TỪ HY
Tham thiền chẳng niệm Phật
Phải như thùng lọt đáy.
Thảng còn một điểm nghi
Kết cuộc uổng công lực!
Niệm Phật lại tham thiền
Hai việc chính là một
Tham niệm dính liền nhau
Chẳng thể dễ phóng dật.
Không tham cũng chẳng niệm
Đắc đạo mới bỏ pháp.
Nếu chưa đến bờ kia
Biển khổ không thuyền vớt.
TỪ HY
Từ
Hy tự Mộng Bạch, người đời Thanh, nguyên là một nho sĩ. Thuở thiếu thời ông từng
du ngoạn đất Sầm Điền, thấy cảnh sông núi thắng tươi, lòng dạ thanh thoát; gặp
việc trung hiếu tiết nghĩa, liền khắp tuyên dương. Tuổi trung niên, mở trường dạy
học ở tình ngoài. Đến hơn bốn mươi, được người quen là Châu Lân Thơ tặng cho tập
Long Thơ Tịnh Độ Văn, xem xong liền tin thờ Phật, lấy hiệu là Mộng Liên.
Kế tiếp ông đến am Tôn Thắng quy y với
Lượng Khoan hòa thượng, được pháp danh là Như Siêu. Từ đó cư sĩ giữ thập trai,
lập nhựt khóa trì niệm, quyết cầu sanh về Tây phương. Hơn sáu mươi tuổi, Từ Hy
lại nương ngài Linh Thứu Nghĩa thọ giới Bồ Tát, sự tu tập càng thêm tinh tấn. Bấy
giờ chư Tăng ở am Sô Sư quyên tiền xây dựng ngôi Đại Thông Các, ông hết sức
giúp đỡ cho đến khi lạc thành.
Năm Đạo Quang thứ hai mươi mốt, vào mùa
hạ, cư sĩ bỗng thanh lý việc nhà, bảo gia nhơn rằng: “Người đời sống được bảy
mươi, đã mừng xưa nay ít có. Ta nay may mắn thọ được bảy mươi hai tuổi, mùa thu
nầy mạng chung cũng đã vừa thời!” Kế đó ông viết một thiên nhan đề là Phản Bổn
Tỏa Ngôn nhắc nhở các việc khi mình sắp mãn phần. Trong ấy có đoạn nói:
“Kiếp người như gởi tạm, đã sanh tất có
tử. Cái chết vẫn là việc thường của nhơn thế, nhưng vì ân tình giữa vợ chồng
con cái từ đây vĩnh biệt, nên chẳng khỏi có sự kêu gọi khóc thương. Tuy nhiên
phải biết sống gởi thác về, được yên ổn mãn phần là phước. Huống chi chúng ta
đã tu tịnh nghiệp, chính muốn vượt qua biển khổ, về đến cõi sen. Như thế, lúc
lâm chung cần phải giữ một lòng không loạn, mới mong được ý nguyện vãng sanh. Nếu
để nghe tiếng kêu khóc, tất kẻ sắp chết dễ bị tình ái kéo lôi, tâm tư rối loạn
khóc than. Sau khi ta tắt hơi, ít nhứt phải hơn bốn giờ, mới được thay y phục
cùng di động, càng chậm càng tốt. Thuở xưa cha của Thiệu Khang Tiết tiên sinh,
cũng là trượng nhơn của ngài Y Xuyên, lúc sắp chết bảo người nhà rằng: “Phải đợi
khi thành liệm xong mới được cử ai, chớ vội kêu khóc làm cho ta lạc lối!” Lời nầy
có ghi trong quyển Khang Tiết Ngoại Truyện.
Cư sĩ có viết mấy lời chọn lọc về Thiền
và Tịnh như sau:
Tham thiền chẳng niệm Phật
Phải như thùng lọt đáy.
Thảng còn một điểm nghi
Kết cuộc uổng công lực!
Niệm Phật lại tham thiền
Hai việc chính là một
Tham niệm dính liền nhau
Chẳng thể dễ phóng dật.
Không tham cũng chẳng niệm
Đắc đạo mới bỏ pháp.
Nếu chưa đến bờ kia
Biển khổ không thuyền vớt.
Nguyên văn “Bất tham diệc bất niệm. Đắc pháp khả xả pháp”.
