QUỐC ĐỘ
Trích thuật theo các Kinh :
“Vô Lượng Thọ”
“Quán Vô Lượng Thọ”
“A Di Đà”
CỰC LẠC THẾ GIỚI
Định danh : Trong hội Kỳ Viên, Đức Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật bảo ngài Xá Lợi Phất : “Cõi
đó vì sao gọi là Cực Lạc ?”. Rồi Đức Bổn Sư tự giải
thích : “Vì chúng sanh trong cõi đó không có các điều
khổ, chỉ hưởng thuần những sự vui, nên gọi là Cực Lạc”.
CẢNH VẬT
1.- BẢO ĐỊA
Toàn cõi Cực Lạc, đất lưu ly trong suốt.
Phía dưới có tràng kim cương nâng đỡ. Tràng kim cương ấy
tám gốc đều đặn, mỗi mặt có trăm thứ bảo châu. Mỗi bảo
châu phóng nghìn tia sáng. Mỗi tia sáng có 84.000 màu, chói
đất lưu ly sáng như nghìn ức mặt trời. Mặt lưu ly bằng
phẳng, có dây vàng ròng cùng thất bảo giăng phân khu vực và
đường sá. Mỗi dây báu phóng tia sáng trăm màu. Tia sáng ấy
hình như hoa, như sao, như trăng, chiếu lên kết thành đài sáng chói ở giữa chừng
không. Bên những đài sáng ấy có trăm ức tràng hoa, cùng vô số nhạc
khí. Từ trong đài sáng thổi ra tám thứ gió nhẹ mát, làm rung động những
nhạc khí ấy reo lên tiếng diễn nói pháp “Khổ, Không, Vô thường, Vô
ngã, Từ bi, Hỷ xả, các môn Ba-la-mật”.
2.- BẢO THỌ
Trên Bảo địa có vô số cây Chiên
đàn hương, vô số cây Kiết tường quả, ngay hàng thẳng lối,
nhánh, lá, bông, trái đều đặn chỉnh tề. Mỗi cây cao 8.000 do tuần.
Thân, lá, bông, trái đều là chất thất bảo. Hoặc thứ cây thuần vàng, thuần
bạc, thuần lưu ly, thuần pha lê, thuần xa cừ, thuần mã não,
thuần chơn châu. Hoặc thứ cây gốc vàng thân bạc, nhánh lá bông trái cũng
phân vàng bạc, đây là cây hai chất báu. Có thứ cây gốc vàng, thân bạc,
nhánh lưu ly, lá bông trái cũng phân vàng, bạc, lưu ly, đây là cây ba
chất báu. Hoặc thứ cây thời bốn chất báu, thứ thời năm chất báu, thứ thời sáu
chất báu, thứ thời bảy chất báu, cũng xen lẫn nhau hiệp thành.
Tất cả Phật sự trong cõi Cực Lạc đều
hiện rõ bóng trong cây, và cả thập phương thế giới cũng hiện bóng rõ
trong cây, như trong gương sáng.
Mỗi lá rộng 25 do tuần, một nghìn màu, đồng phóng
ánh sáng đẹp, làm gân lá như chuỗi ngọc.
Những bông xinh đẹp sắc vàng diêm
phù đàn xen trong kẽ lá, sáng rỡ như những vòng lửa. Trên bông tự
nhiên có trái thất bảo hình như chiếc bình quý của Thiên Đế.
Nơi trái phóng ra ánh sáng lớn tụ thành vô lượng tràng
phan cùng bảo cái. Trong bảo cái ấy chói hiện tất cả Phật
sự trong nước Cực Lạc cùng cả thập phương thế giới.
Bảy lớp lưới kết bằng diệu chơn châu giăng trên mỗi bảo
thọ. Mỗi khoảng lưới có cung điện xinh đẹp như cung trời Phạm
Vương. Trong cung điện tự nhiên có các Thiên đồng. Mỗi Thiên
đồng đeo chuỗi năm trăm hột ngọc Ma ni. Mỗi hột Ma ni chiếu
sáng trăm do tuần, làm cho trên cây chiếu sáng như trăm ức mặt trời mặt
trăng hiệp lại.
