TRÍ HÚC ĐẠI SƯ



Cúi lạy A Di Đà

Thần chú dứt gốc nghiệp

Cùng Quan Âm, Thế Chí

Hải chúng Bồ Tát Tăng

Con mê bổn trí quang

Vọng đọa luân hồi khổ

Nhiều kiếp không tạm ngừng

Không được cứu được nương

Nay được thân là người

Vẫn nhằm đời trược loạn

Dầu lại dự Tăng luân

Mà chưa nhận pháp lưu

Mục kích chánh pháp suy

Muốn chống, sức chưa đủ

Chỉ vì từ đời trước

Chẳng tu thắng thiện căn

Nay tâm con quyết định

Cầu sanh Cực Lạc quốc

Rồi ngồi thuyền bổn nguyện

Nếu con không vãng sanh

Thật khó toại bổn nguyện

Vì vậy với Ta Bà

Quyết định phải thoát lìa

Cũng như người bị trôi

Trước cầu mau đến bờ

Sau rồi tìm phương thế

Ra vớt người giữa dòng

Nay con chí thành tâm

Thâm tâm, hồi hướng tâm

Đốt cánh tay ba liều

Kết tịnh đàn một thất

Chuyên trì chú vãng sanh

Chỉ trừ giờ ăn ngủ

Đem công đức tu này

Cầu quyết sanh Cực Lạc

Nếu con thoái bổn nguyện

Quên tưởng về Tây phương

Thì liền đọa địa ngục

Để mau biết ăn năn

Thề chẳng luyến nhơn, thiên

Cùng vô vi Niết-bàn

Ngưỡng nguyện Phật oai thần

Lực, vô úy, bất cộng

Tam bảo đức vô biên

Gia bị Trí Húc  này

Chiết phục khiến bất thoái

Nhiếp thọ cho tăng trưởng.



BẠT NHỨT-THIẾT NGHIỆP-CHƯỚNG CĂN BỔN

ĐẮC SANH TỊNH-ĐỘ ĐÀ-RA-NI

 

Nam-mô a di đa bà dạ, Đa tha dà đa dạ, Đa điệt dạ tha.

A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ, A di rị đa tỳ ca lan đế, A di rị đa tỳ ca lan đa, Dà di nị dà dà na, Chỉ đa ca lệ ta bà ha.



CỬU TỔ

TRÍ HÚC ĐẠI SƯ

 

Trích ở bộ :  “Linh Phong Tông Luận”

 

Trí Húc Đại sư, người Ngô Huyện, họ Chung tự Ngẫu Ích.

Thân phụ thọ trì chú Đại Bi, nằm mộng thấy Quan Thế Âm Bồ Tát trao cho một đứa trẻ trai, mà sanh ra ngài.

Thuở thiếu niên ngài học Nho, từng viết sách bác Phật. Sau khi được đọc bộ “Trúc Song Tùy Bút” của Liên Trì Đại sư, ngài liền đốt quyển sách bác Phật. Năm 20 tuổi, ngài đọc Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, phát tâm xuất thế, mỗi ngày niệm Phật.

Năm Thiên Khải thứ nhứt, tuổi hai mươi bốn, sau khi nghe một Pháp sư giảng Kinh, ngài sanh nghi tình, mới dụng tâm tham cứu. Ít lúc sau, được tỏ ngộ, ngài bèn đóng cửa thất ở Ngô Giang. Xảy mang bệnh nặng, khi ngọa bệnh, ngài nhứt tâm cầu sanh Tịnh Độ. Bệnh bớt, ngài kết đàn trì chú vãng sanh.

Ngài làm kệ phát nguyện:

 

