BỔN-THÂN NGÀI PHỔ-HIỀN BỒ-TÁT

 

77. nam mô rị da
______________________________

hóa thân phổ hiền biến tam thiên

Transforming and appearing as Universal Worthy who pervades all worlds.

già phu tòa thượng pháp vô biên

He is seated in full lotus and ready with boundless Dharmas.

bách bảo luân chưởng phá địa ngục

His hundred-jeweled, wheeled palm smashes the hells.

di đà Phật trụ 西tây thiên

Amitabha Buddha is the Venerable Host of the Western Paradise.


 

PHỔ HIỀN BỒ TÁT

 

 

(Theo kinh Bi Hoa, B Tát khi xưa là Thái T Vn Đ, con th tám ca Vua Luân Vương, thi đc Pht Bo Tng. Sau Khi Thái T đi trưc Pht phát đi nguyn, lin đưc đi tên là Ph Hin và đưc th ký v sau thành Pht hiu là Trí Cang Hu T Ti Tưng Vương thế gii Trí Thy Thin Tr Tnh Công Đc nơi phương Bc. Li theo Kinh Hoa Nghiêm, B Tát đã là v t ph ca Pht Tỳ Lô Giá Na mà còn dùng mưi đi nguyn vương khuyến dn hi chúng B Tát trong cõi Hoa Tng đng v Cc Lc. Chúng ta là k h phàm há chng phát nguyn làm theo ư?)

 

Kinh Hoa Nghiêm nói: “Khi Phổ Hiền Bồ Tát khen ngợi công đức thù thắng của Như Lai rồi, liền bảo các Bồ Tát và ngài Thiện Tài rằng: “Nếu muốn thành tựu công đức ấy, phải tu mười điều hạnh nguyện rộng lớn.

 

1.- Kính lễ chư Phật
2.- Khen ngợi Như Lai
3.- Rộng tu sự cúng dường
4.- Sám hối nghiệp chướng
5.- Tùy hỷ các công đức
6.- Thỉnh Phật chuyển pháp luân
7.- Thỉnh Phật trụ ở đời
8.- Thường theo Phật tu học
9.- Hằng thuận các chúng sanh
10.- Hồi hướng khắp tất cả.

 

Nếu có người nào dùng lòng tin sâu, thọ trì đọc tụng đại nguyện này, cho đến biên chép bốn câu kệ, sẽ được mau tiêu trừ tội ngũ vô gián. Khi người ấy lâm chung, trong khoảng sát na rốt sau, tất cả các căn thảy đều tan hoại, chỉ có đại nguyện này không rời bỏ nhau, liền được sanh về thế giới Cực Lạc”.

 

Kinh Như Lai Bất Tư Nghì Cảnh Giới nói: “Nếu có người vì cầu đạo vô thượng Bồ Ðề, ở trong một việc chuyên tâm tu tập, tất sẽ được thành tựu. Ví như có người uống một bụm nước ở biển cả, tức là đã uống tất cả nước sông trong cõi Diêm Phù Đề. Nếu Bồ Tát có thể tu tập môn Niệm Phật Bồ Ðề hải này, tức là đã tu tập tất cả tam muội, các nhẫn, các địa, các đà la ni”.



ĐẠI HẠNH PHỔ HIỀN BỒ TÁT


 

Giữa pháp hội Hoa Nghiêm, trước vi trần số đại Bồ Tát cùng chúng đại Thanh Văn và vô lượng nhơn, thiên, bát bộ, dưới sự chủ tọa chứng minh của Đức Bổn Sư Thế Tôn. Phổ Hiền Bồ Tát khi ca tụng công đức của Phật xong, ngài nói với đại chúng và Thiện Tài đồng tử rằng : “Này các Ngài ! Nếu người nào muốn thành tựu công đức của Phật, phải tu mười môn hạnh nguyện rộng lớn : một là “lễ kính chư Phật”, hai là “xưng tán Như Lai”, ba là “quảng tu cúng dường”, bốn là “sám hối nghiệp chướng”, năm là “tùy hỷ công đức”, sáu là “thỉnh chuyển pháp luân”, bảy là “thỉnh Phật trụ thế”. Tám là “thường tùy Phật học”, chín là “hằng thuận chúng sanh”, mười là “phổ giai hồi hướng”.

Nếu các vị Bồ Tát tùy thuận vào nơi mười đại nguyện này, thời có thể thành thục tất cả chúng sanh, thời có thể tùy thuận Vô thượng Chánh giác và có thể thành tựu hoàn mãn các hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát.

Hoặc lại có người thâm tín mười đại nguyện này, rồi thọ trì đọc tụng, nhẫn đến biên chép cùng giảng nói cho mọi người, người này sẽ được vãng sanh Cực Lạc. Đến giờ lâm chung căn thân đều hư hoại; thân thuộc, danh vị, quyền thế, tiền tài v.v... tất cả đều bỏ lìa, duy có đại nguyện này không rời người. Trong một sát na, nó dẫn đạo cho người sanh về Cực Lạc thế giới, liền được thấy Đức A Di Đà Phật, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Quán Tự Tại Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát v.v... Người ấy tự thấy mình sanh trong hoa sen báu, được Đức Phật thọ ký. Được thọ ký rồi, từ đó đến vô số trăm nghìn muôn ức na-do-tha kiếp, người dùng trí huệ tùy thuận tâm tánh của chúng sanh trong vô lượng vô số thế giới của mười phương mà làm cho được lợi ích. Không bao lâu người ấy sẽ ngồi đạo tràng Bồ-đề, hàng phục quân ma thành bậc Vô thượng Chánh giác, chuyển đại pháp luân, nhẫn đến làm lợi ích cho tất cả chúng sanh cùng tận thuở vị lai...

Kế đó ngài xướng kệ rằng :

 

Nguyện tôi đến lúc mạng sắp chết

Trừ hết tất cả những chướng ngại

Diện kiến Đức Phật A Di Đà

Liền được vãng sanh nước Cực Lạc

Tôi đã vãng sanh Cực Lạc rồi

Hiện tiền thành tựu đại nguyện này

Viên mãn tất cả không còn thừa

Lợi lạc hết thảy chúng sanh giới

Chúng hội của Phật đều thanh tịnh

Tôi liền thác sanh trong hoa sen

Nhìn thấy Như Lai Vô Lượng Quang

Hiện tiền thọ ký tôi thành Phật

Được đức Như Lai thọ ký rồi

Hóa vô số trăm câu chi thân

Trí lực rộng lớn khắp mười phương

Lợi khắp tất cả chúng sanh giới.

 

Và sau cùng, Phổ Hiền Bồ Tát kết thời thuyết pháp ấy bằng bài kệ hồi hướng công đức, nguyện cho mọi loài đồng về Cực Lạc.

 

Thắng hạnh Phổ Hiền của tôi đây

Thắng phước vô biên đều hồi hướng

Nguyện cho những chúng sanh trôi chìm

Mau sanh cõi Vô Lượng Quang Phật.

 

Bồ Tát dứt lời Đức Bổn Sư liền khen rằng : “Thiện tai ! Thiện tai !”

 

Trích Hoa Nghiêm Kinh Hạnh Nguyện phẩm.

 

LI PH. – Pháp hi Hoa Nghiêm, mt pháp hi ln nht và viên mãn nht trong mt đng thế ca Đc Bn Sư. Ph Hin, v đi B Tát thưng th ca pháp hi này. Chúng hi là nhng bc Đi tha viên giáo, tr bt tư ngh gii thoát cnh gii.

Đc Ph Hin t nguyn, và dn đo toàn th chúng hi đng nguyn cùng v Cc Lc thế gii đ mau viên mãn phưc hu, chóng chng qu Vô thưng B, và ch có cu cánh Pht qu mi đ sanh đưc viên mãn rt ráo.

Do đây thy rng, Cc Lc thế gii là mt đi hc đưng bo đm mau thành Pht, nên chư v đi B Tát mi đng nguyn cùng v như vy.

 

 

ĐỨC PHỔ HIỀN DẠY TU NIỆM PHẬT TAM MUỘI

 

Thuật theo Kinh :

“Như Lai Bất Tư Nghị Cảnh Giới”

 

... Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nhập vào chánh định “Như Lai bất tư nghị cảnh giới”. Phổ Hiền Bồ Tát nói với Đức Tạng Bồ Tát rằng : “Nếu ai phát Bồ-đề tâm muốn chứng chánh định này, trước phải tu trí huệ. Vì chánh định này do trí huệ mà đặng.

Đây là tu trí huệ : Phải xa lìa vọng ngôn ỷ ngữ và những sự tán loạn vô ích. Rồi đến Phật điện, xem tượng Phật thuần vàng, hay tượng Phật thếp vàng, đủ các tướng tốt cùng viên quang hóa Phật. Liền cúi đầu đảnh lễ mà suy nghĩ như vầy : “Tôi nghe Đức A Di Đà hiện tại đương thuyết pháp ở Tây phương Cực Lạc thế giới”. Rồi lòng tôn kính tin mến, tưởng hình tượng ấy là thân thiệt của Đức Phật. Hết lòng kính ngưỡng như Đức Phật hiện đến. Rồi nhứt tâm nhìn kỹ từ trên đảnh tướng đến dưới bàn chân.

Nhìn xong, đi qua chỗ vắng vẻ ngồi ngay thẳng, quán tưởng Đức Phật hiện ra cao lớn chừng một tay. Trong tâm phải khắn nhớ luôn chớ để quên mất. Nếu tạm quên, thời đến Phật điện mà chăm nhìn lại. Lúc nhìn xem như
vậy, lòng phải hết sức cung kính như đối Phật thiệt, không để có quan niệm là hình tượng.


Rồi sắm hoa đẹp, hương thơm dâng cúng. Nhứt tâm tưởng là Đức Phật ở trước mình. Và nghĩ rằng : Đức Phật Thế Tôn là bậc Nhứt thiết trí, ngài thấy tất cả, nghe tất cả, chắc ngài biết rõ tâm mình.

Khi quán tưởng thành, liền trở về chỗ vắng, ngồi tưởng nhớ mãi không quên. Nhứt tâm siêng tu đủ 21 ngày, nếu là người phước đức thời bèn thấy Đức Như Lai hiện ra.

Hoặc là người đời trước có gây tạo ác nghiệp mà chẳng đặng thấy Phật nếu có thể chuyên cần tu tập không thoái tâm và không móng tưởng việc khác, thời rồi lại mau được thấy Phật.

Vì rằng nếu ai cầu Vô thượng Bồ-đề mà chuyên tu một pháp thời đều thành tựu cả. Như người uống một ngụm nước biển, tức là đã được nếm nước của tất cả con sông trong đại địa. Bồ Tát nếu có thể tu tập pháp môn này, thời là đã tu tất cả Tam muội, các nhẫn, các địa, các môn đà-la-ni. Vì thế, phải nên thường siêng tu tập, chớ có biếng trễ, chớ nên phóng dật, nhứt tâm tưởng niệm cho được hiện tiền thấy Phật.

Lúc được thấy Phật, lại nên nhận biết là tâm tưởng sanh, là duy tâm hiện, bình đẳng không sai khác. Tâm mình làm tâm Phật, rời tâm không Phật. Nhẫn đến thập phương chư Phật cũng vậy, đều chỉ y tự tâm. Bồ Tát nếu có thể thấu rõ chư Phật và tất cả pháp đều là duy tâm, thời đặng chứng tùy thuận nhẫn hoặc nhập sơ địa. Lúc lâm chung được sanh về Cực Lạc Tịnh Độ, thường được thấy Phật, gần Phật, nghe pháp và cúng dường Phật.

 

LI PH. – Pháp môn nim Pht có bn :

1.- Tht tưng nim Pht;

2.- Quán tưng nim Pht;

3.- Quán tưng nim Pht;

4.- Trì danh nim Pht.

 

Mt môn Tht tưng nim Pht thuc v lý nim. Ba môn dưi thuc v s nim gm c lý nim.

Bài trên, Ph Hin B Tát dy quán tưng trưc, kế tưng nim. Và sau cùng, khi quán hnh đã thành, tn nim tht tưng, tc là duy tâm bình đng. Đây là trưc thành tu s Tam mui, sau chng lý nim Pht Tam mui.

Tiu Bn Kinh, Đc Bn Sư dy môn Trì danh nim Pht. Chp trì danh hiu đến nht tâm bt lon là đưc s nim Pht Tam mui, đt “nim tc vô nim” là chng lý Tam mui. Kết qu đng bc vi môn quán hnh trên. Nhưng nơi dng công tu tp thi môn trì danh có phn gin tin hơn. “Gin”, là vì hng danh có sáu ch hay bn ch d nh rõ không phi nhiu như các tưng ho khó nh. “Tin” là vì có th đưc nghe hng danh bt c ch nào và lúc nào, không phi c nơi Pht đin
và ph
i tht sáng như quán tưng. V li trì danh, nim thm cũng đưc, nim ra tiếng cũng đưc. Nh nim ra tiếng, nên có th thc hành  nơn ào. Ch quán tưng quyết phi nơi vng lng.

Vì các l trên, nên môn quán hnh phi là bc thưng trí mi chc thành tu. Còn môn trì danh có th thích hp vi tt c mi hng ngưi, và bt c ai, nếu chuyên tâm thiết thit thc hành đu thành tu đưc c. Chúng ta s đưc thy s chng nghim trong nhng tiu s ca các nhà nim Ph quyn sau.

Như li B Tát dy : “Nếu ai cu Vô thưng B, mà chuyên tu mt pháp thi đu thành tu c”. Thế là vì mun thành Pht đ đ sanh mà chuyên nim Pht vy.

Nếu ta mun thành công nơi Pháp môn nim Pht, nghĩa là mun chng Tam mui vãng sanh Cc Lc, tt phi tuân theo li dy ca B Tát :  

 

1.- “Lp chí cu thành Pht”

2.- “Chuyên cn tu nim Pht”.




53.- PH HIN ĐI B TÁT

 

dy THIN TÀI v “HNH-NGUYN”

đ thành tu hnh PH-HIN và NHP PHÁP GII được viên mãn.

 


Diễn Giảng

PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI


Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng


 

Ngày 12 tháng 5 năm 1991


KINH: Thiện Tài muốn thấy Phổ Hiền Bồ Tát…

GIẢNG: Cũng như chúng ta muốn thấy đức A Di Đà vậy, tất cả vấn đề là ở chỗ đó, là khởi tâm muốn thấy. Mà khi thấy được đức A Di Đà là con đường đi của chúng ta gần như xong, không còn gì phải lo lắng cả. Vì khi thấy được đức A Di Đà là đương nhiên chúng ta được sang Cực Lạc. Mà khi sang được bên ấy thì chúng ta sẽ có những tam muội, các định và có năm thứ thần thông, thân thì có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, được đắc vô sanh nhẫn và lần tu lên nữa để đi đến quả Phật.

Con đường tu của chúng ta ở cõi Ta Bà này bập bềnh lên xuống, có thể thời gian này tinh tấn, qua một thời gian khác lại thối thất, giải đãi. Nhưng nếu được vãng sanh thì không còn bao giờ thối thất cả, đến khi đắc được vô sanh pháp nhẫn thì không còn lo lắng nữa, đủ chứng tỏ con đường tịnh độ thù thắng đến thế nào. Ngay cả những vị đã đắc A La Hán rồi cũng còn thối thất, vì các ngài tu một thời gian thấy đường tu chông gai, cần khổ, khó khăn quá, chúng sanh lại bời bời, biết đến bao giờ mới độ cho hết, nên có thể thối chí, mà chỉ muốn đắm mình vào nhưng cơn định trầm không thú tịch mà không muốn khởi đại bi tâm.


HỎI: Xin ông dạy cho phương pháp niệm thế nào cho… chóng được việc để qua được Cực Lạc?

ĐÁP: Thành thực mà nói, tôi không dám dạy cách niệm Phật sao cho có hiệu quả, vì mỗi người mỗi căn cơ khác nhau, nên cách niệm cũng có khác đôi chút. Nhưng với những vị căn cơ cao, đạo hạnh nhiều, tu hành giỏi, thường họ chỉ rằng, khi niệm cần phải đều đặn và nhất tâm, khi niệm Phật đừng nghĩ điều gì khắc hết, làm thế nào để câu niệm Phật sáng tỏ mãi trong tâm chúng ta, vừa rõ ràng, vừa ý thức rằng mình đang niệm, đến khi nhất tâm bất loạn, không có gì ngoại cảnh có thể lay động được. Người xưa, có nhiều vị làm quan tài để giữa nhà, khi niệm Phật thì chui vào đó, và coi như mình đã chết rồi thì mới dễ nhất tâm được. Nhưng đến mức độ này rất khó, ở đời mạt pháp này, tôi trộm nghĩ ít ai có thể làm được.

Tôi cứ hoài vọng muốn nói về chín phẩm sen bên Cực Lạc cho quí vị thấy rất hay và rất lạ, để biết rằng pháp môn Tịnh Độ là một pháp môn tối thắng, không thể nào bịa đặt ra được. Những người nào không tin đều là người chưa đủ căn cơ, vì tôi vẫn nói, tuy trong ban kinh này, có vài vị không đọc kinh nhưng tin vào pháp môn Tịnh Độ thì người đó căn cơ đã sâu rồi, vì pháp môn này khó tin lắm! Lấy một thí dụ điển hình, bên Cực Lạc, người được hóa sanh từ hoa sen, chúng ta chưa thấy ai sanh từ một loài hoa ra cả, chỉ thấy người sanh ra người, thú sanh ra thú thôi, nên rất khó tin.


HỎI: Trong các kinh có một số người nói rằng, có một số kinh liễu nghĩa, (như kinh của Phật giáo nguyên thủy) có thể tin được, và một số kinh bất liễu nghĩa (như những pho kinh Đại thừa) không thể tin được mà chỉ toàn là chuyện mê tín dị đoan? Vì vậy, họ không chịu đọc tụng kinh điển bất liễu nghĩa ấy. Theo ông, ông nghĩ sao về điều này?

ĐÁP: Như vậy họ chưa hiểu thế nào là liễu nghĩa, và bất liễu nghĩa. Kinh liễu nghĩa là những kinh nói đến cỗi nguồn là Diệu Tâm (đại thừa), còn những kinh bất liễu nghĩa là những kinh của Thanh Văn (của hàng Nhị thừa), vì kinh của Tiểu Thừa không nói tới cỗi nguồn của pháp giới, và chỉ đưa người tu đến Niết Bàn hóa thành thôi, chưa thể nhập được pháp giới trọn vẹn. Chưa chứng được trí của Phật, chưa phân thân bời bời vô lượng, trụ vô số kiếp để độ sanh. Còn chuyện tin được hay không tin được kinh Đại Thừa lại phải tùy vào căn cơ của người nghe nữa. Trong Công Giáo có nói một câu cũng rất lý thú: “Sung sướng thay cho những người nào không thấy mà tin.” Khi thấy rồi thì tin rất dễ, nhưng chúng ta không trông thấy pháp giới, không nhìn thấy chư Thiên, quỉ thần, chư Phật, chư Đại Bồ Tát mà tin được thì đó là điều hy hữu hiếm có. Nên phải hiểu lòng tin cần phải nuôi nhiều kiếp mới có thể nở ra như vậy.