3.- BẢO TRÌ
Cực Lạc thế giới nơi nơi đều có ao tắm. Thành ao
bằng thất bảo. Đáy ao trải cát kim cương nhiều màu. Ao rộng trăm
nghìn do tuần xem như biển cả.
Mỗi ao có sáu mươi ức hoa sen thất bảo. Mỗi
bông tròn lớn 12 do tuần, đủ các màu đẹp, màu nào chiếu ánh sáng màu nấy.
Trong ao, nước bát công đức từ như ý châu vương sanh,
màu thất bảo, lên xuống theo cọng sen chảy lòn vào cánh bông. Tiếng nước
chảy thanh tao diễn nói pháp mầu : Khổ, Không, Vô thường, Vô
ngã, các môn Ba-la-mật.
Nơi như ý châu vương phóng ánh sáng sắc vàng
ròng. Trong ánh sáng hóa thành các thứ chim đẹp đủ màu, bay lượn, kêu
hót hòa nhã diễn nói pháp : Ngũ căn, Ngũ lực, Thất Bồ-đề, Bát
chánh đạo, cùng ca ngợi niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Mặt nước, làn sóng gợn lăn tăn, nổi lên nhiều tiếng dịu
dàng : tiếng Phật, Pháp, Tăng; tiếng Không, Vô ngã, Đại từ bi;
tiếng Ba-la-mật; tiếng Thập lực, Vô úy, Bất cộng; tiếng thần
thông, trí huệ; tiếng vô tạo tác, bất sanh diệt, Vô sanh nhẫn;
nhẫn đến tiếng cam lồ quán đảnh, cùng vô biên diệu pháp.
Người nghe đến những tiếng này, tâm liền thanh tịnh, thiện
căn thành thục, hẳn không thoái chuyển nơi đạo Vô thượng Bồ-đề.
Các thượng thiện nhơn, người Cực Lạc, lúc vào ao
để tắm, nếu ý muốn ngập chân, thời nước chỉ ngập chân, nếu ý muốn nước
đến bụng thời nước liền ngang bụng, cho đến ý muốn nước đến cổ
thời mặt nước liền lên cao đến cổ. Nước ao tùy theo ý muốn của mỗi
người mà sâu cạn, ấm mát điều hòa rất thuận thích. Người tắm, thân thể nhẹ
nhàng khoan khoái, tâm thần vui vẻ tịch tịnh sáng suốt.
4.-BẢO LÂU
Bốn phía ao báu, những thềm bậc đường sá do vàng, bạc, lưu
ly, pha lê v.v... hiệp thành. Trên có vô số cung điện nhiều
từng.
Những tòa lâu đài này đều bằng vàng, bạc, lưu
ly, pha lê v.v... nhẫn đến vô lượng chất báu xây thành.
Giảng đường, tịnh xá, lâu các cung điện
của A Di Đà Phật, của chúng Bồ Tát, nhân dân, trăm nghìn muôn lần
quý hơn cung điện của Tự Tại Thiên Vương nơi cõi Ta Bà này.
Những đền đài ấy, có thứ nổi lên ở giữa chừng không
như mây, cao lớn tùy theo ý muốn của người ở. Có hạng không
theo ý muốn mà trụ trên bảo địa. Đó là công hạnh
tu hành sâu dày hay kém ít nên chỗ ở khác nhau như thế. Nhưng những sự hưởng
dụng như ăn mặc v.v... đều bình đẳng.
Bốn phía đền đài đều trang nghiêm với những hoa
tràng cùng vô lượng nhạc khí. Gió mát nhẹ rung những nhạc khí ấy
hòa reo thành tiếng pháp : Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã, Từ
bi, Hỷ xả, các môn Ba-la-mật.
5.- BẢO TỌA
Cực Lạc thế giới, Đức Phật, chư Bồ
Tát, cùng nhân dân đều ngồi trên tòa sen báu. Những tòa
sen ấy, từ một chất báu, hai chất báu, nhẫn đến vô lượng chất
báu hiệp thành, màu sắc đẹp lạ, quang minh sáng chói, lớn nhỏ xứng
theo thân người ngồi.