Ý nói: Tham thiền
và niệm
Phật đều là phương tiện
để chứng đạo pháp, cho nên không
tham thiền
tất phải niệm Phật. Nếu không tham thiền cũng chẳng niệm Phật, chỉ trừ bậc đã chứng đạo pháp mà thôi. Bậc đắc đạo mới bỏ pháp phương tiện,
như người đã qua bờ kia mới bỏ chiếc bè. Trái lại, tất phải chìm trong biển khổ, không làm sao cứu vớt được.
Mùa thu năm ấy, quả như lời đã nói, cư
sĩ vương bịnh. Mỗi ngày ông cho người mời chư Tăng hoặc các liên hữu luân phiên
đến nhà trợ niệm. Lại dặn trước giường thiết bàn Phật, hương đèn tiếp nối luôn.
Từ đầu hạ tuần tháng bảy đến đầu hạ tuần tháng tám, suốt ba mươi ngày. Từ Hy
không ăn cơm cháo được, chỉ uống nước gạo rang tiếp sức mà thôi. Người nhà rước
y sĩ đến, ông tự biết không thể qua khỏi, kiên quyết chẳng chịu uống thuốc. Khi
bịnh ngặt sắp mãn phần, cư sĩ mạnh mẽ đem hết tàn lực chắp tay niệm Phật to tiếng
mà vãng sanh.
– Vợ của Từ Hy là Nghiêm thị, thuở bình
cư cũng trì chú niệm Phật. Đến bảy mươi ba tuổi, vì vương chứng kiết lỵ, nằm liệt
trên giường, song vẫn liên tiếp thầm trì niệm. Một hôm bà cảm thấy sự đau khổ
nơi thân bỗng tiêu tan, chứng điếc tai từ lâu cũng dứt hẳn, nghe được tiếng lớn
nhỏ gần xa. Người con là Lập Phương đem việc vãng sanh để sách tấn. Nghiêm thị
bảo: “Mẹ vẫn thường niệm Phật, chưa từng tạm quên”. Vào khoảng canh hai đêm ấy,
bà bảo người nhà rằng: “Rạng ngày ta sẽ đi!” Rồi ngồi dậy cầm chuỗi, lớn tiếng
niệm hết một tràng, tới đó mỏi sức mới chịu nằm xuống. Đến sáng hôm sau, bà
nhìn quanh thốt lời giã biệt rằng: “Đã tới thời khắc ta vãng sanh!” Nói đoạn gượng
ngồi lên, chắp tay nghiêm chỉnh. Lập Phương khuyên: “Mẹ nên đi thẳng một đường,
đừng nghĩ ngợi chi cả!” Nghiêm thị quả quyết ứng tiếng đáp: “Được!” Rồi niệm Phật
độ mười hơi mà thoát hóa.
– Bạn đồng sư của Từ Hy là Kim Đình Đống tự Hữu Lan, người ở Tô Châu cũng chuyên tu tịnh nghiệp. Mùa đông năm Đạo Quang thứ hai mươi, ông mang bịnh. Biết mình sắp mãn phần, ông cho thỉnh thầy quy y là Lượng Khoan hòa thượng cùng vài thiện hữu đến thưa rằng: “Hữu Lan đã đến bờ vực sống chết, xin thầy và các đồng bạn giúp cho thành tựu duyên sen!” Hòa thượng và đại chúng đồng thanh xưng danh hiệu Phật trợ niệm. Giây lát, ông nói: “Hiện thời tôi thấy trước mắt đất đai đều là bảy báu hợp thành, chân đạp bước lên mềm mại êm như bông. Những tiếng nghe bên tai đều nhiệm mầu khó diễn tả. Lại thấy xa xa về phương Tây có tám chữ sắc vàng rất phân minh”. Một liên hữu cải chính nói: “Anh lầm rồi! Nay đại chúng chỉ niệm tụng có sáu chữ thôi”. Kim Đình Đống đưa tay chỉ bảo: “Cực Lạc Thế Giới A Di Đà Phật, chẳng phải tám chữ là gì?” Độ một lúc lâu, cư sĩ lại chắp tay thưa với thầy rằng: “Đệ tử xin đi!” Rồi nhắm mắt mà hóa.
Comments
Post a Comment