Cúi lạy A Di Đà

Thần chú dứt gốc nghiệp

Cùng Quan Âm, Thế Chí

Hải chúng Bồ Tát Tăng

Con mê bổn trí quang

Vọng đọa luân hồi khổ

Nhiều kiếp không tạm ngừng

Không được cứu được nương

Nay được thân là người

Vẫn nhằm đời trược loạn

Dầu lại dự Tăng luân

Mà chưa nhận pháp lưu

Mục kích chánh pháp suy

Muốn chống, sức chưa đủ

Chỉ vì từ đời trước

Chẳng tu thắng thiện căn

Nay tâm con quyết định

Cầu sanh Cực Lạc quốc

Rồi ngồi thuyền bổn nguyện

Nếu con không vãng sanh

Thật khó toại bổn nguyện

Vì vậy với Ta Bà

Quyết định phải thoát lìa

Cũng như người bị trôi

Trước cầu mau đến bờ

Sau rồi tìm phương thế

Ra vớt người giữa dòng

Nay con chí thành tâm

Thâm tâm, hồi hướng tâm

Đốt cánh tay ba liều

Kết tịnh đàn một thất

Chuyên trì chú vãng sanh

Chỉ trừ giờ ăn ngủ

Đem công đức tu này

Cầu quyết sanh Cực Lạc

Nếu con thoái bổn nguyện

Quên tưởng về Tây phương

Thì liền đọa địa ngục

Để mau biết ăn năn

Thề chẳng luyến nhơn, thiên

Cùng vô vi Niết-bàn

Ngưỡng nguyện Phật oai thần

Lực, vô úy, bất cộng

Tam bảo đức vô biên

Gia bị Tri Húc này

Chiết phục khiến bất thoái

Nhiếp thọ cho tăng trưởng.

 

BẠT NHỨT-THIẾT NGHIỆP-CHƯỚNG CĂN BỔN

ĐẮC SANH TỊNH-ĐỘ ĐÀ-RA-NI

 

Nam-mô a di đa bà dạ, Đa tha dà đa dạ, Đa điệt dạ tha.

A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ, A di rị đa tỳ ca lan đế, A di rị đa tỳ ca lan đa, Dà di nị dà dà na, Chỉ đa ca lệ ta bà ha.

 

Về sau, Đại sư rộng truyền giáo pháp Thiên Thai ở các nơi: Ôn Lăng, Chương Châu, Thạch Thành, Thành Khê, Trường Thủy và Tân An, rồi về dưỡng lão ở Linh Phong.

Đương thời, những nhà tu Thiền các nơi, phần đông cho pháp môn Tịnh độ là quyền giáo, phàm gặp người niệm Phật, ắt bảo tham cứu chữ “Thùy (ai)?”. Riêng mình Đại sư cho rằng: Trì hồng danh chính là “tâm tông viên đốn”.

Ông Trác Tả Xa, một nhà tu thiền, gạn: “Thế nào là “hướng thượng nhứt lộ” của môn niệm Phật? Thế nào là rời tứ cú, tuyệt bách phi? Cực tắc rốt sau cả của người niệm Phật là gì? Gì là một dùi sau ót của kẻ hào hoa hư ngụy?

Trông mong Hòa thượng dẹp duy tâm Tịnh độ, tự tánh Di Đà qua một bên. Thân kiến Như Lai cảnh giới nói mau một phen, để chấn động Đại thiên thế giới”.

Đại sư đáp: “Hướng thượng nhứt trước” chẳng phải là Thiền chẳng phải Tịnh. Vừa nói đến tham cứu, đã là quyền tạm vì kẻ hạ căn rồi. Nếu quả thiệt bậc đại trượng phu tự nên tin chắc “thị tâm tác Phật, thị tâm thị Phật”. Nếu có một niệm cách với Phật thời chẳng đặng gọi là “niệm Phật Tam muội”. Nếu niệm niệm không trở cách với Phật, thời cần gì gạn hỏi là “ai?”.

Còn Cực tắc của môn Tịnh độ là: không có Phật ngoài niệm làm sở niệm của niệm, cũng không có niệm ngoài Phật năng niệm nơi Phật. Chính lúc hạ thủ, toàn thân lấn vào rời tứ cú tuyệt bách phi.

Chỉ thấy được quang minh của Đức A Di Đà Phật, chính là thấy thập phương vô lượng chư Phật. Chỉ sanh về Cực Lạc Tây phương, chính là sanh khắp vô lượng Tịnh Độ, đây là “hướng thượng nhứt lộ” của môn niệm Phật.

Nếu bỏ A Di Đà hiện tiền mà đi nói tự tánh Di Đà, bỏ Tây phương Cực Lạc mà đi nói duy tâm Tịnh độ, đó là “hào hoa hư ngụy”.