Dưới đây là tòa sen báu của Đức Phật ngự.
Tòa sen này có 84.000 cánh. Mỗi cánh rộng
250 do tuần, 100 màu. Trên mỗi cánh sen có 84.000 lằn gân phóng ra
84.000 tia sáng. Xen vào mỗi cánh sen có trăm ức hột châu
Ma ni. Mỗi hột châu Ma ni phóng nghìn tia sáng. Các tia
sáng này kết tụ nhau lại như hình cây lọng.
Đài sen bằng chất Thích-ca Tỳ-lăng-già bảo. Trang
nghiêm với tám muôn thứ ngọc kim cương, ngọc Ma ni, cùng mành lưới
kết bằng chơn châu.
Trên đài sen, tự nhiên có bốn trụ báu.
Mỗi trụ báu cao đẹp như trăm nghìn muôn ức núi Tu Di. Trên đầu bốn trụ
báu, mành lưới báu trùm giăng rộng lớn như cõi trời Dạ Ma. Mành lưới
báu ấy có năm trăm ức hột bảo châu. Mỗi bảo châu chiếu ra
84.000 tia sáng. Mỗi tia sáng ấy có 84.000 thứ kim sắc. Các
sắc vàng ấy chói khắp mặt bảo địa, nơi nơi biến hóa thành những
tướng trạng khác nhau : hoặc hóa ra đài kim cương, hoặc hóa ra lưới chơn
châu, hoặc hóa làm những lùm mây hoa đẹp sáng v.v... hiện thành Phật
sự ở khắp các nơi trong cõi Cực Lạc...
Khi giảng xong sự lớn đẹp vi diệu của tòa
sen báu, Đức Bổn Sư kết rằng : tòa sen báu ấy có ra
đó, là do nguyện lực thuở tiền thân của Phật A Di Đà,
ngài Pháp Tạng Bồ Tát.
NHÂN DÂN
1.- LIÊN HOA HÓA SANH
Phàm thân hình có ra, ban sơ đều
do thần thức gá vào một nơi để thành. Khác hẳn với người cõi Ta
Bà gá vào nơi bụng bà mẹ, người tu tịnh nghiệp lúc vãng
sanh Cực Lạc thế giới, thời thân thể gá trong hoa
sen báu nơi bảo trì mà hóa sanh. Tịnh Độ Luận nói
: “Nhân dân thanh tịnh của Đức Phật A
Di Đà từ hoa báu trí giác hóa sanh”.
Lúc thần thức được Phật và Bồ
Tát rước về Cực Lạc liền gá vào hoa sen, khi hoa còn búp thời
gọi là ở thai sen. Dầu thân hình chưa ra khỏi búp hoa, nhưng cảnh
tượng và những sự hưởng thọ ở trong hoa đã vui đẹp hơn các cõi trời ở Ta
Bà.
Những hoa báu để thác sanh, sự quý đẹp có khác
nhau, và thời gian hoa nở cũng chậm mau không đồng. Đó là
vì công đức và trí huệ của mỗi thần thức thác
sanh có hậu bạc cùng sâu cạn không đồng nhau.
Do sự không đồng này nên Cực Lạc thế giới có
chín phẩm liên hoa : ba phẩm Thượng, ba phẩm Trung, ba phẩm Hạ.
Ba phẩm bậc Thượng thời liên hoa bằng chất kim
cương, bằng vàng tử kim, hay huỳnh kim. Thời gian hoa nở vừa thác
sanh liền nở, hay cách đêm, hoặc một ngày đêm. Đây là phần của những vị
trước khi vãng sanh, tu hạnh Đại thừa, phát Bồ-đề tâm, thâm ngộ diệu
lý vô sanh, tự hành hóa tha, công đức dày, trí huệ sâu
mà hồi hướng nguyện sanh về Cực Lạc thế giới.
Sáu phẩm dưới thời liên hoa bằng chất thất
bảo. Thời gian hoa nở : hoặc nở liền, hoặc bảy ngày đêm, hoặc hai
mươi mốt ngày hoặc bốn mươi chín ngày v.v...
