

“Không gián đon” là danh hiu ca Pht, luôn luôn tiếp tc nơi tâm, T Thin Đo và Liên Trì Đi sư gi là “tương tc” cũng gi là “bt nim t nim”. Đây là kết qu ca “chuyên nim” và là khi đim ca “nht tâm bt lon” hay “nim Pht Tam mui”. Nim Pht đưc “không gián đon” thi đã đưc bo đm vãng sanh chng bc bt thoái. Nếu đưc “nht tâm” hay chng “Tam mui” thi phm v cao hơn.



52.- VĂN THÙ SƯ LI


dy THIN TÀI vTÍN-CĂN”

đ thành tu hnh PH-HIN và NHP PHÁP GII được viên mãn.


39.  The Transformation Buddha  Atop the Crown Hand and Eye
        
Đảnh-Thượng Hóa-Phật Thủ Nhãn ấn pháp 

 


Diễn Giảng

PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI


Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng


 

Ngày 12 tháng 5 năm 1991

 

KINH: Y lời dạy của Di Lặc Bồ Tát, Thiện Tài đi qua hơn một trăm mười thành đến nước Phổ Môn, thành Tô Ma Na…

GIẢNG: Tôi vẫn nói con số 100 và con số 10 trong Hoa Nghiêm tượng trưng cho vô số, tức là Thiện Tài đi qua rất nhiều nơi, làm rất nhiều hạnh nguyện, đến nước Phổ Môn, là một nơi “cùng khắp,” thành Tô Ma Na, (chữ này chắc có cái nghĩa cũng lớn lao, nhưng rất tiếc tôi không có dịp tìm tòi để giảng cho quí vị).

KINH: Ở nơi cửa thành suy tìm Văn Thù Sư Lợi trông được gặp gỡ kính thờ…

GIẢNG: Khi Thiện Tài đến cửa thành, trông chờ ngài Văn Thù Sư Lợi, một vị thấy đã gia trì cho Thiện Tài trong cuộc hành trình cầu đạo. Chỗ này có một điều lạ là ngài Văn Thù Sư Lợi không hiện ra, mà ngài chỉ đứng rất xa, dơ tay quán đảnh, sờ đầu Thiện Tài.

KINH: Bây giờ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát từ xa đưa tay hữu qua khỏi một trăm mười do tuần áp lên đầu Thiện Tài mà nói rằng: Lành thay, lành thay, này thiện nam tử, nếu rời tín căn thời tâm yếu kém, lo sợ ăn năn công hạnh chẳng tròn đủ…

GIẢNG: Ngài Văn Thù Sư Lợi hơi khác với những thiện tri thức trước là ngài không hiện thân, ngài đứng rất xa vươn tay hữu xoa đầu Thiện Tài, cũng như lối truyền tâm ấn cho Thiện Tài. Thường thường các ngài dùng tay hữu, như sau này đến ngài Phổ Hiền cũng dùng tay hữu xoa đầu Thiện Tài. Những vị cao như vậy mới có thể nói truyền tâm ấn, hay ấn chứng cho đệ tử được.

Việc truyền tâm ấn rất quan trọng và có một ý nghĩa sâu xa khôn lường, mà người được truyền tâm ấn lúc ấy tâm thức cũng được chuyển hóa, biến đổi. Nhưng thời này, tà sư nổi lên bời bời như cát bụi, chỗ nào cũng có vụ truyền tâm ấn tập thể hay điểm đạo cho cả chục người, trăm người. Và dĩ nhiên chỉ là đại vọng ngữ.

Khi ngài Văn Thù vươn tay hữu qua khỏi một trăm mười do tuần (cũng tượng trưng cho sự vô biên công hạnh), sau khi xoa đầu Thiện Tài ngài khuyên nên trở về chỗ cũ, trở về căn đầu tiên là tín căn, chứ ngài không nói gì cao siêu khó hiểu, vì tín căn là mẹ các công đức.

KINH: Thối thất tinh cần, nơi một thiện căn sanh lòng trụ trước, với chút ít công đức đã cho là đủ.