Thực tâm tôi, tôi muốn bỏ ra một vài buổi giảng để giảng kỹ cho quí vị nghe về Tịnh Độ, vì đó là điều quan yếu cho ta ở thời mạt pháp này. Tôi cố thể trích dẫn những câu kinh khuyến tấn chúng sanh cầu sanh về Tịnh Độ. Không có người nào tu hành muốn đắc vô sanh pháp nhẫn mà không phải đi qua Tịnh Độ, dù người tu thiền. Vì ở cõi uế độ này, tu thiền giỏi lắm là chỉ ở các mức độ dưới thôi, khi nào lên đến Viễn Hành Địa, địa thứ bảy, Viễn hành tức là đi xa, đi đâu? Là qua Tịnh Độ để ở gần Phật đắc vô sanh pháp nhẫn rồi mới trở lại cõi này để độ sanh. Dụ như người muốn cứu một kẻ chết đuối phải đi học bơi đã, rồi trở về mới làm được hạnh cứu người, người thường không ai có thể qua được mức Viễn hành địa cả, trừ phi phải sang Cực Lạc (trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thập địa nói rõ thế!).

Ngay đến những vị A La Hán, tiêu dung được những kiết sử của tam độc, lúc bấy giờ không thọ sanh trong ba cõi thôi, nên tạm gọi là vào Niết Bàn, nhưng cái vào Niết Bàn ấy chỉ là hóa thành. Lúc bấy giờ, chư Phật sẽ như những con chim Kim Súy Điểu bay tới, xòe cánh dơ vuốt gắp các ngài mang sang Tịnh Độ. Nhưng vì các ngài chưa có tâm tin Tịnh Độ nên phải ngồi trong hoa sen ở Biên Địa, rồi trong suốt nhiều kiếp, chư Phật soi hào quang vào đó để đánh thức tuệ giác vô thượng, (vì các ngài chưa biết cầu thành Phật), cho đến khi chín mùi, lúc đó tâm thức các ngài mới khởi tâm bước sang bồ tát đạo đi nốt con đường còn lại để thành Phật, nhập pháp giới trọn vẹn, tức là vào Niết Bàn thường, lạc, ngã, tịnh của Chư Phật.


KINH: Thiện Tài muốn thấy Phổ Hiền Bồ Tát, liền ở trước tòa sư tử của Tỳ Lô Giá Na Như Lai nơi Kim Cang Tạng Bồ Đề Tràng, trên tòa bửu liên hoa tạng phát tâm rộng lớn như hư không giới…

GIẢNG: Khi Thiện Tài muốn đi tìm ngài Phổ Hiền Bồ Tát thì phải trở về chỗ cũ bồ đề đạo tràng, trở về chỗ đức Như Lai ngồi, tức là phải trở về tâm của mình.


KINH: khởi tâm vô ngại bỏ tất cả cõi, rời tất cả chấp…

GIẢNG: Thiện Tài muốn thấy một vị Bồ Tát lớn thì phải mở tâm rộng lớn như hư không giới vậy, vì chính Bồ Tát lớn là… hư không, vì khi mở tâm lớn phải bỏ tất cả các cõi, rời tất cả các chấp (bát nhã), ý niệm nào cũng phải rời bỏ cả.


KINH: Tâm vô ngại đi trong tất cả pháp vô ngại. Tâm vô ngại vào khắp tất cả thập phương. Tâm thanh tịnh vào cảnh giới của nhất thiết trí…

GIẢNG: Đây là nói tâm phải mở rộng lớn như hư không mà đi vào không hải. Nhưng sau đây lại nói đi vào diệu hữu…


KINH: Tâm minh liễu quán sát đạo tràng trang nghiêm. Tâm quảng đại nhập tất cả Phật pháp hải. Tâm châu biến hóa độ tất cả chúng sanh giới. Tâm vô lượng tịnh tất cả Phật độ. Tâm vô tận trụ tất cả kiếp. Tâm cứu cánh xu hướng Như Lai thập lực…

GIẢNG: Trên ngài nói đi vào hư không giới, dưới này ngài nói đi vào tất cả các pháp. Tuy rằng đi vào hư không nhưng đồng thời vẫn phải có cái tâm minh liễu quán sát đạo tràng trang nghiêm, tâm quảng đại nhập tất cả phật pháp hải, tâm châu biến, đi khắp tất cả mọi chỗ để hóa độ tất cả chúng sanh giới. Vì ngài Phổ Hiền tượng trưng cho Chân không, Diệu hữu. Khi ta nhập được vào tâm đó rồi thì tức khắc ngài hiện ra cho chúng ta thấy ngay, tức là phải có tâm tương ưng, là tâm có tín, nguyện, hạnh.

Nên khi Thiện Tài khát mong muốn thấy Phổ Hiền Bồ Tát thì phải làm tâm mình lặn sâu xuống đến tột không, đồng thời khởi lên tất cả cảnh giới của diệu hữu.


KINH: Lúc Thiện Tài phát khởi những tâm như vậy, do sức thiện căn của mình, được sức gia hộ của tất cả Như Lai, do sức đồng thiện căn của Phổ Hiền Bồ Tát…

GIẢNG: Khi Thiện Tài càng cố gắng lặn sâu vào tam muội để trở về biển diệu tâm đó thì chư Phật đều hộ trì, đồng thời tâm thức ngày càng tương ưng với thiện căn của ngài Phổ Hiền. Nên phải hiểu tất cả vấn đề chỉ ở chỗ tương ưng. Cũng như khi tâm ta chỉ tương ưng với loài quỉ, hay loài chồn, hồ ly thì tụi nó lại hiện ra, khi tương ưng với loài người thì loài người hiện ra. Ở đây, chúng ta tương ưng với loài người nên chung quanh nhìn thấy toàn là người cả, loài quỉ cũng ít hiện ra cho chúng ta thấy, còn thần linh thì không bao giờ hiện cả, vì tâm các ngài bao la hơn, mà tâm chúng ta chỉ có nửa thiện, nửa ác lăng nhăng của loài người, không có gì gọi là siêu xuất cả, nên chỉ chơi với người, rồi sau sanh kiến chấp chỉ có người thôi, mà không có những chúng sanh khác. Vì vậy, nên chúng ta không biết rằng có những người ngồi tu trong rừng sâu, có thể nói chuyện với thú dữ, chim nuông, cỏ hoa, ngay cả với thần linh, và đó là những vị có tâm thức cao.

Sức “tưởng” rất lớn mạnh, tỷ dụ như một người trong nhiều kiếp hay sợ ma, có cơ duyên cũ với nó, khi thời tiết chín mùi thì túc duyên cũ hiện lên, nếu đó là những nợ cũ thì nó thanh toán đòi nợ. Như ngài Miralepa sức tưởng của ngài rất mạnh, ngài có thần thông nhiều, một hôm đến một khu núi hẻo lánh, ngài chỉ nghĩ bụng rằng, ở đây phải có quỷ khoáng dã. Thì lập tức quỷ khoáng dã hiện ra ngay, nó đứng co ro trước mặt ngài mãi, cuối cùng ngài nói: “Sao ngươi không đi đi?” “Con không thể đi được vì sức tưởng của ngài lớn quá, như có sợi dây trói con lại làm con không ẩn thân nổi.” Tất cả đạo Phật thường dạy chúng ta về chữ tưởng, tưởng cái gì thì nó ra cái đó, tưởng lâu dần, có định lực, và cái lực đó nó có thể làm hiện lên những cảnh giới. Tưởng uế độ thì vào uế độ, tưởng vãng sanh Cực Lạc thì được sang Cực Lạc. Nên tất cả thế gian này đều là do mộng tưởng. Như ta lấy một người vợ đó là vì từ nhiều kiếp ta có những cơ duyên cũ, hoặc nuôi cái mộng tưởng ấy. Như trong kinh Phật cũng kể một vài trường hợp như ngài A Nan và bà Ma Đăng Già, cơ duyên nhiều kiếp, mộng tưởng nhiều kiếp đến kiếp này mới nở ra như thế. Một trường hợp khác như ngài Mê Già và vị nữ nhân cho hoa trong Kinh Đại Bửu Tích, không phải khơi khơi ngài gặp vị nữ nhân ấy đâu, mà do từ nhiều kiếp huân tập, đến kiếp đó nở ra nên vị nữ nhân ấy mới cho hoa đi cúng Phật.


KINH: Do sức đồng thiện căn của Phổ Hiền Bồ Tát…

GIẢNG: Trong kinh Pháp Hoa, ngài Phổ Hiền nói người nào tụng danh hiệu của ta và quán tưởng đến ta thì ta sẽ hiện thân trước người ấy. Hiện ra dưới hình thức voi sáu ngà, và tùy theo nguyện của người đó để giúp và độ cho họ. Tất cả điều này đều là những luật tắc tác động và phản tác động, nhưng tâm thức chúng ta chưa tới mức độ đó.


KINH: Nên Thiện Tài thấy mười thứ thoại tướng, như là…

GIẢNG: Khi Thiện Tài quán để được thấy ngài Phổ Hiền Bồ Tát thì lúc đó hiện lên mười thoại tướng…


KINH: Thấy tất cả phật độ thanh tịnh, tất cả Như Lai thành Đẳng Chánh Giác. Thấy tất cả phật độ thanh tịnh không ác đạo. Thấy tất cả phật độ thanh tịnh nghiêm sức với những diệu liên hoa. Thấy tất cả phật độ thanh tịnh, tất cả chúng sanh thân tâm thanh tịnh. Thấy tất cả phật độ thanh tịnh, trang nghiêm với những châu bửu. Thấy tất cả phật độ thanh tịnh, tất cả chúng sanh tướng tốt trang nghiêm thân…

GIẢNG: Khi Thiện Tài quán lâu đến một mức độ thì tâm rơi vào biển không hư, thấy tất cả những quốc độ đều chỉ là hư không, vì đều là hóa hiện, như thấy phật sát thanh tịnh không có gì vẩn đục.


KINH: …(Bỏ một đoạn)… Thiện Tài lại thấy mười tướng quang minh như là: Thấy bao nhiêu vi trần của tất cả thế giới, trong mỗi mỗi vi trần xuất sanh tất cả thế giới vi trần số phật sát quang minh võng vân chiếu sáng khắp nơi.

GIẢNG: Những quang minh ấy biến hiện. “Quang minh võng vân” là mây lưới sáng hiện lên bời bời, trông chỗ nào cũng như lưới quang minh, trùng trùng lớp lớp.


KINH: Trong mỗi mỗi vi trần xuất sanh tất cả thế giới vi trần số Phật quang minh luân vân nhiều thứ sắc tướng cùng khắp pháp giới.

GIẢNG: “Luân vân” là những đám mây xoay tròn.

Tôi đã giảng nhiều lần ở đây về sự xoáy trôn ốc của pháp giới này, hôm nay tôi xin nhắc lại. Tất cả những chuyển động trong pháp giới này có thể xoay theo hai chiều, một là hữu nhiễu (hiện tướng), hai là tả nhiễu, (rơi chìm vào biển chân không). Như cái hố thẳm đen (black hole), các nhà khoa học chưa hiểu rõ ràng về nó, chỉ biết các vật chung quanh nó bị hút vào đấy và mất tích luôn, không có một vật gì có thể cưỡng lại được với sức hút của nó. Nhưng nếu dựa theo kinh, tôi thiển nghĩ rằng đó là những cái hố hay nút xoáy không luân cuốn hút vật chất tiêu chìm trở về hư không, và chắc là nó xoay theo lối tả nhiễu. Nên trong kinh luôn luôn dùng chữ “luân,” là những cơn lốc xoáy tròn, mà không có gì đi thẳng cả. Đường thẳng là một ảo tưởng của tâm thức, mà tất cả phải xoáy tròn, như chúng ta vẫn xoáy tròn liên tục mà không hề hay biết.

Trở lại đoạn kinh trên, Thiện Tài thấy những màng lưới kết lại, trong màng lưới có những đám mây sáng xoáy tròn.


KINH: Trong mỗi vi trần xuất sanh tất cả thế giới vi trần số Phật sắc tượng bửu vân cùng khắp pháp giới.

GIẢNG: Khi đám mây xoáy tròn lâu thì những đám mây trân bửu ấy hiện lên sắc thân Phật cùng khắp pháp giới.


KINH: Trong mỗi mỗi vi trần xuất sanh tất cả thế giới vi trần số phật quang diệm luân vân cùng khắp pháp giới.

GIẢNG: Cũng là những đám mây xoay tròn để hiện tướng.


KINH: Trong mỗi mỗi vi trần xuất sanh tất cả thế giới vi trần số những diệu hương vân cùng khắp mười phương khen ngợi tất cả hạnh nguyện đại công đức hải của Phổ Hiền.

GIẢNG: Câu này chúng ta phải hiểu rằng những đám mây xoay vần rồi phát ra những mùi hương rất thơm, đồng thời mùi hương đó phát ra những âm thanh ca ngợi tất cả những hạnh nguyện cùng biển công đức của ngài Phổ Hiền. Cũng như trong kinh Lăng Nghiêm nói trong tiếng động phát ra quang minh, quang minh hiện thành sắc tướng, sắc tướng thành ra mùi hương, dần dần hiện tướng như thế, thì ở đây là những lưới quang minh xoay tròn, đầu tiên hiện những sắc tướng Phật, rồi hiện ra những hương vân, sau đó phát ra âm thanh.


KINH: Trong mỗi mỗi vi trần xuất sanh tất cả thế giới vi trần số nhựt nguyệt tinh tú vân, đều phóng quang minh của Phổ Hiền Bồ Tát chiếu khắp pháp giới.

GIẢNG: Kinh tả dần dần hiện tướng ngày càng rõ rệt, vì trong những quang minh vân ấy bắt đầu hiện lên các mặt trời, mặt trăng, tinh tú. Như vậy là một hoa tạng thế giới bắt đầu xuất hiện trước mắt Thiện Tài, có nghĩa rằng, Thiện Tài đang trôi dần vào biển pháp giới, để có thể nhập pháp giới trọn vẹn.


KINH: Trong mỗi mỗi vi trần xuât sanh tất cả thế giới vi trần số tất cả chúng sanh thân sắc tượng vân phóng phật quang minh chiếu khắp pháp giới.

GIẢNG: Trên kia nói thành tựu thế gian tức là “Khí thế giới,” tạm gọi là vô tình, như thấy nhật, nguyệt, tinh tú v.v… Còn đây là nói đến những loài hữu tình, các chúng sanh. Mà tất cả đều do những đám mây quang minh tạo thành. Vì vậy tôi vẫn thường nói rằng, giáo lý nhà Phật là giáo lý của những quang minh và diệu âm, của những bông hoa tạng thế giới lúc nở ra, rồi cụp lại. Mà nếu chúng ta cứ suy tư lâu ngày rồi thấm và tin chắc chắn, thì đức A Di Đà thế nào cũng phải cứu độ chúng ta.


KINH: Trong mỗi mỗi vi trần xuất sanh tất cả thế giới vi trần số Bồ Tát thân sắc tượng vân.

GIẢNG: Trên kia là Phật sắc tượng, lúc đầu còn là những lưới mây xoay tròn, dần dần hiện mùi hương, sắc, âm thanh, rồi đến nhật nguyệt, tinh tú, rồi đến những chúng sanh hữu tình, rồi đến các Phật sắc tướng, rồi đến đây là hiện thân các vị Bồ Tát sắc tướng. Như vậy, trước mắt Thiện Tài pháp giới bắt đầu xuất hiện lại tuần tự rất rõ. Đó là bước thứ hai, nay chúng ta qua bước thứ ba…


KINH: Thiện Tài thấy mười thứ quang minh này rồi, nghĩ rằng nay tôi sẽ được thấy Phổ Hiền Bồ Tát thêm lớn thiện căn.

GIẢNG: Chúng ta nên biết rằng, khi gặp một vị có đạo hạnh cao, chỉ cần nhìn thấy ngài thôi là thiện căn của ta tự dưng tăng trựởng, còn nếu khởi tâm cung kính cúng dường vị đó thì thiện căn càng thêm lớn. Vì vậy, những người tu học ngày xưa, chỉ cần gặp Phật là đắc quả, bởi vì thiện căn của họ đã chín nên chỉ thêm một giọt nước là tràn ly.


HỎI: Còn gặp vị Lạt Ma bên Tây Tạng thì sao?

ĐÁP: Tôi cũng không biết chắc ngài đến bực nào, nhưng dân Tây Tạng coi vị Đạt Ma là một hóa thân của đức Quán Thế Ảm Bồ Tát. Nhưng cũng phải còn tùy thiện căn của người gặp nữa, nếu ta không có thiện căn, tâm không tương ưng, thì dù có gặp cũng không cảm thấy gì, ngược lại, nếu tâm thức của người gặp đã chín thì lại khác.


KINH: Thiện Tài thấy mười thứ quang minh nầy rồi, nghĩ rằng: Nay tôi sẽ được thấy Phổ Hiền Bồ Tát thêm lớn thiện căn. Thấy tất cả Phật, nơi tất cả Bồ Tát sanh tri giải quyết định, được nhất thiết trí.

Thiện Tài nhiếp khắp thiện căn, nhứt tâm cầu thấy Phổ Hiền Bồ Tát, khởi đại tinh tấn tâm không thối chuyển, liền dùng phổ nhãn quán sát mười phương tất cả chư Phật và chúng Bồ Tát. Bao nhiêu cảnh giới đã thấy đều tưởng là được thây Phổ Hiền Bồ Tát.

GIẢNG: Thiện Tài tập trung tâm thức, nhất tâm quán chiếu nên thấy cảnh giới nào Thiện Tài cũng tưởng như thấy ngài Phổ Hiền vậy. Cũng vậy, khi chúng ta tập quán đức A Di Đà, thì đi đến đâu, bất cứ thấy cảnh giới nào cũng đều tưởng nhớ đến ngài, dù là trên xe bus, hay ngoài phố cũng đều thấy đức A Di Đà, thì lúc đó thế nào Phật A Di Đà cũng sẽ hiện lên cho chúng ta thấy. Trong kinh Hoa Nghiêm, có một đoạn ngài Văn Thù dạy rằng, “Muốn tìm cầu thiện trí thức phải dũng mãnh tự tại du hành tất cả các nơi, tìm cầu vị thiện tri thức, thứ hai là gặp cảnh giới nào cũng phải quán chiếu là thấy vị thiện tri thức, thứ ba là phải coi thân mình như mộng, như huyễn.” Giữ được tâm như thế thì lúc đó ta đã đến một mức quyết định khá kiên cố rồi.


KINH: Dùng trí huệ nhân quán sát Phổ Hiền đạo, tâm quảng đại dường như hư không, đại bi kiên cố như Kim Cang. Nguyện tận vị lai thường được theo Phổ Hiền hạnh, thành tựu trí huệ, nhập Như Lai cảnh, trụ Phổ Hiền địa. Bấy giờ Thiện Tài đồng tử liền thấy Phổ Hiền Bồ Tát ở trong chúng hội trước đức Như Lai…

GIẢNG: Trước thì thấy tất cả pháp giới hào quang chập chùng lần lượt hiện tướng như thế nào, bây giờ mới thấy ngài Phổ Hiền, vì tất cả những thân vân, mùi hương, lưới chập chùng của quang minh v.v… đều là thân y báo ngài Phồ Hiền, sau cùng mới đến chánh báo của ngài.