Ba phẩm liên hoa bậc Trung, là phần của những
người trai giới tinh nghiêm, cùng người hiếu thảo, những
nhà từ thiện, mà dốc lòng cầu về Cực Lạc thế giới.
Ba phẩm bậc Hạ là phần của những người không biết tu
tập, không biết làm lành, cho đến những kẻ ở đời gian ác, đến
khi sắp chết, lúc hấp hối, mà biết ăn năn tội lỗi rồi chí tâm xưng niệm “Nam
mô A Di Đà Phật” thiết tha cầu sanh Cực Lạc thế giới.
Cứ nơi chín phẩm liên hoa đây, thời thấy rằng :
Cực Lạc
thế giới là chỗ đồng về của tất cả Thánh và phàm ở mười phương. Chẳng những là đạo
tràng của các vị Đại thừa Bồ Tát, của những bậc đại
tâm Thanh Văn, Duyên Giác, của những người tinh tấn tu trì,
của các nhà từ thiện làm lành tránh dữ, mà Cực Lạc thế giới cũng
là gia hương của những kẻ tội ác; nhẫn đến mọi loài. Nếu ai tin chắc chí
tâm niệm Phật rồi hồi hướng cầu sanh thời đều được về cả, vì nhờ
sức nhiếp thọ tiếp dẫn của Đức Từ Phụ và chư Bồ
Tát. Chỉ trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch (Ngũ nghịch tội : 1-Giết cha, 2- Giết mẹ, 3- Hại Phật, 4- Giết Thánh nhơn, 5- Phá Tăng.) và hủy báng Chánh pháp. Sau khi được vãng
sanh Cực Lạc thời thành bậc thượng thiện, trụ bậc bất thoái, đồng
dự hải hội.
Nơi Cực Lạc, người từ liên hoa hóa
sanh. Phật Bồ Tát và nhân dân đều ngồi tòa
sen báu. Vì thế nên Cổ đức kêu Cực Lạc thế giới là “Liên Ban” (cõi sen), gọi Thánh
chúng là “Liên Trì Hải Hội” đặt tông Tịnh độ là “Liên Tông”,
gọi hội niệm Phật là “Liên Xã”, kêu bạn niệm Phật là “Liên Hữu” (bạn sen)
2.- THÂN THỂ
Nhân dân nơi Cực Lạc thế giới, thân kim
cương từ hoa sen báu sanh ra, da màu huỳnh kim. Tất cả mọi
người đều đủ 32 tướng hảo đại nhơn, đồng xinh đẹp như
nhau.
Đức Bổn Sư từng hỏi Tôn giả A Nan :
“Như gã ăn mày đứng bên vị Đế vương, thời hình dung của hai
người có giống nhau không ?”
Tôn giả đáp : “Bạch Thế Tôn !
Gã ăn mày hình dung xấu xí nhớp nhúa, đâu sánh với vị Đế
vương được”.
Đức Bổn Sư phán : “Vị Đế vương dầu là sang đẹp, nhưng
sánh với Chuyển luân Thánh vương thời cũng như gã ăn mày. Trăm
nghìn muôn lần quý đẹp của Chuyển luân Thánh vương cũng không bằng Thiên
Đế Thích. (Nói đủ là Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn, vua cõi trời Đao Lợi. Tục gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế.) Trăm nghìn muôn lần quý đẹp của Thiên Đế
Thích cũng không bằng Tự Tại Thiên Vương. Trăm nghìn muôn lần quý đẹp
của Tự Tại Thiên Vương sánh không bằng các vị Thượng thiện nhơn
nơi Cực Lạc thế giới, nhân dân của Đức Phật A
Di Đà”.
3. -THUẦN VUI KHÔNG KHỔ
Nhân dân nơi Cực Lạc thế giới không có
tất cả sự khổ, chỉ hưởng thuần những sự vui thanh tịnh.