GIẢNG: Nếu ta ít tín căn, mỗi khi chỉ cần làm một chút thôi thì đã vội cho là đủ, như bố thí một chút đã cho rằng ta có đủ công đức lắm rồi, chẳng cần tu thêm gì nữa, vì vậy, cần phải có tín căn sâu chắc, như gốc cây nở ra các hoa công đức. Ngài Văn Thù chỉ nói đơn sơ nhưng thần lực của ngài gia trì cho Thiện Tài lại rất lớn.

KINH: Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát tuyên nói pháp ấy cho Thiện Tài được lợi ích hoan hỷ thành tựu vô số pháp môn.

GIẢNG: Ngài nói đơn sơ thế nhưng vì sự gia trì của ngài cùng các thiện căn của Thiện Tài, nên Thiện Tài thành tựu được nhiều pháp môn.

KINH: Đầy đủ vô lượng đại trí quang minh, khiến được Bồ Tát vô biên tế đà la ni, vô biên tế nguyện, vô biên tế tam muội, vô biên tế thần thông, vô biên tế trí, khiến vào đạo tràng Phổ Hiền hạnh.

GIẢNG: Lúc này Thiện Tài đã vào được biển căn bổn giác nên ngài thành tựu nhiều pháp môn ghê gớm.

KINH: Lại để Thiện Tài ở tại chỗ cũ, Văn Thù Sư Lợi Bổ Tát nhiếp thần lực chẳng hiện ra.

GIẢNG: Lúc bấy giờ ngài Văn Thù khuyên Thiện Tài đến ngài Phổ Hiền tức là viên mãn được Phổ Hiền hạnh nguyện, đồng thời đắc những thần thông đại tự tại lực. Xin quí vị nghe kỹ những trang kinh sau nói về ngài Phổ Hiền, để xem ngài Thiện Tài nhập pháp giới như thế nào…



ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

HOA NGHIÊM KINH

 

Phẩm Nhập Pháp Giới

Thứ ba mươi chín

 

Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà

Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH



52.- VĂN THÙ SƯ LỢI

 

Y lời dạy của Di-lặc Bồ-Tát, Thiện-Tài đi qua hơn một trăm mười thành đến nước Phồ-Môn, thành Tô-Ma-Na, ở nơi cửa  thành suy tìm VĂN THÙ SƯ LỢI, trông được gặp gỡ kính thờ.

Bây giờ Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát từ xa đưa tay hữu qua khỏi một trăm mười do-tuần áp trên đầu Thiện-Tài mà nói rằng:

Lành thay! Lành thay! Nầy Thiện-nam-tử! Nếu rời TÍN-CĂN  thời tâm yếu kém, lo sợ ăn-năn công-hạnh chẳng tròn đủ, thối thất tinh-cần, nơi một thiện-căn sanh lòng trụ trước, với chút ít công-đức đã cho là đủ. Chẳng thể phát khởi hạnh nguyện, chẳng được thiện-tri-thức nhiếp thọ, chẳng được Như-Lai ức niệm, chẳng biết được pháp-tánh như vậy, lý-thú như vậy, pháp-môn như vậy, công-hạnh như vậy, cảnh-giới như vậy, đều không thể biết khắp, biết nhiều, tột nguồn đáy, hiểu rõ, xu nhập giải-thoát, phân-biệt, chứng biết, chứng đắc, tất cả điều trên đây đều không thể được.

Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát tuyên nói pháp ấy cho Thiện-Tài được lợi ích hoan-hỷ thành-tựu vô-số pháp-môn, đầy đủ vô-lượng đại-trí quang-minh, khiến được Bồ-Tát vô-biên-tế đà-la-ni, vô-biên-tế nguyện, vô-biên-tế tam-muội, vô-biên-tế thần-thông, vô-biên-tế trí, khiến vào đạo-tràng phổ-hiền-hạnh.

Lại để Thiện-Tài ở tại chỗ cũ, Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát nhiếp thần-lực chẳng hiện.

Comments

Popular posts from this blog