KINH: Bấy giờ Thiện Tài đồng tử liền thấy Phổ Hiền Bồ Tát ở trong chúng hội trước đức Như Lai, ngồi tòa sư tử Bửu Liên Hoa, chúng Bồ Tát vây quanh rất là tôn nghiêm, thế gian không sánh được, cảnh giới trí huệ vô lượng vô biên khó lường khó nghĩ, đồng tam thế Phật, tất cả Bồ Tát không quán sát được.

GIẢNG: Thiện Tài nhìn thấy tất cả pháp giới chính là thân không thân của ngài Phổ Hiền, và đến giờ phút này mới được nhìn rõ báo thân của ngài ngồi ngay trong Bồ Đề Đạo Tràng. Tức là từ trước Thiện Tài nhìn tất cả pháp giới rộng lớn, bây giờ thu lại thành một báo thân thị hiện ngồi đạo tràng ấy, có nghĩa là nhìn từ một cái thật lớn nay thu nhỏ lại thành một báo thân. Và bây giờ, Thiện Tài nhìn Thấy trong lỗ chân lông của ngài lại nở lớn ra cả trăm ngàn thế giới. Có nghĩa là cái lớn, nhỏ tự tại vô ngại dung thông với nhau.


KINH: Thấy thân Phổ Hiền mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả thế giới vi trần số quang minh vân, khắp pháp giới tất cả chúng sanh khổ hoạn, khiến các Bồ Tát sanh đại hoan hỷ. Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật sát vi trần số những sắc hương diệm vân, khắp pháp giới hư không giới tất cả chư Phật chúng hội đạo tràng để huân tập tất cả. Thấy mỗí mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật sát vi trần số tạp hoa vân, khắp pháp giới hư không giới tất cả chư Phật chúng hội đạo tràng mưa những diệu hoa. Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật sát vi trần số hương thọ vân, khắp pháp giới hư không giới tất cả chư Phật chúng hội đạo tràng mưa những diệu hương. Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả Phật sát vi trần số diệu y vân, khắp pháp giới hư không giới chư Phật chúng hội đạo tràng mưa những diệu y…

GIẢNG: Thiện Tài nhìn từ một khía cạnh hết sức bao quát cả một thế giới rồi dần dần thu nhỏ lại nhìn thấy báo thân của ngài Phổ Hiền sau đó lại thấy trong tất cả lỗ chân lông của ngài lại nở ra trùm tất cả pháp giới. Tức là từ lớn thu vào nhỏ, từ nhỏ nở ra lớn như một bông hoa, lúc nở ra bao trùm pháp giới, lúc thu lại trong một lỗ lông, ở đây, Thiện Tài thấy các lỗ lông của ngài Phổ Hiền xuất sanh tất cả các sắc hương diệu vân, sau đó xuất sanh các tạp hoa vân, mưa những diệu hoa, rồi xuất sanh tất cả những vi trần số hương thọ vân (mùi hương từ những áng mây), rồi diệu y vân (áo bằng mây vi diệu)…


KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật sát vi trần số bửu thọ vân, khắp pháp giới hư không giới tất cả chư Phật chúng hội đạo tràng ma ni bửu. Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật sát vi trần số sắc giới thiên thân vân sung mãn pháp giới khen ngợi bồ đề tâm.

GIẢNG: “Thiên thân vân” là những áng mây trong đó cuộn lại thành hình chư Thiên. Các chư thiên hiện ra khen ngợi bồ đề tâm.


KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật sát vi trần số Phạm Thiên thân vân, khuyến thỉnh chư Như Lai chuyển diệu pháp luân.

GIẢNG: Trong những lỗ lông ấy xuất sanh các vị Phạm Thiên, là những vị vua trời coi tầng trời sơ thiền. Các vị vua trời ấy đều khuyến thĩnh chư Như Lai chuyển diệu pháp luân.


KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật sát vi trần số dục giới thiên vương thân vân, hộ trì pháp luân của tất cả Như Lai.

GIẢNG: Vì vậy, tôi hay thường nhắc rằng, có các vị Thiên Vương hộ pháp mà chỗ nào có người đọc tụng kinh và thành khẩn, giới hạnh tinh nghiêm thì các vị cũng đến nghe và hộ trì cho.


KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ lông trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật sát vi trần số tam thế phật sát vân…

GIẢNG: “Phật sát vân” là những đám mây sinh ra những cõi Phật, như cõi Ta Bà chúng ta chẳng hạn, trong đây là những đám mây xoay tròn hiện lên thế giới này.


KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ lông trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật sát vi trần số tịnh, bất tịnh phật sát vân…

GIẢNG: Tức là có những đám mây hiện rất nhiều cõi, từ những cõi tịnh đến những cõi bất tịnh.


KINH: Khắp pháp giới hư không giới khiến tạp nhiễm chúng sanh đều được thanh tịnh.

GIẢNG: “Tạp nhiễm chúng sanh” chính là chúng ta, nên các ngài phải tạo ra những cõi tịnh và bất tịnh để dạy chúng ta đi từ cõi bất tịnh (tạp nhiễm) sang đến cõi tịnh. Trong kinh không có lúc nào không nhắc nhở chúng ta nhớ đến Tịnh Độ, nếu chúng ta không tin thì đó là cô phụ chính chúng ta vậy.



Diễn Giảng

PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI


Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng

 

 

Ngày 26 tháng 5 năm 1991

 

Hôm nay là buổi thuyết giảng thứ một trăm hai mươi tám về kinh Hoa Nghiêm và cũng là buổi thuyết giảng thứ mười lăm về Đại Bát Nhã tại chùa này.

Trước hết tôi xin thông báo là đã nhận được một bức thư từ Việt Nam viết sang nói rằng chùa Vạn Đức, chùa mà Thượng Tọa Thích Trí Tịnh đang trụ trì, đã nhận được ba trăm đô la của Ban Hoa Nghiêm chúng ta gửi rồi.

Chúng ta sinh nhằm thời mạt pháp này. Thời chánh pháp thường kéo dài một ngàn năm trong khi đức Phật còn sinh thời, nhưng đức Phật Thích Ca chỉ có năm trăm năm chánh pháp thôi. Sau đó là đến kỳ của chúng ta.

Kinh thường nói rằng, trong thời chánh pháp, căn cơ người tu rất cao và nhà Phật gọi đó là giải thoát kiên cố, tức là những vị tu thời ấu căn cơ cao, và lúc nào cũng hướng đến giải thoát, không chịu ngừng ở giữa đường, vì thế được gọi là “giải thoát kiên cố.” Kiên cố tức là vững chắc không gì lay chuyển nỗi. Vì vậy, kinh thường kể, có những vị đến nghe đức Phật giảng pháp lý vi diệu thì nhiều khi chỉ cần nghe một buổi kinh, hoặc hơn thế nữa, chỉ cần nghe một câu Phật dạy là đắc quả ngay. Sang đến thời tượng pháp, tức là thời kỳ khoảng độ vài trăm năm sau tây lịch, thời này căn cơ người tu đã kém đi ít nhiều, nên không còn được gọi là giải thoát kiên cố nữa mà gọi là thiền định kiên cố. Tức là những vị này có tu tập, có thiền định, nhưng thường họ chỉ dừng chân trong thiền định để hướng sự an lạc trong ấy mà không muốn khởi tâm đi lên nữa. Nên các ngài có thể có được định lực nhưng không tới được giải thoát, đồng thời chỉ hưởng cái trầm không thú tịch thôi. Đúng như thời kỳ bên Tàu nở ra những phái thiền, và thiền đốn ngộ. Chừng khoảng một ngàn năm gần đây, đã bước qua thời kỳ mạt pháp. Thời mạt pháp này kéo dài suốt thời kỳ kiếp giảm, tức còn rất lâu. Trong thời kỳ này, căn cơ người tu rất kém, phần nhiều cầu quả hữu lậu, đi chùa, lễ lạy lấy phước, ít chịu tụng kinh và nghe pháp, nên thường không hiểu giáo lý nhà Phật như thế nào. Trong thời mạt pháp, đức Phật huyền ký đó là thời đấu tranh kiên cố, giỏi lắm là chỉ đến đa văn kiên cố, và tăng, ni thường hay phạm giới, nhiều khi không có thời công phu và chỉ thích làm chùa đẹp, thật to, kinh gọi là tháp tự kiên cố.

Trong thời đấu tranh này, lúc nào chúng sanh cũng chạy theo vật, luôn luôn thích bạo động, còn người tu tại gia khá nhất chỉ đến mức đa văn kiên cố thôi, tức là cũng chịu khó dọc kinh sách Phật giáo, nhưng không tu tập gì mấy, giới thì không giữ nổi bao nhiêu, lại không thiền định, phần nhiều chỉ đa văn thôi, hiểu kinh mà không thấu nghĩa lắm, hành trì lại kém. Còn người xuất gia thường chỉ thích làm chùa to, trong đó có một vị sư nhỏ, lúc nào cũng bận bịu những việc thế sự, nên phần tâm linh có phần lơ là không ít. Sở dĩ tôi nói như thế chỉ là vì muốn nhắc rằng chúng ta ngày nay thường phải chọn lựa để tu theo pháp môn nào hợp với căn cơ của mình. Như ở Việt Nam trong thời Lý, Trần, dân chúng tu theo thiền định nhiều, và kèm theo tụng chú. Nhưng sau đó khoảng mấy trăm năm, họ lại chuyển sang tịnh độ và tham bác thêm tụng chú.

Nhân thể mới đây, có một vài phong trào thiền khuyên ngươi ta không nên tụng kinh và nên bỏ bàn thờ, vì vậy tôi xin đọc cho quí vị nghe một đoạn luận ngắn. Đoạn luận ngày xưa này nói rõ rằng, ngay tới những vị A La Hán, là những vị chỉ thuần tu thiền định mà rồi về sau cũng phải sang tịnh độ. Tôi vẫn thường nói trong ban kinh này, cửa ải Cực Lạc là một cửa ải ai cũng phải đi qua, dù là đi con đường nào cũng phải qua đó để có thể lên được vô sanh pháp nhẫn, sau đó mới sẽ thành Phật. Như trong kinh Hoa Nghiêm có nói rõ rằng có những thế giới tịnh, bất tịnh, thế giới diệu, thế giới uế v.v…, mà tu hành chính là để vượt khỏi thế giới uế này để sang thế giới tịnh rồi mới có thể lên cao được. Lên xong rồi lại trở về thế giới uế để độ sanh.

Nhưng từ xưa đến nay, chưa có một người nào nói rằng các vị A La Hán rồi cũng phải sang Cực Lạc cả. Nên hôm nay, tôi muốn đọc cho quý vị nghe đoạn đó. Ngày xưa, khi Phật còn tại thế, ngài dạy cho các bậc Thanh Văn chỉ một phần rất nhỏ, ngài chỉ nói rằng các vị Thanh Văn vào Niết Bàn như củi hết, lửa tắt. Nhưng không nói các vị ấy đi đâu sau khi bỏ báo thân máu thịt này. Và trong kinh Pháp Hoa nói rõ đó chỉ là Niết Bàn hóa thành thôi.

Vậy thì các vị Thanh Văn sau khi bỏ báo thân này thì sẽ đi đâu? Và “củi hết, lửa tắt” có ý nghĩa gì?

Củi hết là tam độc tham, sân, si của các ngài đã hết. Mầm mống sinh tử không còn, vì thế không phải bị thọ sanh phân đoạn sanh tử, tuy vào một nơi vắng lặng tạm gọi là Niết Bàn, nhưng không phải là Đại Niết Bàn Tịch lĩnh của Chư Phật. Vì các ngài còn rất nhiều những biến dịch sanh tử, và các vị độn căn A La Hán, không hiểu được Diệu Tâm và không chịu tu lên nữa. Nhưng không vì thế mà có một nơi để các vị ngồi chơi mãi trong ấy, vì vận hành của pháp giới này bao giờ cũng là phải trở về Diệu Tâm và Nhập pháp giới trọn vẹn. Nhưng đức Phật đôi với các vị Thanh Văn sinh thời, ngài cũng không nói rõ, mãi đến khi ngài giảng Pháp Hoa mới nói đó chỉ là Niết Bàn hóa thành mà thôi, rồi  thời kỳ Hoa Nghiêm ngài mới nói rõ đến việc “Nhập pháp giới.”

Nay, tôi xin đọc cho quý vị nghe một đoạn luận nói rằng tất cả các vị A La Hán, sau khi bỏ báo thân, đều được đức Phật đưa qua biên địa bên Cực Lạc, ngồi trong hoa sen báu được chư Phật phóng hào quang, gột rửa những ám độn, để có thể phát Tuệ Giác Vô Thượng, sau đó mới phát bồ đề tâm, vào bồ tát đạo đi đến Phật quả.

Sỡ dĩ tôi phải tìm tòi từng đoạn kinh, đoạn luận đem ra nói để cho quý vị thêm tín căn sâu chắc về con đường Tịnh độ, vì đó là con đường giải thoát rốt ráo trong thời mạt pháp này.

Đây là một đoạn luận do ngài Narada, một vị tu theo Nam Tông, trích dẫn trong cuốn “Đức Phật và Phật Pháp” trang 595. Đây chỉ là một đoạn luận nhưng ý kiến rất hợp với giáo lý đại thừa. Và khẳng định rằng tất cả những người tu hành, dù muốn hay không cũng phải sang Cực Lạc, mới đắc được Vô Sanh Pháp Nhẫn (Đệ bát địa Bồ Tát).


ĐOẠN LUẬN: Những vị đại đệ tử Thanh Văn đã chứng ngộ hai hạng tuệ giác là Thanh Văn Giác, và Độc Giác, trong khi còn và sau khi thân ngũ uẩn chấm dứt, vẫn còn tâm sợ sệt…

GIẢNG: Nghĩa là trong khi còn thân này, vào hữu dư niết bàn, và sau khi mất thân này vào vô dư niết bàn, thì vẫn còn tâm sợ sệt, vì tam độc chưa tẩy sạch những tập khí cũ.


LUẬN: Bởi vì các ngài chưa đạt được đại bi và trí huệ cao thượng.

GIẢNG: Tức là các ngài mới chỉ có tâm từ bi thường, và trí huệ bát nhã theo lối Thanh Văn, nên tâm vẫn còn rung động, đôi khi còn sợ sệt.


LUẬN: Do sự chấm dứt sinh lực…

GIẢNG: Chúng ta sở dĩ thọ sanh làm người hoặc các loài chúng sanh hữu tình khác là do trong tâm chúng ta có nhiều kiết sử, nhiều tham, sân, si khiến chúng ta phải đi thọ sanh. Nhưng các vị A La Hán đã diệt hết mầm mống tham sân si rồi nên dứt được phân đoạn sanh tử, không phải mang thân máu thịt này, không phải thọ sanh làm người hay làm chư Thiên v.v… Nhưng tình trạng này chỉ tạm gọi là vào Niết Bàn Hóa Thành thôi, vì khi chấm dứt mầm mống ấy, là chỉ chấm dứt được phân đoạn sanh tử, mà chưa chấm dứt được biến dịch sanh tử.


LUẬN: Tạo nên bởi những năng lực trong quá khứ, các ngài có thể đắc niết bàn, tuy nhiên trong thực tế, các vị thánh tiểu thừa chỉ thành tựu một cái gì mường lượng như niết bàn gọi là Niết Bàn, giống như ánh sáng b| dập tắt.

GIẢNG: Cũng như hồi nãy tôi nói đến chữ “củi hết, lứa tắt” Củi hết là thân phân đoạn sanh tử không còn, như ánh sáng bị dập tắt.


LUẬN: Không còn trở lại tam giới nữa…

GIẢNG: Tức là không trở lại trong dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Nhưng phải trở lại những cõi khác vi diệu hơn.


LUẬN: Nhưng sau kiếp sống trần gian này chư vị A La Hán sẽ tái sanh vào cõi thanh tịnh nhất, trong cảnh giời hoàn toàn tinh khiết, ở trong một trạng thái xuất thần nhập hóa, mơ mơ màng màng bên trong những cánh hoa sen…

GIẢNG: Chư Phật đưa các vị A La Hán sang Biên Địa, nằm trong hoa sen xuất thần nhập hóa mơ mơ màng màng.


LUẬN: Sau đó đức Phật A Di Đà cũng như các vị Phật khác giống như vầng thái dương đã đem các ngài lên gột rửa, cho trí huệ được trong sáng, từ đó chư vị A La Hán tận lực tiến đến giác ngộ tối thượng và mặc dầu đã đạt được trạng thái giải thoát (tức là giải thoát tiểu thừa), các ngài hoạt động trong thế gian hữu vi cũng giống như các ngài đi xuống địa ngục. Rồi tích trữ dần dần yếu tố cần thiết của đạo quả Chánh Đẳng Chánh Giác, các ngài trở thành đạo sư của tất cả chúng sanh.

GIẢNG: Đó là hết đoạn luận. Đây là điểm từ xưa không ai nói tới, mà bên Nam Tông không ai biết đến Tịnh Độ cả. Còn bên Đại Thừa thì có những người chê bai Tịnh Độ. Nhưng trong các kinh như Hoa Nghiêm, Quán Vô Lượng Thọ v.v… đều khuyến tấn người cầu vãng sanh Tịnh Độ.

Tôi dám nói chắc rằng ở thời mạt pháp và trong cõi uế độ này không ai có thể tu tự lực mà đắc được vô sanh pháp nhẫn, phải cầu sang Tịnh Độ mới có thể lên đến mức độ ấy. Mà vô sanh pháp nhẫn chỉ mới là đệ bát địa, phải đi thêm bốn bậc nữa mới lên đến Phật quả.

Tiếp theo đây là đoạn kinh của Hoa Nghiêm, phẩm thập địa, nói rằng khi một vị Bồ Tát tu hành lên đến đệ thất địa, Viễn Hành Địa. Viễn hành là đi xa, tức là đi từ cõi uế sang cõi tịnh thì gọi là “đi xa,” sau đó lại trở về cõi uế để độ sanh.

Từ sơ địa đến đệ thất địa, các vị Bồ Tát tu lục độ, nhưng tu với cái tâm hữu công dụng, nghĩa là nghĩ rằng có mình làm, có người thọ dụng và có quả đắc. Nhưng bắt đầu đến địa thứ bảy trở lên, các ngài vẫn tu lục ba la mt nhưng với tâm vô công dụng hạnh, làm mà như mình không làm vậy, độ chúng sanh, đồng thời cũng quán chiếu thấy người độ và kẻ được độ cũng là không, rồi cái hành vi độ cũng không. Và bắt đầu từ đây, các ngài mới vào chỗ biến hóa không cùng, vi diệu hết sức. Khi tới chỗ này rồi thì phải “đi xa,” vượt từ cõi uế sang cõi tịnh để đắc vô sanh pháp nhẫn, được pháp thân Bồ tát, được thân không phải thai sanh, lúc đó sẽ trở lại cõi uế độ độ sanh.

Tôi xin trích một đoạn trong Hoa Nghiêm, trang 334 cuốn số bốn.


KINH: Chư Phật tử, ví như có hai thế giới, một thời tạp nhiễm, một thời thuần tịnh.