Phàm những sự thống khổ của muôn loài nhiều
đến vô lượng. Tóm lại thời có tám điều :
1.- Khổ khi sanh ra. 2.- Khổ khi già yếu. 3.- Khổ lúc
bệnh. 4.- Khổ về sự chết. 5.- Khổ vì phải ly biệt người thân mến. 6.- Khổ
vì gặp phải kẻ oán thù. 7.- Khổ vì không được toại vọng. 8.- Khổ vì thân
tâm đòi hỏi phóng túng.
Nơi Cực Lạc thế giới, người từ hoa
sen báu sanh ra, thời là không “sanh khổ”. Thân kim cương luôn
khương kiện trẻ đẹp, thời là không “lão khổ”, và không “bệnh khổ”. Thọ mạng vô
lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp mãi đến bổ xứ thành Phật, thời
là không “tử khổ”. Không cha mẹ vợ con, thời là không “ái biệt
ly khổ”. Chư thượng thiện nhơn thường chung cùng hội hiệp, thời là không
“oán tắng hội khổ”. Cầu muốn điều chi hay vật chi đều liền được toại
ý, thời là không “cầu bất đắc khổ”. Không thân kiến mà tâm
luôn thanh tịnh, thời không “ngũ ấm xí thạnh khổ”.
Khổ gì có được ở thế giới, mà nơi ấy sự trang
nghiêm thanh tịnh đã đến tuyệt đích !
Cực Lạc thế giới, ngoài các sự vui đẹp về vật chất như ăn
mặc, ao tắm, nhà ở v.v... người Cực Lạc đồng được hưởng những điều
vui cao quý hy hữu :
1.- Thường được thấy Phật gần Phật. 2.- Chư đại Bồ
Tát là thầy là bạn cùng chung hội hiệp. 3.- Luôn được nghe tiếng
diễn nói pháp mầu, không luận chỗ nào và lúc nào, nếu muốn nghe. 4.- Thường được
chư Phật hộ niệm. 5.- Sống lâu vô lượng kiếp đồng với Phật.
6.- Không còn lo bị đọa vào ác đạo. Ở Cực Lạc, danh từ ác đạo còn
không có thay huống là sự thật ! 7.- Vĩnh viễn thoát
ly luân hồi. 8.- Thọ dụng tự nhiên, khỏi bận rộn bê trễ công
phu hành đạo. 9.- Được vào bậc chánh định không còn thoái thất đạo Vô
thượng. 10.- Hiện một đời thành Phật.
4.- THỌ DỤNG TỰ NHIÊN
Cực Lạc thế giới từ cung điện đền đài, bảo
trì, bảo thọ cho đến tất cả vật dụng, đều bằng thất bảo tự
nhiên hiện thành, không phải xây dựng tạo tác.
Người Cực Lạc lúc muốn mặc thời
y phục đúng pháp tự nhiên ở trên thân.
Đến giờ ăn, nếu người muốn bát đĩa vàng, thời bát đĩa
vàng liền hiện ra trước mặt. Người muốn bát đĩa bạc, hay bát
đĩa lưu ly, thủy tinh, minh nguyệt châu, như ý
châu v.v... thời bát đĩa đúng như ý muốn hiện ra trước
mặt. Thức ăn thức uống thơm ngon đựng sẵn trong đĩa bát, vừa
theo lượng người ăn không dư không thiếu. Ăn xong, bát dĩa tự ẩn đi, đến giờ ăn
lại hiện đến, khỏi dọn khỏi cất. Vật thực vào thân tự nhiên tiêu
tan lần, hóa thành hơi thơm theo lỗ chân lông tiết ra ngoài,
không có cặn bã, tẩm bổ thân thể thêm sự khỏe mạnh, tâm được an
vui như bậc vô lậu.
5.- TÂM TÁNH VÀ THẦN THÔNG
Cực Lạc thế giới, người đều trí huệ sáng suốt, biện
tài vô ngại. Không một ai dung ngu. Lúc nghĩ tưởng, thời đều thuần
là quan niệm đạo đức. Vì thế nên lời nói ra thuần là
đúng Chánh pháp. Mọi người đều yêu kính nhau. Không tham, không
sân, không si, không thân kiến. Các căn tịch tịnh, không phóng dật,
không vọng duyên.