Kinh dạy: “Tam Hiền, Thập Thánh còn ở quả báo, chỉ một mình Phật là thật ở Tịnh độ”, lời này là “một dùi sau ót đấy”.

Chỉ tin chắc được môn niệm Phật này, rồi nương tín khởi nguyện, nương nguyện khởi hạnh, thời niệm niệm lưu xuất vô lượng Như Lai, ngồi khắp vô lượng thế giới ở mười phương mà chuyển đại pháp luân, chiếu xưa suốt nay, chẳng phải là việc ngoài phần mình, há lại chỉ chấn động Đại thiên thế giới mà
thôi ư?”

Đại sư từng dạy rằng: “Pháp môn niệm Phật không có gì lạ lùng cả, chỉ tin chắc rồi cố sức thực hành thôi”.

Phật dạy: “Nếu người nào niệm một Đức Phật A Di Đà, đây gọi là “Vô Thượng Thâm Diệu Thiền”. Tổ Thiên Thai bảo: “Bốn môn Tam muội đồng tên niệm Phật. Niệm Phật Tam muội là vua trong các môn Tam muội”.

Tổ Vân Thê nói: “Một câu A Di Đà Phật gồm hết tám giáo, nhiếp cả năm tông”.

Đáng tiếc người thời nay xem niệm Phật là việc tầm thường cho là công phu của hàng ngu phu ngu phụ. Do đó mà lòng tin không chắc, không cố sức thực hành, trọn ngày lơ lơ nên rồi tịnh nghiệp không thành.

Phải biết rằng một niệm hiện tiền đây vốn tự rời tứ cú tuyệt bách phi, chẳng cần tác ý rời tuyệt. Chính hiện tiền một câu Phật đương niệm đó cũng vốn siêu tình ly kiến, nhọc gì nói diệu nói huyền. Chỉ quý là tin cho chắc, giữ cho vững, rồi niệm đi. Hoặc ngày đêm mười vạn câu, bảy vạn câu, hoặc năm vạn, ba vạn, phải quyết định chẳng cho thiếu, thề trọn đời không biến đổi. Đúng như vậy mà không được vãng sanh Tịnh độ thời tam thế chư Phật là vọng ngữ. Được vãng sanh rồi thời trụ bậc bất thoái, tất cả pháp môn đều lần lượt hiện tiền.

Rất kỵ này vầy mai khác. Gặp người nghĩa học thời muốn học văn luận, gặp nhà tu thiền lại mong tham mong cứu, gặp người trì luật thời mộ khất thực trì bát... Như vậy thì ắt không rồi việc gì, trong tâm lăng xăng đủ sự.

Chẳng ngờ: niệm A Di Đà Phật đặng thành thục, thời Tam tạng giáo lý gồm trong đó; một nghìn bảy trăm công án cơ quan hướng thượng cũng ở trong đó; ba nghìn oai nghi, tám vạn tế hạnh, tam tụ tịnh giới cũng không ra ngoài câu Phật.

Người chơn thật niệm Phật: trong thì quên thân, ngoài quên cảnh, đó là “đại bố thí”; không sanh lòng tham, sân, si là “đại trì giới”; chẳng chấp thị phi nhơn ngã là “đại nhẫn nhục”; niệm Phật không gián đoạn là “đại tinh tấn”; vọng tưởng không móng khởi là “đại thiền định”; không bị sự khác và pháp khác làm mê lầm là “đại trí huệ”.

Thử kiểm điểm lấy mình, nếu chưa quên được thân tâm thế giới, còn tham, sân, si, còn thị phi nhơn ngã, còn gián đoạn, còn vọng tưởng tạp niệm, còn bị việc khác môn khác lôi kéo, thời chưa phải là “chơn thật niệm Phật”.

Muốn đến cảnh giới nhứt tâm bất loạn cũng không phải là có phương cách gì khác lạ, lúc mới tập niệm phải dùng xâu chuỗi ghi số rành rẽ định chắc thời khóa quyết định không thiếu.

Lâu lâu thuần thục, không niệm mà vẫn tự niệm, bấy giờ ghi số hay không ghi số, đều đặng. Nếu ban đầu vội muốn viên dung tự tại, muốn vô tướng, thời ắt niệm lực khó thành; đây là vì tin không chắc nên thực hành không cố gắng.