GIẢNG: Pháp giới này chia làm hai, một phần là thế giới thanh tịnh, và một phần là uế độ (như cõi Ta Bà của chúng ta).


KINH: Chặng giữa của hai thế giới này khó qua được.

GIẢNG: Từ cõi uế chuyển sang được cõi tịnh rất khó qua.


KINH: Chỉ trừ bậc đại Bồ Tát có đại thần thông phương tiện huệ. Chư Phật tử, Bồ Tát ở các địa cũng như vậy, có tạp nhiễm hạnh, có thanh tịnh hạnh, chăng giữa của hai hạnh này khó qua được, chỉ trừ đại Bồ Tát có đại nguyện lực phương tiện trí huệ mới có thể qua được. Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát hỏi: Thưa Phật tử, bảy địa Bồ Tát này là nhiễm hạnh hay tịnh hạnh?

GIẢNG: Bảy địa Bồ Tát là từ sơ địa đến thất địa.


KINH: Kim Cang Tạng Bồ Tát nói, thưa Phật tử, từ sơ địa đến đệ thất địa công hạnh tu tập đều lìa bỏ nghiệp phiền não, vì hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề vì phần được đạo bình đẳng, nhưng chưa được gọi là hạnh siêu phiền não. Chư Phật Tử, như Chuyển Luân Thánh Vương, ngự tượng bửu du hành tứ thiên hạ, biết có người bần cùng khốn khổ mà không bị lấy những họa hoạn đó, nhưng chưa được gọi là siêu nhân loại. Nếu bỏ thân Chuyển Luân Vương sanh lên trời Phạm Thiên, ngự Thiên Cung thấy ngàn thế giới, du hành ngàn thế giới, thị hiện quang minh oai đức của Phạm Thiên mới gọi là siêu nhân loại.

GIẢNG: Trong đoạn kinh này ý nói rằng, Bồ Tát tu từ sơ địa đến đệ thất địa chưa phải là pháp thân Bồ Tát, khi nào thân không còn thi trùng, bệnh tật nữa, thân thọ sanh theo ý muốn, không cần phải gá vào người đàn bà thì mới gọi là pháp thân Bồ Tát. Muốn có thân ấy cũng cần phải sang Tịnh Độ, nên trong kinh mới nói có hai thế giới, một thời tạp nhiễm, như tam giới của chúng ta – (lục giới, sắc giới, vô sắc giới — thì phải sang bên cõi tịnh độ mới gọi là siêu nhân loại được. Vậy có đại thần thông phương tiện nguyện lực là phải hiểu lòng đại bi của Chư Phật, hiểu rằng Bồ Tát càng lên cao bao nhiêu càng phải gần Phật mới có thể gột nổi vô minh vi tế cuối cùng. Vì trong kinh nói có những vị Bồ Tát đệ thập địa chỉ còn một, hai phần vô minh vi tế cuối cùng cũng không thể gột nổi mà phải gần Phật mới gột sạch được. Ở tịnh dộ khác với uế độ một điểm là luôn luôn được thấy Phật, được gần Phật, còn ở uế độ thì Phật thị hiện xuất sanh khó như hoa Ưu Đàm, bao nhiêu kiếp mới được gặp Phật một lần, và chưa chắc gì chúng ta có được đủ thiện duyên sanh nhằm vào thời kỳ Phật thị hiện thọ sanh.

Nhân thể, tôi cũng muốn nhắc lại một đoạn kinh khác trong Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh, do ngài Quán Thế Âm nói, (tôi không mang theo cuốn kinh ấy đi hôm nay). Ngài nói rằng, từ kiếp lâu xa trước ở cõi đó, ngài được gặp đức Thiên Quang Vương Tịnh Trụ Như Lai nói bài chú Đại Bi này, lúc bấy giờ ngài mới ở sơ địa, sau khi ngài nghe xong bài chú ấy thì ngài vượt không biết bao nhiêu kiếp sanh tử (tức là biến dịch sanh tử) lên đệ bát địa, rồi lừ đó đến nay, ngài luôn luôn ở những cõi Phật, sanh trong hoa sen, và hóa thân bời bời để độ sanh. Nói như thế để cho quí vị thấy rằng, người tu hành phải biết rõ về vấn đề biến dịch sanh tử, muốn diệt trừ biến dịch sanh tử ấy thì phải sang Tịnh Độ mà không có một cách nào khác.

Vì vậy, tôi lấy làm thương sót cho những vị nào vì quá say mê thiền mà bài bác Tịnh Độ. Say mê thiền là quyền của mình, nhưng không nên bài xích Tịnh Độ, vì pháp môn tịnh độ là chính kim khẩu của chư Phật nói ra. Có vị dùng luận lý thế gian, dùng vọng thức thô kệch của mình, chứng minh rằng con đường Tịnh Độ là một con đường đưa đến dị đoan, mê tín, lại còn tuyên bố rằng, đi theo con đường Tịnh Độ là những người ngu, điều này làm hoang mang cho nhiều người đang tu Tịnh Độ, nhẫn đến có nhiều vị bỏ ngang không tu theo pháp môn Tịnh Độ nữa. Chính vì vậy, chúng ta cần phải lên tiếng, vì chúng ta phần đông căn cơ chỉ có thể tu theo pháp môn ấy. Thiền chỉ là một cái “mode” cho giới trẻ còn say mê, muốn lao vào một cuộc phiêu lưu kỳ thú, hay thực tế hơn, thì đó là một môn thể thao tinh thần, tìm một chút an lạc, một chút khỏe khoắn, một chút… thời thượng, mà không đưa chúng ta tới một bến bờ giải thoát nào. Muốn đạt được sự giải thoát, phải đi vào thiền kiến tánh thực sự, nhưng căn cơ người đời nay không đủ để đi theo pháp môn ấy, nhất là những người già. Cộng thêm những vị đại đạo sư rất hiếm hôi. Nhiều người đời này đi cầu đạo như những con thiêu thân, thấy ngọn lửa nào có vẻ lấp lánh, quyến rũ là lao vào, cũng có thể họ có được một điều gì nho nhỏ, nhưng ngược lại cũng có thể họ sẽ bị đốt cháy trong ngọn lửa ấy. Tôi thấy những người Phật tử đi cầu đạo thường rơi vào trong trường hợp này rất nhiều, kiến thức về kinh thì mù mịt, không rõ được chân, giả, vị thầy nào cũng thấy dường như đúng lý, chỉ thích huênh hoang, đắc ý và mong cầu một cách gấp gáp, cộng thêm tâm lý quần chúng chỉ thích cái gì “thời thượng.” Mỗi một khóa thiền có cả nam lẫn nữ, lấp nập như ngày hội, rồi nghe một vài điều rất sơ bộ… Có lẽ đến khi chết vẫn mê loạn không có đến một câu kinh nào để bám víu, cũng không nhớ đến một hồng danh để niệm nữa. Nên chúng ta là những Phật tử đã đọc tụng kinh đại thừa, biết một cách khái quát thế nào về kinh, thế nào là Tịnh Độ, thế nào về con đường tu thiền, cần phải vững tâm, đừng để bị lay động bởi những hào hoa hư ngụy khi nghe một thiền sinh kể về một vài cảnh giới họ thấy, chưa chắc gì những cảnh giới đó là một mức chứng đắc nào, mà thường chỉ là cảnh giới ma mà thôi. (Kinh Lăng Nghiêm cũng dạỵ rất rõ về điểm này.)


HỎI: Trong kinh Pháp Hoa nói đến Hóa Thành Dụ, nơi đó có phải một nơi như Cực Lạc không?

ĐÁP: Hóa thành dụ là Niết Bàn của Thanh Văn, không phải là Cực Lạc. Ngày xưa trong mười hai năm đầu, Phật giảng về Thanh Văn thừa, rồi sau dần dần ngài chuyển sang Đại Thừa. Đến cuối đời, ngài mới giảng Pháp Hoa, và nói rõ rằng tất cả Niết Bàn tôi dạy các ông ngày xưa chỉ là Hóa Thành thôi, vì tâm thức các ông còn yếu kém, hạn hẹp nên phải nêu lên một chỗ cho các ông nghĩ chân thôi, chứ thực ra đó không phải là Niết Bàn của chư Phật.

Vì vậy, tôi lấy làm lạ rằng từ xưa những người nói về đạo Phật thường chỉ nói đến giải thoát. Nhưng trong Kinh đại thừa nói rõ, giải thoát khỏi những phân đoạn sanh tử của Thanh Văn chỉ mới đi được một phần ba đường, còn mục tiêu tối thượng để thành Phật là phải nhập pháp giới trọn vẹn. Như trong kinh Hoa Nghiêm, trang 2 và 3, Phật nói ngài thành Chánh Đẳng Chánh Giác khác hẳn lối nhìn của hàng Thanh Văn. Vì ngài nhập pháp giới trọn vẹn, không có một bông hoa, một hạt bụi, một chúng sanh nào mà không ở trong thân ngài, đồng thời khi nhập trọn vẹn như vậy vẫn không thấy có một pháp nào có cả, phải song chiếu hai mặt vừa Bát Nhã, vừa Đại Bi như vậy mới được gọi là Chánh Đẳng Chánh Giác.


HỎI: Trong thời này có nhiều vị đạo sư tự cho mình là Phật, rồi mở những buổi tập thể để mở các luân xa, hay truyền tâm ấn. Vậy thì, trên con đường tìm đạo, nhiều người khó thể phân biệt thế nào là chân, thế nào là giả. Xin ông nói sơ qua làm thế nào ta có thể phân biệt được?

ĐÁP: Đó là chỗ nguy hiểm cho những người đi học đạo, vì thời này, tà sư nổi lên như cát bụi, chân giả khó phân. Nhưng từ tám, chín năm về trước tôi vẫn thường cảnh giác trong ban kinh này là: Tất cả những người tự nhận là đạo sư, trước hết ta phải xét xem người ấy có còn ngã hay không, có thích phật tử lễ lạy, cúng dường nhiều không, thứ hai là người đó có khoe khoang về mình nhiều không? Khi nào ta thấy vị đạo sư đó thích được cúng dường, được lễ lạy, thì người đó coi như không dáng tin. Thứ hai, là những vị nào tự nhận mình là hóa thân của ngài Di Lặc, hay Thượng Đế, Phạm Thiên v.v… cũng đều hỏng. Vì những hóa thân chân thực không bao giờ nhận mình là gì cả.

Tâm lý Phật tử bây giờ đương quờ quạng, rất hăng say đi tầm đạo, thì cứ việc đi, chỗ nào cũng có thể tới, xem họ sinh hoạt thế nào. Nhưng đồng thời, trong khi đi tìm, quí vị nên lụng kinh, và tụng chú, tuy rằng cái lực lâu tới, (vì tâm lực của chúng ta còn yếu kém, chưa tương ưng với tâm lực chư Phật) nhưng chắc chắn chúng ta được sự gia hộ.

Trên con đường tu hành, nếu chúng ta có bị ốm đau, tật bệnh, hoặc chướng duyên đeo đuổi thì phải hiểu rằng tất cả những sự đó đều là đền nghiệp của ta từ nhiều kiếp trước, thay vì phải đọa xuống, thì phải chịu một vài căn bệnh trong đời này. Trong kinh Kim Cang nói rõ, nếu bị người ta chê cười, hay bệnh hoạn tức là vơi được nghiệp nhiều lắm. Đừng vội vã với tâm mong cầu, vì không gì có thể giải quyết một cách gấp gáp được, không bao giờ chỉ tu trong một vài ngày, vài tháng, vài năm mà có thể có được một quyền năng đội đá, vá trời. Cho dù nếu có phước duyên, gặp được vị tu hành đạo hạnh cao, có đôi chút thần thông, hay quyền lực họ cũng không bao giờ nói ra, vì nói ra thì cái quyền lực ấy kém dần đi, càng nói ra nhiều thì thần thông càng teo nhỏ lại, chỉ trừ khi đó là những thần thông của tụi ma, quỉ cho thì khi càng nói lại có thể càng tăng lên. Huyền lực chính là do từ công phu tu tập, cùng thiện căn phước đức của vị đó, nhưng càng nói ra, huyền lực lại càng kém đi. Vì sao thế? Vì bị vấp vào ngã chấp, nên càng ngày cái ngã ấy càng mài dần công đức của vị đó nên càng ngày càng kém đi. Ngược lại, những thần thông nho nhỏ do quỉ cho thì càng nói càng tăng lên, để chiêu dụ những người nhẹ dạ cầu mong, như vậy chúng ma sẽ có nhiều quyến thuộc. Cũng có thể nó sai sử vị thầy làm những điều càn bậy, để chơi thôi, đến khi ma quỉ chán rồi bỏ đi thì cả thầy lẫn trò đều rơi vào pháp luật. Ma đạo và Phật đạo khác nhau như thế. Sở dĩ ma dễ len vào trong tâm thức người tu hành để quấy phá vì trong lúc tu, tâm thức vị đó hơi bị rỗng, nếu vị này không khởi tâm tham cầu dâm dục, hay danh vọng, hoặc lợi dưỡng thì ma không thể xen vào được. Ngược lại, nếu hành giả chỉ cần khởi một tâm niệm lệch thì lập tức sẽ có một kẽ hở, ma dễ bề xâm nhập vào quây rối người tu hành, nếu biết thì không phải làm quyến thuộc của ma, nếu không biết sẽ làm quyến thuộc của chúng và nhiều đời nhiều kiếp phải luân hồi sanh tử, phá đi cái huệ mạng của mình mà không biết đến đời nào mới ra khỏi.

Ngày xưa, đức Phật có thể tự xưng ngài là Phật vì ngài có ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp và hiện thần thông độ sanh và có vô lượng thiện thần theo hầu. Còn những người nào tự vỗ ngực xưng mình là thế này, thế nọ chỉ là những kẻ đi bán ảo tưởng, thời đại này là thời đại của sự lừa đảo, mà không có một cái nghề gì “phát tài” và khỏe bằng nghề đạo sư. Những người bị thu hút thường là nhưng người đàn ông và đàn bà sồn sồn, bắt đầu bước vào tuổi già dễ rơi vào sự cô đơn, phiền muộn, vì không có việc gì làm, sức khỏe lại kém, con cháu không có mấy thời giờ đến thăm, nên phải bám theo đám ồn ào ấy để mua một chút ảo tưởng nào đó, như mua ảo tưởng sẽ được khỏi bệnh, hay được cứu rỗi, hoặc để cảm thấy ấm áp, bớt cô độc, mà cái giá phải trả cũng không đến nỗi quá đắt, chỉ cần mất vài chục, vài trăm, hay một hai nghìn tùy theo sức thu hút của vị Tà Sư giáo chủ, và cái giá đó cũng “thuận mua, vừa bán,” không có gì đáng phàn nàn.

Phần lớn người đời nay quá khổ, làm ăn khó, cạnh tranh nhiều, chỗ nào cũng tranh giành để kiếm sống, nên con người cần phải tìm một bến bờ nào đó, một chỗ để trú chân thì dù có mất một chút tiền cũng không đáng tiếc. Nhưng họ không nhìn thấy được cái tại hại sâu xa hơn, vì đó chỉ đưa họ vào con đường đọa, trôi nổi trong đau khổ thêm nhiều kiếp. Sở dĩ tôi phải nói thế vì sau những vụ tà sư này, sẽ còn rất nhiều những vụ khác mọc lên như nấm trong tương lai, những trò chơi của yêu ma không bao giờ hết. Nên ta cần cảnh giác để biết đường con đường nào nên đi…

Nay chúng ta đi vào phần cuối của Hoa Nghiêm…

Lần trước chúng ta đến chỗ Thiện Tài đồng tử sau khi quán chiếu rất lâu thì thấy được ngài Phổ Hiền Bồ Tát lúc đó đang ở ngay trong chúng hội trước đức Như Lai.

Lần trước tôi đã giảng sau khi Thiện Tài đi chu du về phía Nam thì bây giờ phải trở lại chỗ cũ mới thấy được chỗ tuyệt đỉnh của con đường tu hành, tức là trở lại chỗ Bồ Đề Đạo Tràng chỗ đức Phật Thích Ca ngồi mà vị Phổ Hiền Bồ Tát cũng ngồi ngay tại đó. Nhưng nếu thiện căn chưa chín thì không thể nhìn thấy, cho đến khi nào nhãn lực và đạo lực chín mùi thì sẽ thấy được ngài. Và trước khi thấy thân ngài, Thiện Tài nhìn thấy rất nhiều tướng quang minh tạo lập lên thế giới, phần nhiều là những mây quang minh hiện thành những tinh tú, thành các cõi và cuối cùng là hiện thành những thân chúng sanh. Dần dần Thiện Tài nhìn thấy được từ một chỗ rất lớn như hư không xuống dần đến một thân căn thanh tịnh nhỏ bằng một người ngồi là ngài Phổ Hiền ngay trong chúng hội đạo tràng. Khi nhìn thấy ngài, thì kinh lại không tả ngài ra sao, mà lại tả tới chỗ cực nhỏ, tức là tả những lỗ chân lông của ngài để thấy trùng trùng hằng hà sa thế giới. Vì vậy mới gọi là NHẬP PHÁP GIỚI. Tức là đi từ chỗ rất lớn đến chỗ cực nhỏ, rồi từ những chỗ cực nhỏ như một đóa hoa nở ra đến chỗ cực lớn.

Nay, xin đi vào kinh…


KINH: Bấy giờ Thiện Tài đồng tử liền thấy Phổ Hiền Bổ Tát ở trong chúng hội trước đức Như Lai, ngồi tòa sư tử Bửu Liên Hoa, chúng Bồ Tát vây quanh rất là tôn nghiêm, thế gian không sánh được, cảnh giới trí huệ vô lượng vô biên khó lường khó nghĩ, đồng tam thế Phật, tất cả Bồ Tát không quán sát được.

GIẢNG: Khi nào một vị Bồ Tát nhìn thấy ngài Phổ Hiền thì phải có sức gia trì của ngài, cộng với nhãn lực với đạo lực lớn của chính hành giả ấy. Còn những vị Bồ tát khác không nhìn thấy được vì đạo lực của các vị khác kém hơn, không đủ nhãn lực để nhìn thấy quang minh vi tế ấy. Từ đây trở đi, trong kinh không tả ngài Phổ Hiền Bồ Tát ra sao, mà lại tả từ lỗ chân lông của ngài. Trong đạo Phật, tu hành là phải hóa-giải-không- gian-và-thời-gian, nên khị một Bồ Tát trông vào lỗ chân lông của một vị Bồ Tát lớn mà thấy trong đó có vô lượng thế giới, tức nhiên nhãn lực của vị Bồ Tát ấy cao siêu lắm rồi.


KINH: Thấy thân Phổ Hiền mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả thế giới vi trần số quang minh vân…

GIẢNG: Kinh không tả hình dáng ngài ra sao, mà chỉ nói đến lỗ lông của ngài tuôn ra không biết bao nhiêu mây quang minh. Đó là chỉ cho các bậc đã đắc đạo. Đức Thích Ca của chúng ta cũng vậy, nhưng chúng ta không nhìn thấy mà thôi, ở đây, tôi lại xin nhắc lại vị thiện tri thức thứ sáu là ngài Hải Tràng Tỳ Kheo, khi Thiện Tài đến thì thấy ngài ngồi mọp bên đường, nhưng từ trên đỉnh đầu, rồi từ mắt, từ tai, từ vai, từ bụng, từ đầu gối, nhẫn đến từ gót chân tuôn ra bời bời những hóa thân, ùn ùn không bao giờ dứt, đó mới gọi là chân đắc đạo giải thoát, là Nhập pháp giới.