Người người đều đủ năm thứ thần thông :
1.- Thiên nhãn thông, thấy suốt mười phương,
người kém nhứt cũng thấy được trăm nghìn ức na-do-tha thế giới.
2.- Thiên nhĩ thông, nghe thấu mười phương.
Người kém nhứt cũng nghe được tiếng thuyết pháp của trăm
nghìn ức na-do-tha Đức Phật. Nghe rồi đều nhớ hiểu được cả.
3.- Tha tâm thông, rõ biết tâm niệm của
người khác, người kém nhứt cũng biết được những tâm niệm của các
loài chúng sanh trong trăm nghìn ức na-do-tha thế giới.
4.- Túc mạng thông, nhớ rõ những đời trước. Người
kém nhứt cũng biết rõ những việc trong trăm nghìn ức na-do-tha kiếp về quá
khứ và vị lai.
5.- Thần túc thông, trong khoảng thời
gian một niệm đi khắp mười phương, người kém nhứt cũng đi được trăm
nghìn ức na-do-tha thế giới.
6.- CÔNG VIỆC THƯỜNG NGÀY
Nhân dân Cực Lạc, mỗi sáng sớm, đem bông báu tươi
đẹp cúng dường Bổn Phật (A Di Đà) và vô lượng chư Phật ở thế
giới khác, nếu muốn cúng dường hoa hương, kỹ nhạc, hoặc muốn cúng
dường y phục, bảo cái, tràng phan v.v... đương lúc ở trước
chư Phật nơi thế giới khác, do oai thần nguyện lực của
Bổn Phật A Di Đà, đồ cúng dường quý đẹp đúng theo ý muốn,
liền hiện trên không nhóm lại như mây, rồi uyển chuyển nhẹ nhàng rơi xuống đạo
tràng thành cúng dường. Lại còn dùng âm thanh vi diệu ca
tụng công đức của chư Phật, kính nghe Kinh pháp của chư Phật
dạy. Cúng dường nghe pháp xong, bỗng nhiên nhẹ nhàng bay về, đến
bổn quốc (Cực Lạc) vẫn còn trước giờ ăn.
Người Cực Lạc, sau khi dùng bữa xong đi kinh
hành tư duy diệu pháp, hoặc niệm Phật, niệm Pháp, niệm
Tăng.
Người Cực Lạc, sau khi tắm nơi bảo trì, rồi
ngồi trên hoa sen báu tu tập Đạo pháp.
Nơi Cực Lạc thế giới, người thời ở trên hư
không mà giảng Kinh, người thời tụng Kinh, người thời tự
thuyết Kinh, người thời dạy Kinh, người thời nghe Kinh, người thời tư
duy diệu nghĩa, người thời tọa thiền nhập định, người thời đi
kinh hành v.v...
Hoặc có những người ở trên bảo địa mà giảng
Kinh, tụng Kinh, thuyết Kinh, dạy Kinh, nghe Kinh hay là tư
duy diệu pháp, tọa thiền nhập định cùng đi kinh
hành v.v...
Do sự hành đạo này, người chưa chứng tứ
quả thời chứng tứ quả, người chưa nhập bất thoái địa thời chứng
nhập bậc bất thoái...
7.- ĐỨC VỊ
Ở Cực Lạc thế giới, mọi người đều trụ bậc bất
thoái chuyển, nghĩa là sau khi đã được sanh về cõi Cực Lạc, thời tất cả đều
đứng vững nơi đạo Vô thượng Chánh giác không còn bị thoái
chuyển lui sụt, tiến mãi đến bậc Nhứt sanh bổ xứ (Đẳng giác) và thành Phật.
Được như trên, là vì ở Cực Lạc cảnh
duyên trang nghiêm thanh tịnh, thuần một mặt giúp thêm sự tăng tấn
cho đạo hạnh : (Bảy duyên lành dưới đây trích ở tập “Thập Nghi Luận”
của Trí Giả Đại sư).
1.- Thường được thấy Phật, được nguyện lực của
Phật nhiếp trì. Như ở trên tàu to, không bị sóng nhồi nước đắm,
2.- Quang minh của Phật thường chiếu đến
thân, làm cho Bồ-đề tâm tăng tấn. Như được ánh sáng mặt trời, khỏi
sa hầm sụp hố.