Tha hồ cho ai giảng suốt mười hai phần giáo, Tam tạng Kinh điển, cùng thấu cả nghìn trăm công án cũng chỉ là việc bên bờ sanh tử mà thôi. Đến phút lâm chung quyết định dùng không đặng .


Li răn ca Đi sư rt hip vi li dy ca Nh T: “Chuyên tu thi mưi ngưi vãng sanh c mưi. Còn tp hnh, nghìn khó đưc mt gii thoát”.

Ôi! Tông thi thu nghìn trăm công án. Giáo thi sut tam tng kinh đin, ngưi như thế rt hy hu, mà Đi sư còn cho là vic nơi b sanh t, đến lúc lâm chung trn dùng không đưc thay, hung là k kinh giáo qua loa, tông ch chng thu ư! Hung là k c năm lăng xăng tp hnh ư! C đc nói: “S v tu hành, nguyn lai kết nghip”. Chúng ta nên t tnh t xét, phi sm chuyên tu mi đưc.


Năm Thuận Trị thứ 11, nhà Thanh, mùa Đông, Đại sư có bệnh. Ngài dặn các đệ tử: sau khi trà tỳ, tán xương trộn bột chia thí cho cá chim để kết duyên Tịnh độ với chúng nó.

Sang năm, ngày 21 tháng Giêng, Đại sư sáng sớm dậy, khỏe khoắn tươi tỉnh như không bệnh. Đến giờ ngọ, Đại sư ngồi kiết già trên giường, xoay mặt về hướng Tây chắp tay mà tịch, thọ 57 tuổi.

Sau khi Đại sư tịch ba năm, các môn nhơn hội lại định y pháp trà tỳ. Lúc mở nắp khánh, thời thấy toàn thân của Đại sư vẫn nguyên vẹn, tóc ra dài phủ mép tai, sắc mặt như sống.

Đại chúng không nỡ tuân lời của Đại sư dặn, mới xây tháp thờ ở Linh Phong.




Dưi đây là mt nhà Sư cn đi sa vào ch hi ca các T đã răn dy, trích  n Quang Văn Sao”

 

SƯ NGỘ KHAI

 

Sư Ngộ Khai, một pháp hữu của Ấn Quang Đại sư, vốn là người có căn trí, song tánh Sư cao vọng và háo thắng. Ban sơ, Sư tham cứu Thiền tông, khinh thường Tịnh độ. Ít lúc sau, nhờ Thông Trí Pháp sư khai thị, Sư lần để tâm nơi Tịnh độ. Dầu Sư đã có lòng tin Pháp môn Tịnh độ, song hành trì không chuyên, tâm cao vọng không bớt, Ấn Quang Đại sư từng khuyên nhắc: nên thấp mình chuyên tu. Nhưng vẫn không thể vãn hồi tâm chấp định của Sư.

Sau một thời gian đó đây giảng diễn, Sư mang bệnh bèn trở về Phổ Đà. Vừa về đến núi, cùng sư huynh là Sư Nguyên Thông chuyện vãn thăm nom. Hàn huyên chưa dứt, Sư đã mệt mỏi chẳng nói ra lời. Sau giờ ngọ ngày kế thì Sư mất. Trọn không có chút điềm lành, cũng không một điểm tốt nào đủ chứng nghiệm là vãng sanh hay giải thoát cả.

Ôi! Câu: “Nghìn người khó có một giải thoát”, lời của Nhị Tổ và câu: “Chỉ là việc sanh tử, đến lúc lâm chung trọn dùng không được”, lời của Cửu Tổ, phải chăng là những nhát búa cho hạng tạp hạnh, phải chăng là những tiếng sấm bên tai các bậc tài trí!

Mặc Am Đại sư, một đại Thiền sư và cũng là một đại Giảng sư triều Thanh, lúc lâm chung hỏi đại chúng rằng: “Thế nào gọi là giải thoát?”. Không ai đáp được, Đại sư cười bảo: “Chẳng chi bằng bắt chước ông lão mụ già ăn chay, niệm Phật già dặn là được”.


ĐƯNG V CC L

HT Thích Trí Tnh

Comments

Popular posts from this blog