KINH: Khắp pháp giới hư không giới tất cả thế giới, trừ diệt tất cả chúng sanh khổ hoạn, khiến các Bồ Tát sanh đại hoan hỷ.

GIẢNG: Thấy trong mỗi lỗ lông của ngài Phổ Hiền đều khởi lên vi trần số mây quang minh bủa khắp pháp giới chạm đến các chúng sanh diệt trừ những khổ hoạn của họ, như người điếc nghe được, người mù trông thấy, người câm nói được v.v… tất cả phiền não đều tiêu dung.


KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật sát vi trần số những sắc hương diệm vân, khắp pháp giới hư không giới tất cả chư Phật chúng hội đạo tràng, để huân tập tất cả.

GIẢNG: Trong những lỗ lông ấy đều nổi lên những đám mây đầy màu sắc và những mùi hương rất thơm, nhưng mùi hương ấy bủa khắp pháp giới để huân tập cho tất cả chúng sanh. Nên tôi vẫn thường nói, tuy chúng ta đi, đứng, nằm, ngồi lổm ngổm thế này, nhưng chúng ta đang được tắm trong quang minh của các ngài mà không hề hay biết, dần dần nếu biết tu tập, tâm ta sẽ tương ưng với tâm các ngài và ngài sẽ hiện tướng để viên mãn những nguyện của ta.


KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả vi trần số tạp hoa vân…

GIẢNG: Mây tuôn ra và trong những đám mây đó hiện ra rất nhiều hoa. Trong đạo Phật nói đến rất nhiều loại hoa, mà theo như kinh Hoa nghiêm, ta có thể coi các chúng sanh, và những hiện tượng cây cỏ, núi sông của pháp giới này là nở trên biển pháp thân đó, tương tự như một đóa hoa nở ra rồi cụp lại. Tất cả pháp giới nở ra thành thế giới này và vô lượng thế giới khác, đến khl kiếp hoại thì tất cả rút lại, cụp lại rồi biến vào chân không. Vì vậy, khoa học không thể hiểu nổi tại sao khi thấy những tinh hà càng ngày càng chạy xa nhau. Nhưng nếu ta nhìn theo con mắt Phật giáo thì sẽ thấy rõ, có thể là vì đương lúc đóa hoa pháp giới đang nở ra lớn, thì những tinh hà chính là cánh hoa, nhụy hoa càng ngày càng nở lớn ra nên càng chạy xa nhau hơn. Thân căn chúng ta cũng là một đóa hoa nở ra, khi già tàn lụi, thì nó rụng xuống thành cát bụi và rơi vào chân không.


KINH: Khắp pháp giới hư không giới tất cả chư Phật chúng hội đạo tràng mưa những diệu hoa.

GIẢNG: Ngài Phổ Hiền ngồi trong tam muội tịch bất động, mà từ những lỗ chân lông tuôn ra không biết bao nhiêu thứ quang minh mây, trong đó lại hiện ra những trận mưa hoa nườm nượp trong hư không. Chúng sanh nào đủ thiện căn đều có thể nhìn thấy những mưa hoa đó, ngược lại, những người căn cơ còn hạn hẹp như chúng ta không thể nào thấy được.


KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật sát vi trần số hương thọ vân..

GIẢNG: Trong những quang minh vân ấy hiện ra những cây quí có hương thơm như cây chiên đàn chẳng hạn.


KINH: Khắp pháp giới hư không giới tất cả chúng hội đạo tràng mưa những diệu hương…

GIẢNG: Chúng ta là người trần mắt thịt, nên cái biết về pháp giới này rất hạn hẹp, vì trong hư không này, mọi biến chuyển xoay vần rất kỳ ảo,nó thay đổi từng sát na một. Ngay bây giờ, có thể đang có nhiều thế giới được thành lập, hoặc biến hoại, hay ngay tại chỗ này, chư Phật đang thuyết pháp, nhiều mưa hoa, mưa hương rơi đầy khắp hư không, hoặc chúng ta đang sống trong một thân căn của một vị Bồ Tát lớn nào đó v.v… Vì sáu căn của chúng ta chỉ hoạt động được trong một tần số hay kích thước hạn hẹp nào đó thôi. Và chúng ta hoàn toàn không hay, không biết. Nên chư Phật khởi lòng từ bi nói cho chúng ta nghe, vậy mà cũng có rất ít người chịu tin, chịu hiểu. Thật đáng tiếc!


KINH: Trong mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật vi trần số diệu y vân, khắp pháp giới hư không giới chư Phật chúng hội đạo tràng mưa những diệu y.

GIẢNG: Ở đây lại nói những đám mây quang minh hiện lên những áo vi diệu.


KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật sát vi trần số bửu thọ vân…

GIẢNG: Bửu thọ vân cũng là những mây quang minh hiện ra những cây quý.


KINH: Khắp pháp giới hư không giới tất cả chư Phật chúng hội đạo tràng mưa ma ni bửu. Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả Phật sát vi trần số sắc giới thiên thân vân sung mãn pháp giới khen ngợi bồ đề tâm.

GIẢNG: Ngài Phổ Hiền vẫn ngồi đấy, nhưng trong mỗi lỗ lông phóng ra rất nhiều những mây quang minh trong đó hiện tướng dần dần pháp giới. Trên kia, hiện lên những hoa, hương, cây cỏ,(chúng vô tình), xuống đây thì hiện lên các vị chư Thiên (chúng hữu tình), sau đó các vị chư Thiên đều khen ngợi bồ đề tâm.


KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật sát vi trần số Phạm Thiên thân vân, khuyến thỉnh chư Như Lai chuyển diệu pháp luân.

GIẢNG: Đoạn trên thì chỉ hiện ra Chư Thiên. Còn ở đoạn này thì hiện ra những Vua trời Phạm Thiên. Những vị Phạm Thiên thường là những vị vua cõi trời Quang Âm. Trong các kinh thường kể, khi một vị Phật thành Chánh Đẳng Chánh Giác dưới Bồ Đề Đạo Tràng ở một cõi nào thì bao giờ một vị Phạm Thiên cũng xuống thỉnh Phật chuyển pháp luân. Hạnh thỉnh chuyển pháp luân có công đức rất lớn, vì đức Phật có nói pháp chúng sanh mới thoát được khổ. Và nếu không có các vị Phạm Thiên thỉnh Phật thuyết pháp thì người đời sau không có kinh để đọc tụng và tu hành. Cũng như trong mười hạnh nguyện Phổ Hiền ta thường tụng đọc hằng ngày, có một hạnh gọi là “thỉnh chuyển pháp luân.” Trông thấy đức Phật phải thỉnh ngài nói pháp, cũng như trông một vị đạo sư, cao tăng, ta nên có hạnh khởi tâm thỉnh vị đó thuyết pháp, để chúng sanh được nghe pháp.

Trong kinh Đại Bát Niết Bàn nói rằng, ở những nơi đức Phật giảng kinh,có mấy hạng người kỳ diệu. Hạng người đầu tiên có công đức lớn là biết thỉnh Phật chuyển pháp luân, người thứ hai là biết hỏi. Thường đức Phật ít khí vô cớ nói pháp mà không có người hỏi, vì vậy người khởi tâm thưa hỏi do lòng từ bi thì công đức của vị đó rất lớn. Như trong những pháp hội, thường những vị đại đệ tử của Phật như ngài A Nan, Xá Lợi Phất, Tu Bồ Đề v.v… cùng các vị Bồ Tát và Thiên Đế, các ngài hỏi thế không phải là muốn khoe cái trí hiểu biết của mình đâu, hoặc đôi khi các ngài cũng biết câu trả lời mà vẫn cứ hỏi, đó chỉ là vì các ngài nghĩ đến chúng sanh đời sau như chúng ta cần có kinh mà đọc.

Trong đạo tràng, khi có người hỏi, đáp, chúng ta nên tránh nhất là tâm sân, mạn, dù người kia có nói trái ý ta cũng không nên khởi lòng sân, vì như thế ta còn chấp ngã rất nặng. Và theo giáo lý nhà Phật, người hỏi cũng như người đáp, thường ta chỉ nên nói lên cái kiến giải của mình thôi, chứ không có thái độ bắt ai phải theo cái sự hiểu biết của mình. Ngay cả đức Phật ngồi thuyết pháp cũng thế, ngài không bao giờ bắt các vị đệ tử của ngàii nghe ngài đâu, mà lại nói rằng, các ông hãy lắng nghe cho khéo, nghĩ cho kỹ nếu đúng hãy theo, nên không bao giờ có sự tranh cãi với thế gian.


KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật sát vi trần số dục giới thiên vương thân vân, hộ trì pháp luân của tất cả Như Lai.

GIẢNG: Đoạn trên kể rằng trong những quang minh vân sanh các chư Thiên Tử, sanh vị Phạm Thiên, rồi đến những vị vua trời dục giới như vua Đế Thích ở tầng trời Đao Lợi. Như vậy, nếu các vị Phạm Thiên thỉnh Phật chuyển pháp luân, thì những vị vua Đế Thích này sẽ hộ trì pháp luân của Như Lai. Khi đức Phật nói pháp lớn xong, bao giờ cũng có những vị Tứ Thiên Vương, Vua Đế Thích và rất nhiều vị Dạ Xoa Vương, Quỉ Thần Vương tuyên thệ sẽ hộ trì kinh. Khi ta đọc tụng kinh nhiều tất nhiên sẽ được sự hộ trì, nên tôi vẫn nói là, tuy đạo tràng này nhỏ bé, đôi khi thưa thớt người dự, nhưng có thể có những vị Quỉ Thần và Chư Thiên xuống nghe kinh…

Trong các kinh ngoại đạo, thì có những vị thần ngoại đạo hộ trì những kinh ấy, còn kinh Phật nói ra, toàn những vị Thiên Vương, nhất là những vị Tứ Thiên Vương và Quỷ Thần Vương hộ trì. Trong kinh Hiền Ngu, Phật nói rõ rằng, khi có người tụng chú như Đại Bi, Bát Nhã hoặc chú Thủ Lăng Nghiêm mà tụng ra thành tiếng, đi ngoài đường, các vị chư Thiên đi tuần trên trời phải dừng lại mà nghe bài chú ấy. Kinh cũng nói rằng, một người giữ một giới thì có năm vị quỉ thần đi theo gia hộ, còn giữ năm giới như người tại gia thì có hai mươi lăm vị quỉ thần đi theo gia hộ. Nhưng nếu tụng chú Thủ Lăng Nghiêm, thì có tám mươi bốn ngàn đại quỉ thần đi theo gia hộ, ngài nhắc đi, nhắc lại mấy lần trong kinh như thế. Chúng ta là người tu hành kém, công phu nhiều khi hay giải đãi, làm sao được sức gia trì? Nên phải nhờ thần lực của chú, của kinh.


HỎI: Tại sao lại là con số 84 ngàn mà không phải một con số khác, nhiều hơn haỵ ít hơn chẳng hạn?

ĐÁP: Trong kinh thường hay nói đến con số 84 ngàn, như 84 ngàn trần lao, 84 ngàn pháp môn, 84 ngàn các Đạo Quỉ Thần v.v… là chỉ một con số lớn, vô lượng.


PHẬT TỬ: Tôi có đọc một cuốn sách (xin lỗi đã quên mất tên), có giảng về các đại kiếp, trung kiếp, tiểu kiếp, không biết một tiểu kiếp là bao nhiêu năm?

ĐÁP: Một trung kiếp có hai mươi tiểu kiếp, một đại kiếp gồm bốn trung kiếp. Một vị tu thiền định vào cõi Trời Vô Sắc Giới thì vị đó có thể thọ tám mươi bốn ngàn kiếp, ngồi trong thiền định lâng lâng, không có thân chỉ có tâm tưởng thôi. Nhưng đến khi hết phước báo mà phải bị tụt xuống bình diện thấp của sắc ấm thì  bị đau đớn như có mũi tên đâm vậy.


HỎI: Trong thế gian nàỵ, có thể có hóa thân Phật không, và có người nào có thể một đời tu thành Phật được không?

ĐÁP: Có thể có hóa thân Phật, nhưng khi làm hóa thân không bao giờ được tự nhận mình là hóa thân của một vị Phật hay vị Bồ Tát. Các ngài có thể hiện làm một kỹ nữ, hay một vị vua, quan, hoặc một vị ăn mày ghẻ lác v.v…, và những hóa thân ấy, không có ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, mà luật tắc không bao giờ được nói mình là hóa thân cả, chỉ thị hiện để độ sanh thôi. Nhưng nếu hiện ứng thân có đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp thì có quyền nói mình là Phật, đồng thời phải có thần thông tràn đầy thế gian. Còn những người bình thường như chúng ta không bao giờ có thể tu một đời thành Phật cả, vì sao? Vì như đức Phật Thích Ca, ngài đã thành Phật trên từng trời sắc cứu cánh rồi, thị hiện xuống trần thành Phật để độ sanh và khích lệ người. Nên nếu đọc kinh kỹ ta có thể dễ dàng nhận được tà, chính.

Nay, xin trở lại kinh.


KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật sát vi trần số tam thế phật sát vân…

GIẢNG: Ngài Phổ Hiền vẫn ngồi đây, lỗ chân lông tuôn ra những mây quang minh hóa hiện thành những cõi Phật. Ai tin được điều này? Vì vậy kinh đại thừa mới khó tin, khó hiểu, khó vào. Cũng như chúng ta luôn nghĩ rằng cõi này với tất cả chùa đình, bàn ghế, cây cỏ này v.v… đều do vật chất tạo nên, nhưng trong kinh Duy Ma Cật cũng nói rằng tất cả các cõi đều là hư không, đều ảnh hiện, hiện lên là đều do thần lực của chư Phật gia trì và nghiệp lực của chúng sanh chiêu cảm, để chúng minh sinh sống và tu hành. Vì vậy chúng ta ngồi trong cõi này tức là ngồi trong thân của các ngài. Nếu chúng tu tin được thì quả là một đều rất hy hữu, phải trồng túc duyên từ nhiều đời, nhiều kiếp, đến kiếp này mới gặp được kinh đại thừa, hơn thế nữa lại còn đọc tụng và tin hiểu.

” Trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật sát vi trần số tam thế phật sát vân…” Những mây quang minh ấy không những hiện những cõi này, mà còn hiện cả các cõi quá khứ và vị lai đều hiện tiền trước mắt. Quí vị thử nghĩ xem có thể tin nổi không? Nhưng kinh không bao giờ nói lời hư vọng, chỉ tại mình nghĩ chưa tới mà thôi.


KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ lông trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật sát vị trần số thanh tịnh phật sát vân…

GIẢNG: Những mây quang minh hiện lên trong lỗ chân lông ấy tạo thành những cõi rất thanh tịnh.


KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật sát vi trần số bất tịnh tịnh phật sát vân, khắp pháp giới hư không giới, khiến tạp nhiễm chúng sanh đều được thanh tịnh.

GIẢNG: Lúc nào cũng nói đến cõi tịnh và bất tịnh. Vì vậy, y cứ vào kinh, tôi thiển nghĩ rằng, tất cả những người tu – dù tu theo thiền tông – trước sau cũng phải sang Tịnh Độ thì mới đắc được vô sanh pháp nhẫn, mới có đủ tự tại lực, thần thông để độ sanh.

Trong những kinh như kinh Đại Bảo Tích, Hoa Nghiêm đều nói đến những chân lý rốt ráo mà không thể có một cuốn sách thế gian nào nói được như lời kinh.


KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật sát vi trần số bất tịnh phật sát vân, khắp pháp giới hư không giới, khiến thuần nhiễm chúng sanh đều được thanh tịnh.

GIẢNG: Cõi Ta Bà chúng ta đang ở là một cõi uế độ trung bình, vì thế nghiệp lực tung hoành tương đối ít, như mười phần thì bất tịnh khoảng bảy phần, còn ba phần kia là tịnh, vì chúng ta còn biết tụng kinh, giữ giới v.v… Nhưng có những cõi bất tịnh phật sát vân thì trong đó chúng sanh thuần nhiễm, bất tịnh hoàn toàn, ở đây, chúng sanh không bao giờ biết đến kinh là gì, lúc nào cũng chỉ mang cái tâm thích chém giết nhau. Nhưng chư Phật và chư Đại Bồ Tát cũng phải gia trì ở những nơi đó khiến những thuần nhiễm chúng sanh đều dần được thanh tịnh. Đủ biết rằng, các ngài thường có tâm bình đẳng, thương chúng sanh như con đỏ, không một loài nào bị bỏ rơi, ngược lại, chúng ta cứ ngu si, nghiệp chướng sâu dầy, không chịu tin, không chịu hiểu, không hành trì đúng mức nên cứ phải trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi. Ví như mặt trời soi sáng khắp nơi, nhưng người mù vẫn không thấy, lỗi đó không do nơi mặt trời, chỉ tại người mù không nhìn thấy mà thôi.


KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật sát vi trần số chúng sanh thân vân, khắp pháp giới hư không giới, tùy sở nghi giáo hóa chúng sanh đều khiến phát tâm vô thượng bồ đề.

GIẢNG: “Vi trần số chúng sanh thân vân” là những mây quang minh kết thành những thân chúng sanh (mà không nói là nhiễm hay tịnh?) nhưng các ngài gia trì cho nhưng chúng sanh ấy dần dần tới chỗ phát tâm vô thượng bồ đề.


KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ lông trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật sát vi trần số bồ tát thân vân, biến pháp khắp hư không giới tán dương những danh hiệu của chư Phật làm cho chúng sanh tăng trưởng thiện căn.

GIẢNG: Sau khi ngài hóa hiện các thứ chúng sanh rồi, lại hóa hiện những vị Bồ Tát để chỉ tán dương niệm danh hiệu chư Phật thôi (tịnh độ).


KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật sát vi trần số bồ tát thân vân, khắp pháp giới hư không giới tất cả phật sát tuyên dương tất cả chư Phật Bồ Tát, những thiện căn sanh khởi từ khi sơ phát tâm.

GIẢNG: Từ lỗ lông hiện ra những vị Bồ Tát tuyên dương những thiện căn từ khi phát bồ đề tâm. Như sau khi phát bồ đề tâm thì tu công đức gì, làm những hạnh nguyện gì v.v… để khuyến khích người tu trên con đường Bồ Tát đạo.


KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật sát vi trần số bồ tát thân vân khắp pháp giới hư không giới, trong mỗi phật sát nơi tất cả phật sát tuyên dương tất cả bồ tát nguyện hải và thanh tịnh diệu hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.

GIẢNG: Ở đây ngài lại nói về những nguyện hải và diệu hạnh.


KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh Phổ Hiền Bồ Tát hạnh vân, khiến tâm tât cả chúng sanh được mãn túc, tu tập đầy dủ đạo nhất thiết trí.