3.- Thường gần gũi Quan Thế Âm, Đại Thế
Chí, chư đại Bồ Tát, được Bồ Tát dắt dìu gia hộ, mọi
người ở quanh mình đều thuần là bậc thượng thiện không tà sư ác hữu.
Như gần đèn được sáng.
4.- Nước, chim, cây, lưới, gió, nhạc, quang
minh v.v... đều luôn diễn nói pháp mầu. Tai nghe tiếng pháp thời tâm
liền thanh tịnh.
5.- Đồ ăn thức uống, nước tắm rửa đều làm thêm lớn thiện
căn.
6.- Tâm ý trọn không kiến chấp vọng
duyên, không ác niệm phiền não, chánh niệm thường hiện
tiền.
7.- Thân thể lại là kim cương bất hoại.
Không già yếu, không tật bệnh, sống lâu vô lượng vô
biên a-tăng-kỳ kiếp. Không bị già bệnh làm trở ngại công phu. Khỏi phải vô
thường làm gián đoạn đạo hạnh.
Đủ các thắng duyên như trên thời có thể nào
thoái thất đạo tâm mà không quyết định thành Phật.
Như trong Kinh Di Đà nói : “Chúng sanh sanh về Cực
Lạc thế giới đều là bậc bất thoái chuyển”. Lại nói
: “Những người nguyện về Cực Lạc thế giới, đều được bất thoái
chuyển nơi đạo Vô thượng Bồ-đề”.
Trong Khởi Tín Luận có lời : “Người sanh về Cực Lạc vì
thường được thấy Phật, nên trọn không thoái chuyển”.
LỜI PHỤ. - Pháp môn Tịnh độ ngoài công hạnh chuyên niệm Phật rất trọng nơi “Tín” và “Nguyện”.
Rõ biết nhơn địa cùng quả địa của Đức Phật và hai vị Đại sĩ, đấng Cha lành cùng những bậc Thầy sáng suốt của ta sau này, ta đã nhận chắc rằng : Từ bi nguyện lực của các Ngài đương ôm trùm lấy ta, quang minh của các Ngài đương soi phủ lấy ta cùng tất cả những người niệm Phật, do đó lòng tin tưởng của ta sẽ nồng hậu sâu chắc.
Hiểu rành cảnh Cực Lạc vi diệu trang nghiêm là gia hương vĩnh viễn của ta sau này, biết rõ thân tâm của người Cực Lạc thanh tịnh siêu thoát, mà cũng sẽ là báo thân trường tồn của ta, do đó nguyện vọng của ta sẽ tha thiết mãnh liệt.
“Tín tâm” đã sâu, “chí nguyện” đã thiết, tất công hạnh của ta cũng tự chuyên cần. Như thế chín phẩm sen vàng ta đã nắm phần chắc trong tay rồi.
Huống nữa nếu ai được xem nghe y báo và chánh
báo ở Cực Lạc thế giới rồi thiết tha ham mộ muốn về, luôn luôn khắn nhớ rành rẽ nơi lòng không một giây xao lãng, tất sẽ được thành tựu quán hạnh. Hiện tiền được thấy cõi Tịnh Độ cùng Phật và Bồ Tát, lâm chung sẽ vãng sanh Thượng phẩm.
Vì có những lợi ích lớn như vậy, nên Đức Bổn Sư ta nhiều lần thuật đi nhắc lại trong các pháp hội như khi thuyết Kinh : Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Bảo Tích, Bi Hoa, Tiểu bổn Di Đà v.v... Đầy đủ nhứt là những pháp hội thuyết Quán Kinh và Vô Lượng Thọ Kinh.
Nơi các quyển sau của bộ “Đường về Cực Lạc” này, chúng ta sẽ được đọc những truyện tích của những người trước ta đã được các sự kết quả tốt đẹp như vừa kể ở trên.
Mong mọi người đều trân trọng chú tâm nơi các chương “Thân tướng”, “Quốc độ”.
Comments
Post a Comment