GIẢNG: Đủ trí huệ và phước báo. Trong đoạn kinh này, nói toàn đến những lỗ lông, mà trong mỗi lỗ lông có vô lượng cõi, vô lượng chư Phật, vô lượng chúng sanh v.v.., tức là ngài đang giảng cho chúng ta thấy từ một chỗ bé nhất có thể nở ra thành những cõi, những quốc độ và những thân căn chúng sanh.


HỎI: Thấy trong một lỗ lông những cảnh giới như thế là thấy theo mắt trần, thấy vì thiền quán, hay thấy bằng cái tâm?

ĐÁP: Như tôi đã nói nhiều lần, nhục nhãn của chúng ta rất hạn hẹp, chỉ nhìn được một khúc rất ngắn, nên cái thấy này không phải cái thấy của nhục nhãn đâu. Những vị tu hành cao, thiện căn và phước trí như ngài Thiện Tài có gần đủ ngũ nhãn rồi, ngoài nhục nhãn, còn có thiên nhãn, huệ nhãn và pháp nhãn nữa. Cảnh giới này là ngài nhìn bằng pháp nhãn.


KINH: Thiện Tài thấy cảnh giới thần thông tự tại của Phổ Hiền Bồ Tát như vậy, thân tâm hoan hỉ, hớn hở vô lượng.

GIẢNG: Khi chúng ta tu hành đã khá, có được cơ duyên gần được một vị Bồ Tát lớn, đồng thời các ngài khởi tâm muốn gia trì cho chúng ta mà hiện những thần thông, thì tự nhiên trong tâm ta sẽ khởi lên những niềm hoan hỷ, lâng lâng, đồng thời cũng đắc nhiều thứ tam muội cùng đà la ni. Cũng vậy, Thiện Tài đi gần tới chỗ nhập pháp giới, nên ngài Phổ Hiền gia trì để nhập sâu hơn nữa.

“Thiện Tài thấy cảnh giới thần thông tự tại của Phổ Hiền Bồ Tát..”, tức là ngài hiện mọi thần thông, vì chư Phật dù không khởi một tâm niệm nào, những vẫn khởi thần thông tràn đầy thế gian. Nên trong kinh Tâm Địa Quán nói rõ, chư Phật là thần “thông biến hóa tràn đầy thế gian,” đừng tưởng thế giới là ù lì thế này thôi đâu, mà tất cả mọi sự, mọi vật đều biến đổi từng sát na một. Trong sự biến hóa vô cùng vô tận ấy, còn tùy theo cái tâm đập bập bềnh của chúng sanh mà hiện ra, nếu tâm ta nhạy bén, thanh tịnh, thì tiếp nhận được nhiều, còn tâm ta ù lì kém cỏi, thì chỉ nhận được rất ít thôi, đó không phải là lòng từ bi của các ngài không bình đẳng, mà do chính ám chướng sâu dày và nghiệp lực của mỗi chúng sanh không đồng mà thôi. Như người sanh manh, tuy không nhìn thấy được mặt trời, nhưng vẫn nhận được đầy đủ sức ấm áp của mặt trời tỏa xuống.


KINH: Lại thấy mỗi mỗi thân phần, mỗi mỗi lỗ chân lông của Phổ Hiền đều có Đại Thiên thế giới phong luân, thủy luân, địa luân, hỏa luân, đại hải, giang hà và những Bửu Sơn, Tu Di, Thiết Vi, thành ấp, cung điện, viên lâm…

GIẢNG: Đoạn kinh này lại nhắc lại tổng quát cho chúng ta nhớ. Cũng nhắc thêm những chi tiết để cho chúng ta thấy trong cõi Ta Bà này có những gì.

Trong kinh Hoa Nghiêm ở phẩm “Thành tựu thế giới,” khi một thế giới thành tựu, đầu tiên phong luân sẽ khởi lên, rồi đến thủy luân, những dòng nước xoáy, rồi đến địa luân, sau cùng mới đến hỏa luân, từ đó mới kết tụ tạo thành những tinh tú, ngân hà, hành tinh và trái đất này, mà trên những hành tinh có những đại hải, sông ngòi, bửu sơn, núi Tu Di, Thiết Vi, thành ấp, cung điện, viên lâm, rừng cây, núi đá. Cũng có tất cả trụ xứ của địa ngục, của ngạ quỷ, súc sanh, Diêm La Vương v.v…


KINH: Những cung điện của Thiên Long Bát Bộ, nhân và phi nhân…

GIẢNG: Có những trụ xứ của người, và cũng có những xứ sớ của những loài khác, như trong hư không này là xứ sở của phi nhơn. Đừng tưởng rằng trong hư không không có chúng sanh, ngược lại, chỗ nào cũng có đầy dẫy chúng sanh. Trong kinh nói những chi tiết rất lạ lùng, nói rằng, ở giữa hai thế giới có một khu vực rất đen tối, chúng sinh sống trong đó không bao giờ nhìn thấy được nhau, nhưng khi đức Phật phóng hào quang, thì chỗ đó cũng sáng lên, chúng sanh ở nơi đó hốt nhiên mới nhìn thấy nhau, nên ngạc nhiên kêu lên rằng, không hiểu chúng sanh ở đâu ra nhiều thế? Tất cả những cung điện, nhơn, phi nhơn, xứ sở đều được dệt bằng quang minh. Tới thế kỷ thứ 21 này, tôi chắc rằng khoa học sẽ chứng minh nhiều điều mà kinh đã nói từ ngàn xưa rồi.


KINH: Cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc, nhật nguyệt, tinh tú, gió mây, sấm chớp…

GIÁNG: Là nói đến các vật, tức là những y báo bên ngoài.


KINH: Ngày, đêm, tháng, năm, giờ, đến năm kiếp, chư Phật xuất thế, chúng hội Bồ Tát, đạo tràng trang nghiêm, những sự như vậy đều thấy rõ cả.

GIẢNG: Trên kia nói cung điện, tinh tú v.v… thì chúng ta có thể tưởng tượng rằng, một người có pháp nhãn có thể nhìn thấy được, còn đây nói đến ngày, đêm, tháng, giờ v.v… là nói đến thời gian. Nhưng thời gian đối với chúng ta nó không có hình tướng thì làm sao có thể thy được?


HỎI: XIn lỗi, cho tôi ngắt ngang để hỏi một câu, kẻo chờ đợi lát nữa tôi lại quên mất. Trong đoạn nàỵ, chắc phải có trí của Như Lai, tức là đến khi thành Phật thÌ ta mới có thể thấy được như thế, có thể thấy được thời gian. Có đúng chăng?

ĐÁP: Cũng chưa cần phải thành Phật, nếu chúng ta tu đến đệ bát địa, tức là đến vô sanh pháp nhẫn, lúc đó bắt đầu chúng ta thấy không gian và thời gian đã hóa giải rồi, vì vậy mới có thể biến hóa được.

Trong Hoa Nghiêm, phẩm thứ 33 “Thọ Lương của Như Lai,” có đề cập đến vấn đề thời gian. Nói rằng, một kiếp ở cõi Ta Bà này, tức là mười sáu triệu năm chỉ bằng một ngày một đêm ở cõi Cực Lạc, một kiếp ở cõi Cực Lạc, chỉ bằng một ngày một đêm ở cõi Ca Sa Tràng Như Lai v.v… Như vậy, chúng ta phải hiểu rằng, theo đạo Phật, thời gian cũng chỉ là vọng tưởng của tâm thức mà thôi, tâm thức càng thanh tịnh bao nhiêu thì thời gian trôi qua càng lẹ bấy nhiêu. Vì khi tâm thức thanh tịnh, thì tần số quang minh của tâm thức phát ra rất mau lẹ, rất cao, nên thời gian như thu ngắn lại, và thọ mạng chúng sanh lại dài ra. Như thọ mạng người nhân thế kém thọ mạng của chư Thiên nhiều lắm, thọ mạng trung bình của chư Thiên là năm trăm năm, mỗi một ngày trên trời dục giới dài bằng khoảng một trăm năm dưới nhân thế, vì tâm thức họ thanh tịnh hơn. Sở dĩ các vị Bồ Tát có thể thấy rõ ngày, đêm, tháng, giờ, năm, kiếp v.v… của các cõi vì các ngài đo lường mức dộ thanh tịnh của chúng sanh ở đó, nên khi đem so thời gian giữa các cõi, tịnh uế thì một kiếp ở cõi này, chỉ bằng một ngày một đêm ở cõi khác. Các ngài thấy, có lẽ do tâm ý, không phải do tâm nhãn. Nên nếu không hiểu lý “duy tâm sở hiện” thì không thể nào chấp nhận dược… Lấy một thí dụ dễ hiểu, một người ngồi thiền cao, họ có thể ngồi một lần hai, ba ngày, đến khi xuất thiền họ chỉ có cảm giác là thời gian hai, ba ngày vừa qua chỉ bằng khoảng một bữa ăn thôi, vì tâm thức người đó thanh tịnh. Ngay chúng ta đấy, chưa có kinh nghiệm gì về thiền quán hay một cơn định nhỏ nào, nhưng trong một ngày, vì một lý do này đó — đọc được một đoạn kinh hay, hoặc có một niềm vui nào đưa đến — làm cho tâm thức ta vui vẻ, nhẹ nhàng thanh thoát.., thì thấy một ngày qua rất nhanh. Ngược lại, nếu ngày hôm đó, ta gặp một điêu gì buồn rầu, hoặc gặp một tai nạn bất ngờ, làm cho tâm thức ta buồn rầu ủ rũ thì ngày đi qua một cách rất chậm chạp lê thê.


PHẬT TỬ (góp ý): Thưa ông, cũng giống như một nhà sinh vật học, khi nghiên cứu đời sống của một con ong, từ khi con ong nở ra còn là con ngài, rồi thành ong, rồi xây tổ v.v… tất cả việc làm và suốt đời sống của một con ong, nhà nghiên cứu học nhìn thấy suốt thời gian kéo dài chỉ khoảng vài tháng hay một năm chẳng hạn. Cũng vậy, các vị chư Thiên trên trời, nhìn xuống nhân gian chúng mình cũng giống hệt như thế, không khác!

ĐÁP: Đúng vậy nên trong kinh nói rất rõ rằng, các vị Chư Thiên nhìn xuống nhân thế, thấy chúng ta như một lũ giòi sống trong đám phân hôi, vì suốt ngày chúng ta chỉ có ăn, uống, toàn những thứ bất tịnh, rồi đi tiểu, đi tiêu, rồi khởi tâm tham dục, ngã mạn, sân hận lăng nhăng. Chúng ta sống trong “môi trường người” quen quá rồi, nên không biết, không để ý, nhưng chư Thiên thấy chúng ta hôi nhơ, khó thể chịu nổi. Ngày xưa, khi con người còn thanh tịnh hơn bây giờ, cũng có những trường hợp chư Thiên sống gần người, càng ngày đất trời càng xa cách, vì nghiệp chúng ta càng nặng, càng lún sâu vào bùn, nên chư Thiên không chịu nổi phải xa dần. Nên chúng ta cần luôn nhớ rằng, muốn tu hành phải cầu ra khỏi dục giới trước, và cửa ải dục giới rất khó qua, vì sự tham dục của chúng sanh rất nặng.


KINH: Như thấy rõ tại thế giới nầy, tất cả thế giới ở mười phương đều thấy rõ cả.

GIẢNG: Thấy rõ tất cả thế giới mười phương, đồng thời thấy rõ thời gian của từng các cõi, ngày, tháng, năm, kiếp v.v… ngắn, dài đều biết hết.


KINH: Như thấy thập phương thế giới hiện tại, tất cả thế giới tiền tế, hậu tế cũng thấy như vậy, nhưng vẫn chẳng tạp loạn nhau.

GIẢNG: Không những thấy thập phương thế giới trong hiện tại, mà còn thấy tất cả thế giới ở quá khứ thế nào, trong tương lai ra sao. Vì khi chúng ta vào được bạch tịnh thức, lúc đó ta có thể nhìn được tất cả tam tế. Còn chúng ta bây giờ, với tâm thức của người, chỉ trông được hiện tại, nhớ được quá khứ, vọng tưởng đến vị lai. Nhưng lên cao hơn như Phật, thì không nhớ tưởng gì cả, mà trông thấy rõ trước mắt, có thể thấy được trăm ngàn kiếp, vô lượng kiếp về trước, và cũng có thể biết được vô lượng kiếp về sau. Nhưng không bao giờ các vị cao nói ra, vì sẽ làm rối loạn luật tắc nhân quả, nghiệp báo. Như ngài Xá Lợi Phất, có thể thấy tám vạn kiếp của một con chim ngói về thời quá khứ, huống chi là một bậc Đại Giác (Phật). Trong kinh Hoa Nghiêm bao giờ cũng khẳng định là biết tất cả tiền tế, hậu tế, tất cả quá khứ, vị lai.


KINH: Như ở chỗ Tỳ Lô Giá Na Như Lai thị hiện sức thần thông như vậy, tại Liên Hoa thế giới, chỗ của Hiền Thủ Phật, hiện sức thần thông cũng như vậy.

GIẢNG: Chỗ Tỳ Lô Giá Na Như Lai chính là cõi Ta Bà này, và đức Thích Ca Mâu Ni cũng chính là đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai, là hiện thân là một vị cổ Phật, nhưng cũng hiện thân là ngài Thích Ca. Thì thấy cõi Phật Thích Ca này như thế, đồng thời cũng thấy nhiều cõi khác như Liên Hoa thế giới, là một chỗ hết sức thanh tịnh, còn thanh tịnh hơn cõi Cực Lạc của đức A Di Đà nhiều, là chỗ của Hiền Thủ Phật hiện sức thần thông cũng như vậy.


KINH: Nhẫn đến tại tất cả thế giới mười phương, chỗ của tất cả chư Phật Như Lai, cũng hiện sức thần thông như vậy.

GIẢNG: Không những các ngài hiện sức thần thông trong một, hai cõi, mà lại hiện sức thần thông ở tất cả các cõi mười phương.


KINH: Mười phương tất cả thế giới, trong mỗi mỗi vi trần đều có pháp giới chư Phật chúng hội…

GIẢNG: Trong bất cứ thế giới nào cũng có chúng hội của chư Phật.


KINH: Chỗ mỗi đức Phật, Phổ Hiền Bồ Tát ngồi trên tòa Bửu Liên Hoa Sư Tử hiện sức thần thông cũng đều như vậy. Trong thân của mỗi mỗi Phổ Hiền đều hiện tất cả cảnh giới tam thế, tất cả cõi Phật, tất cả chúng sanh, tất cả Phật xuất hiện, tất cả Bồ Tát chúng, nghe ngôn âm của tất cả phật, pháp luân của tất cả như Lai chuyển. Lại thấy công hạnh của tất cả Bồ Tát, thần thông du hí của tất cả Như Lai.

GIẢNG: Đây chính là Nhập pháp giới trọn vẹn. Sau khi nhìn ngắm tất cả thần thông của ngài Phổ Hiền rồi thì thâu tóm lại rằng trong thân của mỗi mỗi Phổ Hiền đều hiện tất cả cảnh giới tam thế, các cảnh giới hiện tại, quá khứ, vị lai đều hiện lên trước mắt, không có một cõi Phật nào không ở trong thân ngài Phổ Hiền, tất cả chúng sanh ngọ nguậy lăng xăng đi ngang, đi dọc, cãi nhau, đánh nhau, giết nhau, sân hận, tham lam, si mê, tà kiến v.v… đều nằm trong thân ngài. Tất cả Phật xuất hiện, tất cả Bồ Tát chúng, các ngôn âm của tất cả chúng sanh, chúng sanh có những ngôn âm sai khác từng loài, tiếng người, tiếng quỉ, tiếng của Càn Thát Bà, tiếng của Long Vương v.v… ngài đều nghe thấy hết, vì tất cả đều ở trong tâm ngài, vì đó là sự biến hiện của tâm, như thế mới gọi là Phật, như thế mới gọi là NHẬP PHÁP GIỚI trọn vẹn.


HỎI: Nếu chỉ một thân của ngài Phổ Hiền đã hiện lên tất cả các thân Phật, thân các vị Bồ Tát chúng, vậỵ thì trong những vị Phật khác thì sao?

ĐÁP: Cũng thế, nói một cách rõ hơn là, phàm phu chúng ta cứ chấp có mình, có người, có tự, có tha. Nhưng trong Phật giáo lại dạy khác. Ngài dạy rằng, tất cả đều liên quan đến nhau, và CHẬP CHÙNG ẢNH HIỆN. Như tôi với ông, ông ngồi đấy, có nghĩa rằng ông đang ngồi trong tâm thức của tôi và ngược lại, tôi ngồi đây, tức là tôi đang ngồi trong tâm thức của ông. Nói một cách bao quát hơn, tôi ngồi đây, tất cả những vị ngồi nghe pháp trong đạo tràng này, cùng tất cả các cây cỏ, chùa chiền v.v.., chung quanh tôi đều ở trong tâm thức của tôi. Nhưng đồng thời, mỗi vị đều có tâm thức của vị đó, nên tôi cũng ở trong tâm thức của các vị. Vậy thì khi tôi nhìn pháp giới này, nhìn ngôi chùa này, cây cỏ, núi sông, mặt trời, mặt trăng kia là tôi nhìn theo một trường lực quang minh riêng của tôi, nó là một thứ thế giới đặc biệt của riêng tôi. Cũng vậy, ông cũng có một trường lực tâm thức riêng của ông nhìn vào pháp giới này, mà mỗi một tâm thức của mỗi người đều là một “trung tâm ảnh hiện pháp giới.” Mỗi chúng ta là một ngọn đèn đốt lên, rọi sáng, tất cả xen lẫn vào nhau, nhưng mỗi một ngọn vẫn đều có những đặc tính riêng của nó, như đèn dầu hôi, đèn điện, nến, bạch lạp v.v…, dù là loại gì nó cũng đồng một sự sáng. Chư Phật cũng thế thôi, các ngài nhìn tất cả pháp giới đều trong thân ngài, những vị Phật khác cũng đều nhìn thấy như thế, tất cả pháp giới cũng đều hiện trong thân các ngài. Giống như nhiều cái gương, mỗi cái đều óng ảnh phản chiếu tất cả sự vật chung quanh nó, nếu những cái gương tâm thức ấy trong sáng phẳng lặng tột bực thì nó soi chiếu lẫn nhau và mọi vật một cách rất trung thực, ảnh hiện trong nhau trùng trùng, điệp điệp (Chư Phật). Nhưng nếu những tấm gương tâm thức lồi lõm, méo mó không đều, thì nó cũng vẫn có khả năng ảnh hiện những sự vật chung quanh, cũng nổi lên trùng trùng điệp điệp, nhưng là những trùng điệp đầy lồi lõm do những vọng tưởng, vọng tình, nên nó đã tạo thành những hình ảnh méo mó, lệch lạc, lồi lõm tùy theo nghiệp lực của mỗi loài chúng sanh, và sự phản ảnh ấy không trung thực (trường hợp của chúng sanh).


HỎI: Như vậy có phải ngài Phổ Hiền Bồ Tát như là một biểu tượng cho tất cả?

ĐÁP: Đúng vậy, ngài Phổ Hiền là biểu tượng của một vị sắp đến quả vị Diệu Giác. Nhưng không phải chỉ biểu tượng “Symbolic,” mà ngài vẫn có thực, có thể hiện thân độ sanh được.


HỎI: Đây là chỉ nói đến các vị Bồ Tát, còn các vị A La Hán thì sao?

ĐÁP: Mức độ A La Hán còn thấp hơn bình diện này rất xa, tâm thức của các ngài chỉ mới đi được độ một phần ba đoạn đường, thành tựu quản không, chưa ra quản giả và đi sâu vào trung đạo. Còn ở đây là bờ mé của sắc và không, tâm thức của các ngài đã đi sâu vào trung đạo, là bờ mé để các vị sắp bước vào Nhập pháp giới trọn vẹn rồi.


HỎI: Trong kinh Pháp Hoa, cuối cùng cũng là ngài Phổ Hiền xuất hiện, kinh Hoa Nghiêm cũng vậy? Đó là một sự tình cờ hay có một ý nghĩa nào khác?

ĐÁP: Ngài Phổ Hiền tượng trưng cho cái diệu hạnh, phải làm tất cả những diệu hạnh ấy một cách ba la mật để cuối cùng mới đến được Phật quả. Ngài Phổ Hiền cũng là một vị Phật, nhưng ngài lại tượng trưng cho diệu hạnh, cũng như ngài Quán Thế Âm tượng trưng cho Đại Bi. Nhưng cũng phải hiểu rằng, các ngài vừa tượng trưng cho một hạnh, nguyện nào đó, vừa là Phật.

Khi chúng ta xuống phố chơi, nhìn thấy mọi cảnh giới, nhà cửa, chùa chiền, phố xá, người đi như mắc cửi v.v…, ta quán rằng, những thứ đó đều mọc trong tâm mình ra, tâm ta ảnh ra pháp giới ấy. Đó là lối quán cao nhất trong đạo phật, có thể gọi là quán như huyễn. Phải có một định lực cao mới có thể ngồi yên trong một chốn lao xao, ồn ào mà thấy tất cả những thứ đó đều mọc từ trong tâm mình, lúc đó chúng ta hơi nhập vào pháp giới một chút rồi, tức là thấy chúng sanh ngọ nguậy trong tâm mình, biết rằng những thứ đó không thật có, đều chỉ là những ảo ảnh, do từ nhân duyên nhiều kiếp kết tụ, đến kiếp này nở ra như vậy. Ngược lại, chính chúng ta cũng ở trong tâm các chúng sanh ấy ra. Đó là sự trùng trùng ảnh hiện của pháp giới này, vì không có một cái gì đơn thuần hay riêng tư độc lập, mà tất cả đều trùng điệp thẩm thấu liên quan với nhau, nương vào nhau để hiện lên mà thôi.


HỎI: Với tâm quán chiếu ở mức độ bao la, đó có giống như bên Duy Thức nói đến chữ “Đại viên cảnh trí” không?

ĐÁP: Duy Thức là sự giải thích của con đường hiện tướng đi vào vọng, lại còn hơi chấp có. Nhưng khi tâm thức lên đường TRỞ VÊ, lặn sâu vào Tàng thức, chuyển thành Bạch tịnh thức.., thì vào cảnh giới của Hoa Nghiêm. Ngày xưa, sau thời ngài Long Thọ khoảng hai trăm năm, trong đạo Phật có hai trào lưu: Một là Pháp tướng tông (Duy Thức), chấp có. Hai là Bát Nhã tông, chấp không. Đệ tử của hai phái đó thường cãi nhau kịch liệt, vì các vị đều chấp vào con đường của mình, đều có lý giải riêng, bên nào cũng nghĩ mình là đúng, mà không hiểu rằng cả hai đều dung thông nhau.


KINH: Thiện Tài thấy vô lượng đại thần thông lực bất tư nghì của Phổ Hiền Bồ Tát như vậy, liền được mười thứ trí ba la mật…

GIẢNG: Trong Hoa Nghiêm nói rõ, Bồ Tát nếu không có thần thông thì không thể nào độ sanh, ở mức độ thấp, Phật cấm thần thông, vì nếu phô trương thì chỉ làm tăng thêm ngã mạn. Nhưng lên cao, bắt buộc phải có thần thông để độ sanh. Vì khi một vị Bồ Tát ngồi thuyết pháp, nếu có một vài loại chúng sanh, như Ma Ba Tuần đến bảo rằng, ông nói thì tôi thấy cũng hay đây, nhưng ông nói được mười phần thì tôi cũng có thể nói được tám, chín phần, vậy ông phải hiện thần thông cho tôi xem tôi mới chịu tin. Vị Bồ Tát này bắt buộc phải hiện thần thông, còn không hiện được thì chỉ biết có lý mà chưa có sự. Trong các vị Tổ Thiền Tông bên Tây Trúc, các ngài hiện thần thông rất nhiều, khi tịch diệt bao giờ cũng bay lên không cao bảy cây đa la, thân chói sáng như mặt trời, trên tuôn lửa, dưới tuôn nước, để cho chúng sanh ngắm, sau từ từ đáp xuống đất ngồi xếp bằng tròn mà thị tịch.


KINH: Như là, trí ba la mật trong mỗi niệm đều có thể đi khắp tất cả cõi phật. Trí ba la mật trong mỗi niệm đều có thể qua đến tất cả cõi Phật. Trí ba la mật trong mỗi niệm đều có thể cúng dường tất cả Như Lai. Trí ba la mật trong mỗi niệm ở khắp chỗ của tất cả Như Lai để nghe pháp và thọ trì. Trí ba la mật trong mỗi niệm tư duy pháp luân của tất cả Như Lai. Trí ba la mật trong mỗi niệm biết sự đại thần thông bất tư nghì của tất cả Phật. Trí ba la mật trong mỗi niệm nói một câu pháp tột thuở vị lai biện tài vô tận. Trí ba la mật trong mỗi niệm dùng thân bát nhã quán tất cả pháp. Trí ba la mật trong mỗi niệm nhập tất cả pháp giới thiệt tướng hải. Trí ba la mật trong mỗi niệm biết tâm của tất cả chúng sinh. v.v…

GIẢNG: Khi Bồ Tát tu lên trên, độ cuối cùng là độ trí.

Tôi xin ngưng ỏ đây, để dành một ít thì giờ trả lời câu hỏi của một vị Phật tử từ kỳ trước. Đây là một câu hỏi rất hay, nên tôi muốn đem ra mổ xẻ xem quý vị nào có ý kiến gì không.


HỎI: Trong sách có kể lại chuyện ba anh em của ngài Thế Thân cùng tu, và cùng xin nguyện được lên cõi trời Đâu Xuất sau khi mãn báo thân này. Và có hẹn nhau rằng, ai chết trước sẽ về báo mộng cho những người còn ở lại. Sau đó, Ngài Sư Tử chết trước, không thấy về báo mộng, vị thứ hai là ngài Vô Trước (hay Thế Thân gì đó mà tôi không nhớ rõ), sau khi ngài chết xong khoảng ba năm sau mới về báo mộng. Ngài kể rằng: “Tôi đã lên cung Đâu Suất vào trong Nội Điện, chỉ được nghe một thời pháp rồi xuống đây ngay để báo mộng cho em, vậy mà thời gian dưới này đã trôi qua ba năm trường. Tôi cũng có gặp anh Sư Tử vẫn còn lảng vảng ở Ngoại Viện vì chỉ thích nghe Thiên nữ đàn hát chứ không vào nghe pháp.” Vậy câu hỏi được đặt ra là, tại sao trên cung trời ngài Thế Thân chỉ kịp vào trong nội điện, nghe pháp được một lúc thôi, thì xuống trần đã là ba năm. Vậy thì người trần thế trong ba năm làm được rất nhiều việc, có thể lấy vợ, sinh con, đi học ra trường, đi làm v.v…, vậy thì tại sao trên trời lại… kém thế? thời gian quá ngắn, chẳng kịp làm được việc gì cả? chỉ nghe được một thời pháp mà thôi?

Quí vị nghĩ sao về câu hỏi này? có ai có ý kiến gì không?

(Trong đạo tràng xôn xao, mỗi người mỗi ý, có vị giải thích theo khoa học, có vị giải thích theo tâm thức, có vị dựa trên Phật giáo để giải thích. Người đánh máy chỉ lấy ra một vài ý kiến sát với đạo Phật nhất mà thôi.)


Ý kiến của ông Mậu: Theo con mắt Phật giáo, tôi nghĩ rằng trên ấy thời gian và không gian, có lẽ… không có nhiều, còn dưới này có thời gian và không gian, nên chúng ta nghĩ rằng thời gian dài ngắn chứ thực ra… không có.

ĐÁP: Câu trả lời của ông nói cũng hay đấy, nhưng trên trời vẫn có không gian và thời gian, vì ở mức độ các tầng trời nó chưa được hóa giải, song thời gian và không gian hơi có khác, vì trên đó nó đã thăng hoa nhiều rồi.


Ý kiến của anh Xứng: Trên cõi trời, mạng sống chư Thiên rất dài, vì trong kinh nói, ở tầng trời Tứ Thiên Vương (tức là ở dưới cung trời Đao Lợi), một ngày một dêm bằng năm mươi năm ở cõi trần gian này, và thọ mạng của các vị trên đó là năm trăm năm. Nếu làm một con tính thì so với thời gian ở nhân thế chắc khoảng nhiều triệu năm, nên họ cũng vẫn làm rất nhiều việc, thọ mạng chúng ta chỉ có khoảng bảy mươi đến tám mươi năm mà thôi, thì ăn thấm gì với cái nhiều trên trời?

ĐÁP: Ha… ha…, anh trả lời hơi… lệch qua một bên rồi, vì anh không giải đáp đúng vào câu của người hỏi. Người hỏi có ý chê các vị trên trời, vì chỉ cần cùng một khoảng thời gian như thế, mà dưới nhân gian chúng ta làm được rất nhiều chuyện, mà trên trời chỉ có kịp nghe một thời pháp thôi. Nên tôi nghĩ, chắc ông Minh Đạo, người đặt câu hỏi, chưa lấy làm thỏa mân lắm đâu.


Ý kiến của cháu Toàn: Theo cháu, cháu chỉ muốn đưa ra một thí dụ nhỏ để quí bác nghĩ xem có đúng không? Dụ như có hai anh học trò vào lớp học, chỉ ngồi trong lớp khoảng một tiếng thôi, một anh thì ngồi mơ mộng chỉ nghĩ ngợi lung tung nên chỉ cần trong một tiếng đồng hồ anh có thể vẽ mộng rất nhiều chuyện, nhưng không có chuyện nào ra chuyện nào cả. Ngược lại, anh học trò kia, cũng thời gian là một tiếng, chỉ lo chăm chú làm bài thi. Vậy thì quan niệm thời gian đối VỚI anh học trò ngồi vẽ mộng rất dài, ngồi mãi mà giờ học không tan, còn đối với anh học trò kia, vì làm bài chăm chú nên một tiếng trôi qua đối với anh ta trôi qua rất nhanh. Nên quan niệm thời gian chỉ khác biệt theo cái nhìn của mỗi người. Cũng vậy, người nhân thế chỉ lo làm những chuyện… tùm lum, không có chuyện nào ra chuyện nào nên thấy dài, nhưng người trên trời lo thiền định thì lại thấy thời gian rất ngắn.

ĐÁP: Theo ý tôi, chú nhỏ này nói có lẽ đúng nhiều nhất, nhưng chưa diễn tả được rõ ý chính.


Ý kiến của ông Tâm: vấn đề thời gian ở đây chỉ là thời gian vọng tưởng, nên chúng ta chấp có thời gian có dài, có ngắn, nhưng thật ra thời gian không phải như vậy. Nên khi so sánh thời gian thì ta cứ tưởng ta làm được nhiều việc, nhưng rốt cục chẳng làm ra việc gì chính đáng cả, chỉ ăn với ngủ thôi.

ĐÁP: Ông Minh Đạo (người đã đặt câu hỏi) nghĩ sao về những câu trả lời của các vị trong ban kinh? Ông có thỏa mãn về những sự trả lời nào không?


Minh Đạo: Từ nãy giờ, những câu trả lời không giải thích được thỏa đáng hẳn vào câu hỏi của tôi. Vì sao? Vì nếu theo như cháu Toàn nói, vấn đề thời gian chỉ là của tâm lý mỗi cá nhân thôi, vì cùng một giờ, mà tâm lý của mỗi cậu học trò khác nhau. Câu trả lời này, nếu suy tư sâu xa, thì vẫn… chưa thấy ổn, vì sao thế? Vì cũng cùng một thời gian, ở nhân thế là ba năm, ở trên cung trời Đâu Suất chỉ ngắn bằng một thời kinh, vậy tại sao trên trời làm cái gì mà chậm thế? Trong khi người nhân gian đã làm được bao nhiêu chuyện to lớn rồi.

Ý kiến của Anh Khiêm: Theo tôi nghĩ, nếu đem so sánh loài người chúng ta với các vị trên trời chỉ giống như những lũ côn trùng so sánh với chúng ta vậy. Như con phù du chẳng hạn, chỉ cần một ngày là đã xong một đời của nó. Nếu nhìn theo thời gian vật lý thì như nhau, một ngày của chúng ta, bằng một kiếp của con phù du, nhưng đứng trên tâm thức thì có khác biệt. Nên tuy chúng ta gọi là làm được nhiều việc thật, nhưng tâm thức chúng ta chẳng biết gì, còn một bài pháp mà ngài Thế Thân nghe được trên cung trời, tôi nghĩ (hơi ngập ngừng vì không chắc ý) nó… nó… vi diệu…, thâm sâu nhiều…

ĐÁP: So với con giun, con dế, một kiếp của nó chỉ kéo dài độ vài ngày, sinh con đẻ cái, rồi chết. Trong khi con người, khoảng thời gian vài ngày chẳng làm được gì cả? như vậy chẳng nhẽ con giun (trùng) hơn người chăng? Ha… ha…, nực cười thay cho cái vòng luẩn quẩn của pháp giới này. Thử tượng tượng, một đám giun, dế họp nhau lại,( như chúng ta họp ở đây), vỗ ngực vênh vang cho rằng, loài trùng chúng tôi còn hơn loài người các ông xa, vì chúng tôi đây, làm được lắm chuyện hơn các ông nhiều lắm, ha… ha…

…(Cả pháp hội cười ồ!)…

Nay, tôi xin trả lời câu hỏi của ông Minh Đạo…

Theo như nhận xét của tôi về những câu trả lời của các vị trong ban kinh, tôi thấy câu trả lời của cháu Toàn, ông Tâm và anh Khiêm có nhẽ gần đúng hơn cả. Vì vấn đề là chúng ta phải phân tích những sự việc, và thế nào là việc? Theo trong kinh vẫn thường dạy, trên trời ít việc, vui nhiều, khổ ít, duyên lự ít, (duyên lự là lo nghĩ tùy theo nghiệp duyên), định lự nhiều, (tư lự trong những cơn định). Còn thế gian thì vui ít, khổ nhiều, duyên lự rất nhiều, lo lắng nhiều quá, gần như bị nghiệp lực hoàn toàn chi phối, tức là lúc nào cũng phải lo nghĩ về việc phải làm. Nói một cách khác, “việc” là gì, đều chính do duyên lự mà ra, phải nghĩ cái này, cái khác, và làm chuyện này, chuyên nọ. Thử nghĩ kỹ, con người rất nhiều việc, riêng chỉ nói đến thân này thôi cũng đủ kéo ra biết bao nhiêu việc, như ta phải lo cầy cấy, canh tác, trồng trọt, trồng dâu nuôi tằm, dệt vải, xây cất v.v… tất cả những việc đó để lo cho con người có một đời sống tương đối dễ thở, rồi sau đó lại phải nấu cơm, rửa bát v.v…, lớn lên lấy vợ, rồi sinh con. Mà chuyện tình dục của con người rất… phiền toái, chỉ cần cao hứng một chút là ra một đứa con, rồi phải nuôi, phải dạy dỗ, đau khổ, hay sung sướng vì nó v.v… cứ thế, chuyện này tiếp nối chuyện khác không lúc nào ngơi nghỉ. Ngay cả đến sự giải trí của chúng la cũng phải làm đủ mọi chuyện, từ những đồ chơi giải trí phải mất công chế tạo, sau đó cũng phải đến chỗ giải trí, như nghe nhạc, nhảy nhót, đánh bạc, uống rượu v.v… chỉ có một thú giải trí ít tốn tiền và công nhất là thú đọc sách thôi. Rồi đến khi chết thì đầy sự sợ hãi, có khi bệnh tật kéo dài nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm. Tóm lại, chúng ta Rất-nhiều-việc, và việc của chúng ta là do cái xác thân này, còn duyên lự nhiều, vì hay so đo, chấp chước nhiều nên thành những việc như thế. Và phải hiểu việc của người và việc của trời khác nhau thế nào, đằng nào tiến bước nhanh hơn. Ngược lại, trên trời vui nhiều, khổ ít, không bao giờ phải lao tác mới có cơm ăn, áo mặc, các vị chư Thiên không cần phải dệt vải để có áo mặc, không cần cầy cấy để có cơm ăn, thức ăn cứ hiện ra thôi, ăn xong lại biến đi, mà trên đó lại có những thứ cây mọc ra những loại áo rất đẹp, các chư thiên cứ lấy những áo đó khoác lên người, cung điện cũng không phải xây cất, sanh ra đã có cũng điện sẵn rồi, khi nghe Phật nói pháp cũng có thể mang luôn cả cung điện đi theo, (vì nó dính vào người), suốt ngày chỉ rong chơi trong vườn Hoan Hỉ, chỉ nghe những thiên nữ múa hát và những cây phát ra tiếng âm nhạc, ngay chuyện tình ái của họ cũng rất nhẹ nhàng, Thiên Tử và Thiên Nữ chỉ nhìn nhau mỉm cười, không có sự chung đụng gối chăn, tinh huyết, thì người nữ sẽ thọ thai ngay, cái thai là một cục bứu mọc trên đầu gối hay ở nách, cái thai ấy rơi xuống thành thiên tử, không cần phải nuôi nấng gì mà cứ theo thời gian lớn lên thôi, chỉ ăn những thức ăn trên trời tự nhiên hiện đến, thỉnh thoảng lại đi vào Thiện Pháp Đường, nghe vua Đế Thích nói pháp về thập thiện, hay vào cung Đâu Suất nghe ngài Di Lặc nói về Bát Nhã và giảng duy thức. Nhưng chỉ nghe một thời thôi các vị có thể đắc đạo được ngay, trong khi dưới nhân gian chúng ta cả nghìn bài pháp, hay vài vạn bài pháp mà chưa thấy đắc được gì cả.

Tóm lại, nhân gian chúng ta quá dở, tâm quá sức cạn cợt, khổ lụy nhiều, chỉ để cho nghiệp lực tự do tung hoành, nên chúng ta có đủ các thứ duyên lự đưa đến đủ các việc lăng nhăng, nhưng không việc nào có thể đưa chúng ta đi lên cả.

Vì vậy, nên dưới nhân thế trong ba năm, ta có thể đọc ba trăm cuốn sách, nhưng tâm thức chẳng tiến được mấy tí, ngược lại, càng ngày càng đi vào vọng, càng ngày càng duyên lự nhiều, càng phiền lụy nhiều. Nhưng các vị chư Thiên chỉ cần nghe một câu pháp, có thể đi vào bình diện tâm thức sâu hơn, và có thể tiến tu được. Nên mỗi nơi có những sự việc của nó, và những cái vui hay khổ lụy của riêng nó.

Tôi giải như thế không biết ông có thỏa mãn được chút nào chăng?


Minh Đạo: Trước khi đặt câu hỏi, tôi có dẫn chứng một đoạn kinh trong Pháp Hoa, sau khi đức Phật giảng kinh”Vô Lượng Nghĩa xứ,”ngài nhập vô lượng xứ định để biến tâm thức của chúng hội thấy được tất cả những sự thành, tựu, hoại, không của pháp giới, trùng trùng bao nhiêu cõi biến hóa, mà tất cả chúng hội đều thấy rõ. Nếu so với thời gian của nhân gian để nhìn thấy những dữ kiện ấy phải mất một khoảng thời gian dài hằng hà sa số kiếp, vậy mà ngài chỉ thu lại bằng thời gian uống xong một chung trà.

ĐÁP: Trong trường hợp này lại khác, vì có thần lực của Phật gia trì, nên thời gian kéo dài hay ngắn vô ngại, tùy tâm ngài khởi lên thế nào chúng hội sẽ thấy như vậy. Vì thời gian và không gian đối với ngài đã được hóa giải, ngài có thể nhìn thấy ba đời (quá khứ, hiện tại, vị lai) hiện tiền trước mắt, mà thần lực của các ngài thì vô cùng, ngài có thể gia trì cho một người, nhiều người, một cõi, nhiều cõi, nhẫn đến hằng hà sa số cõi nhìn thấy không biết bao nhiêu biến chuyển mà những người được Phật gia trì cho thấy chỉ có cảm giác trải qua một thời gian rất ngắn. Nhưng ở đây, câu trả lời chỉ nói theo nghiệp riêng của mỗi loài chúng sanh có mỗi khác, vì tâm thức bất đồng, nên thời gian có mau, có chậm mà thôi. Cũng vậy, như một con giun (trùng) không thể vênh vang chê loài người làm ít việc, vì những việc của con giun làm không phải là “việc,” vì mức độ tâm thức của nó quá thấp, chỉ đi qua một chu kỳ sinh lý thế thôi, mà không có một chu kỳ tâm thức vi diệu. Và những việc của loài người, con trùng không thể làm được, nên nó không thể vênh vang vỗ ngực nói hơn người. Cũng vậy, chúng ta cũng không thể tự cho là hơn các vị chư Thiên cõi trời, vì những việc của chúng ta còn ở trong một mức độ tâm thức thấp và còn rất thô kệch, chỉ có ăn, uống, ngủ nghỉ và đắm nhiễm trong dục lạc… Còn người có một tâm thức cao hơn một chút thì cũng biết đọc sách, nếu chỉ là những sách lăng nhăng của thế gian thì tâm thức càng ngày càng đục ngầu, làm con đường vọng để cho chúng ta đi xuống, trôi lăn mãi. Trong khi các vị chư Thiên chỉ nghe một thời pháp tâm thức họ có thể thăng hoa. Nên chúng ta phải biết nhìn những cứu cảnh kết quả của sự làm việc hơn là so sánh nhiều hay ít, nói cách khác, ta phải nhìn cái phẩm nhiều hơn cái lượng.


HỎI: Vậy tại sao bên tiểu thừa khi một vị Tư Đà Hoàn chết đi còn phải trở lại cõi này bảy lần? Nếu mức độ tâm thức đã đạt đến bực thánh như thế thì còn phải trở lại làm chi?

ĐÁP: Đúng, trong kinh có nói các vị Tư Đà Hoàn (nhập lưu, tức là được nhập vào hàng thánh), còn trở lại dục giới bảy lần, nhưng trong dục giới có cả tầng trời chư Thiên luôn chứ không phải chỉ có trần gian này. Còn vị Tu Đà hàm chỉ phải trở lại một lần thôi.

Con người là ở một mức độ cùng cực (situation limite), nghĩa là nó ở mức độ đi xuống rất dễ, mà đi lên cũng được, và cũng là một chỗ giằng co giữa thiện và ácgiữa tịnh và uế, giữa thăng hoa và chìm nổi, giữa đời và đạo v.v… tâm thức con người tương đối cao, đồng thời phiền lụy cũng rất ghê gớm, nó là một chiến trường khốc liệt nhất, làm cho chúng ta đọa cũng dễ, hay thăng hoa đi lên cũng được. Bởi vậy nên con giun (trùng) không thể so sánh với loài người được vì nó chưa lên đến mức độ tâm thức cao như người. Còn nói đến các vị chư Thiên đã đi qua cái cửa ải khó nhất là cửa ải loài người rồi, đã đi lên được ít nhiều, tâm thức nhẹ nhàng thanh tịnh hơn nên dễ chuyển hóa hơn.


HỎI: Trong kinh có danh từ “sát na” đó là dựa trên cái sát na thời gian ở đâu? trên trời hay cõi nhân gian này?

ĐÁP: Ở mỗi nơi, có thời gian và sát na riêng của nó. Như dưới nhân gian, trên trời, loài côn trùng, một hệ thống thái dương hệ, hay bên cõi Cực Lạc v.v… mỗi một nơi có một thời gian riêng và sát na của nó, mà cái sát na là chỉ một thời gian ngắn nhất của mỗi cõi. Nhưng đều tùy theo tâm thức và nghiệp lực của chúng sinh mà thời gian dài hay ngắn, nên không thể nói sát na ở mọi chỗ đều giống nhau.



Diễn Giảng

PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI


Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng

 

 

Ngày 9 tháng 6 năm 1991

 

Hôm nay là buổi thuyết giảng thứ một trăm hai mươi chín về kinh Hoa Nghiêm và đồng thời cũng là buổi thuyết giảng thứ mười sáu về Đại Bát Nhã tại chùa này.

Trong ban Kinh Hoa Nghiêm chúng ta từ năm, sáu năm nay, đã có một số người lần lượt ra đi. Bắt đầu là cụ Giáo Anh, sau đến bà Bách, mới đây là con của anh Đạo, tuy rằng người con anh này còn rất trẻ. Tôi chắc rằng, trong ban kinh này, những vị lớn tuổi, đôi khi cũng cảm thấy thấp thỏm về chuyện ra đi ấy, nghĩ rằng mình sắp sửa phải qua một cái cầu khỉ trơn như mỡ rất khó đi qua. Nhưng riêng tôi, tôi nghĩ rằng, người tu hành giữ giới thi-la, không trọng thân mạng vì thường dùng con mắt ảo để quán sát thân mình. Lại nữa, trong kinh có nhắc, những người tu hành theo lối quán như huyễn, lên đến mức độ cao thì ngay tụi quỷ đi kiếm mình cũng không thể thấy được. Vì vậy, y cứ vào hai lời kinh trên, tôi mong quí vị nên tập quán huyễn, vì thực đúng như vậy.

Khi chúng ta còn bám vào kinh, còn tụng kinh đều, còn tin vào kinh, đôi khi quán huyễn, tôi chắc rằng mọi sự đến với chúng ta đều nhẹ nhàng và an lạc, ngay cả cái chết có đến cũng không làm gì được chúng ta cả, cùng lắm là chỉ mất đi cái thân căn này, nhưng giới căn huệ mạng không bao giờ mất.

Nên tôi thường nhấn mạnh và nhắc đi nhắc lại nhiều lần về sự “khởi vọng,” về chữ “vô minh bất giác.” Chắc quí vị đã nghe nhiều nhưng có thể chưa lý hội được rõ. Vậy thì thế nào là Vô minh bất giác? Vô minh bất giác là hôi nhiên quên rằng chính mình và pháp giới này, tất cả chúng sanh, núi non, cây cỏ, trăng sao v.v… đều từ biển diệu tâm ấy hiện ra, không có một cái gì có thực, nhưng hốt nhiên, bất giác, tương tự như trong biển lớn ấy (diệu tâm) có một đợt sóng khởi lên, tự tách ra ngoài, rồi quay đầu nhìn lại biển tâm ấy. Vì vậy tôi hay nhấn mạnh đến tác động soi gương của Diễn Nhã Đạt Đa trong kinh Lăng Nghiêm, bỗng nhiên tự soi gương vào chính cái tâm mình, và trong tác động soi gương ấy, làm lóe lên tất cả những mê vọng. Mê vọng thứ nhất là y báo bên ngoài (tất cả cảnh vật bên ngoài), cứ tưởng là có thực, và tồn tại độc lập với tâm mình. Mê vọng thứ hai chính là thân căn này lại tưởng là có thực, vì quay lại tự chiếu soi nên lóe tất cả những mê đồ ảo vọng, vì tâm ánh ra tất cả những mê vọng ấy và chúng sanh cứ tưởng là thực. Nhưng trong đạo Phật rất kỵ sự quay lại chiếu soi ấy, như trong kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương, có kể một câu chuyện “không quay đầu lại” rằng: Có năm trăm người lái buôn ra biển tìm châu báu, giữa đường gặp bọn quỷ La Sát hóa làm những gái đẹp, đem tất cả về chia nhau để làm chồng. Một hôm vị chủ thuyền được một quỷ La Sát (không biết vì duyên cớ gì) hồi tâm, mách anh rằng, đây là hòn đảo của quỷ La Sát ở, không tin, chàng hãy qua bờ biển bên phía Nam sẽ thấy một chỗ chất toàn xương người. Quả nhiên, khi vị thương chủ đi về phía ấy thấy núi xương người thật. Lúc đó, có Đức Quán Thế Âm hóa làm con thần mã ở bờ biển, mách rằng, ngày mai, ngươi hãy gọi tất cả những người muốn về cố quốc tới đây, ta sẽ đưa các ông về, nhưng với một điều kiện là không được quay đầu nhìn trở lại… Hôm sau, năm trăm người thương chủ ra biển theo ngài Quán Thế Âm, (lúc bấy giờ là Thần Mã), khi thần mã sắp cất cánh bay, tụi quỷ La Sát hiện hình những cô gái đẹp, kêu la thảm thiết, kể lể bao chuyện mặn nòng thắm thiết với nhau, những người quay đầu lại đều bị rớt xuống biển, lúc bây giờ tụi quỷ vớt lên ăn thịt hết. Sự “quay đầu lại” có nghĩa là nhớ tưởng, khi tụi quỷ kêu thì các thương chủ liền nhớ lại những kỷ niệm cũ, nhớ những phút ái ân hay những thú vui dục lạc, thì lập tức lòng chao động, vì vậy nên bị rớt trở lại, vì vậy mới bị quỷ ăn thịt hết.

Trong đạo Phật rất kỵ chuyện quay đầu trở lại, vì khi chúng ta nhìn về quá khứ nhiều quá, nhớ tưởng lung tung, như những người tỵ nạn chúng ta, cứ hay quay trở về quá khứ, nhớ tưởng Sàigòn. Đừng có tưởng quê hương thật của chúng ta là Việt Nam đâu, vì chúng ta đã trải qua rất nhiều kiếp, đi lang thang qua nhiều cõi, nên không có nơi nào nhất thiết là quê hương của mình cả. Đó chỉ là những nơi mỏi gối chồn chân, khách tha hương dừng lại trên con đường giang hồ mải chơi, mà quê hương thật của chúng ta chính là Cực Lạc, là cái Tâm của chính mình, vì nơi nào có nhiều thần thông nhất, thì nơi đó là quê hương của mình, còn nơi nào nhiều đau khổ, nhiều kỷ niệm vớ vẩn nhất chỉ là nơi sau này chúng ta sẽ về để độ sanh thôi. Nên trong đạo Phật có kinh “người biết sống một mình”, có nghĩa là họ không nhớ tưởng đến quá khứ, không dự tưởng đến tương lai, mà chỉ sống trong hiện tại với tâm không chao động. Trong kinh Đại Bát Nhã cũng dạy như thế, dạy rằng, đừng nhớ tưởng phân biệt. Nhớ là nhớ đến quá khứ, tưởng là vọng tưởng đến cái vị lai, phân biệt là phân biệt các pháp này với pháp khác, nên bị dính vào những pháp ấy, mà phải chịu những khổ lụy triền miên.

Một ngày nào đó, khi lâm chung, thần thức chúng ta lìa khỏi xác, lúc đó rất dễ rơi vào sự hoang mang tiếc nuối, nhớ tưởng kinh khủng, nhớ chồng, nhớ vợ, nhớ những đứa con, những kỷ niệm, và nhất là nhớ tiếc cái thân mình vừa rời bỏ v.v… thì dễ bị đọa lắm. Như có một câu chuyện có một vị thương gia giàu có, nhưng tính tình rất hà tiện, có một hũ vàng dấu dưới gậm giường, đến khi mạng chung, nhưng không nỡ rời hũ vàng của mình, vì tâm còn tiếc nuối quá, nên quay lại, muốn đầu thai để có một cái thân, nhưng trong nhà không có ai thụ thai cả, chỉ có một con chó cái đang có chửa, nên thần thức ông ta chui ngay vào đấy, làm thân chó, cả ngày nằm trong gậm gường canh giữ hũ vàng ấy. Một hôm đức Phật đến, con chó cứ đứng trong nhà sủa ra mãi, đức Phật mới nói rõ tiền thân của nó như thế, mọi người trong nhà mới biết đó là bố mình, vì tiếc của mà phải bị làm thân chó. Nên việc “quay đầu lại” rất nguy hiểm, nhưng không có nghĩa rằng ta cứ lùi lũi mà đi một cách vô ơn, bạc nghĩa, ngược lại ta vẫn nhớ đến những ơn ấy, nếu có dịp sẽ trả ơn nhưng không bị đắm nhiễm trong ấy.

Một câu chuyện thần thoại thứ hai là chuyện con rắn, mình rất dài, nếu nó chỉ ngang nhiên đi một cách ung dung không nhớ tưởng thì không sao, nhưng hốt nhiên một ngày nào đó, nó bỗng quay đầu lại, nhìn thấy thân mình dài quá, tít cùng lại có cái đuôi ngoe nguẩy. Lúc đó, hốt nhiên khởi vọng, nghĩ rằng cái đuôi ấy không phải là mình, rồi từ đó Minh đầy những vọng. Cũng như phàm phu chúng ta sống trong pháp giới này, cứ nghĩ rằng pháp giới này không phải của mình, mà chấp nó là một cái gì riêng biệt với mình, nhưng trong kinh nói rõ, nó chính là tướng phần, từ tàng thức ánh ra pháp giới này, còn kiến phần thì hiện ra thân căn chúng ta. Chúng ta chính là diệu tâm, tự tách ra khỏi sự nhất như ấy, rồi quay lại nhìn, nên rơi vào sự phân đối.

Lần trước, tôi đã giảng một phần về điều này, hôm nay tôi muốn đọc cho quí vị nghe một khúc kệ ngắn trong kinh Lăng Già nói y như vậy, nghĩa là nói đến sự “soi gương.” Kinh Lăng Già là một bộ kinh rất khó hiểu, danh từ rất cô đọng, vì Phật nói cho các vị Bồ Tát nghe nên chúng ta đọc chỉ mong hiểu được một phần nào.


KINH: Khi ấy, Phật trùng tuyên nghĩa ấy nên nói bài kệ sau đây:

Huyễn mộng nước bóng cây.
Tóc xõa và hơi nóng.

GIẢNG: Huyễn mộng tức là cảnh huyễn, cảnh nào cũng là mộng. Như vừa rồi quí vị tụng một đoạn kinh Bát Nhã nói rằng, thấy các pháp đó đều như huyễn, nghe các âm thanh như trong mộng. Nên tôi vẫn nói, khi sống trong đời này, thỉnh thoảng ta giật mình ý thức thấy rằng tất cả các pháp đều như mộng ảo, thì đó là những giây phút có thể cứu giúp quí vị rất nhiều, vì nó sẽ giảm bớt đi những đắm say và sa ngã.

“Huyễn mộng nước bóng cây…” cảnh giới bên ngoài là huyễn, vì tất cả chỉ là ảnh tượng, là mộng huyễn như “nước bóng cây…” ví như cây bên bờ sông chiếu xuống nước, thì cảnh giới chúng ta nhìn thấy cũng y như thế, chỉ là bóng cây dưới nước thôi, không thật có.

 

KINH: Tóc xõa và hơi nóng…

GIẢNG: Trong kinh Lăng Nghiêm có nói một ví dụ như một người bị bệnh đau mắt, nhìn bóng đèn thấy hoa bóng đèn lòe chung quanh nó, còn người mắt sáng thì không thấy. Chúng sanh mê cũng tương tự như người bị bệnh đau mắt trông thấy hoa đèn như hoa đốm giữa hư không. Còn ở đây, ví như “tóc xõa,” tức là cảnh giới giống như một hình ảnh tóc xõa hiện ra trước mắt, chỉ là một ảnh tượng mà thôi. Còn “hơi nóng” là khi quí vị đi trên sông vào những buổi trưa nắng gắt, hơi nóng bốc lên tạo lên nhiều ảnh tượng trên sông, nhưng thực ra thì không có gì cả.

 

KINH:

Quán ba cõi như vậy.
Rốt ráo được giải thoát.

GIẢNG: Nếu chúng ta hay nhớ những thí dụ ấy và quán như huyễn nhiều, thì như tôi vừa nói, ngay loài quỉ đến muốn bắt cũng không thể thấy. Và quán như vậy là lối quán cao siêu nhất, nó là trung đạo song chiếu, vừa là giả vừa là không. Ngoài ra, tất cả những quán khác như quán hơi thở, các ấm, hay quán nhân duyên đều ở mức độ thấp hơn, vì sao? Vì những thứ quán ấy vẫn còn chấp có trong, có ngoài, vẫn có tự, có tha, còn vấp trong vòng nhị biên nên không được gọi là “rốt ráo.”

Trong Bát Nhã, ta thấy có mấy tầng lớp quán chiếu, đầu tiên là quán vô thường, sau quán nhân duyên, cuối cùng mới đến quán như huyễn, quán như huyễn là lối quán cao nhất, nhiều công đức nhất.

 

KINH:

Ví như nai khát nước.
Tâm mê hoặc động chuyển.

GIẢNG: Ví như con nai khát nước trong rừng sâu không kiếm được nước, bị cái khát rày vò giữa dòng sống sinh tử, và cái khát nước của nó giống như sự ái dục của chúng sanh đi trong đêm tối ái dục ấy, lúc nào cũng khao khát mọi thứ, như khát tiền, sắc đẹp, vinh hoa, tương tự như con nai khát nước vậy. Vì vậy, tâm mê ái dục ấy, nên bị mê loạn, động chuyển.

 

KINH:

Tưởng bóng nắng là nước.
Mà thực không có nước.

GIẢNG: Nai chạy lâu quá khát nên nhìn đằng xa thấy bóng nắng rung rinh nên nhìn ánh lên tưởng như có nước, kỳ thật chỉ là bóng nắng thôi. Chúng ta đi trên đường giữa trưa trời nắng cũng thế, nhìn xuống mặt đường phía xa, thấy óng ánh như ướt nước, nhưng kỳ thực không phải. Chúng ta tâm ái dục mong cầu nhiều, nhìn cái gì cũng lệch lạc duyên theo tâm ái dục của mình. Nên Phật dạy, tất cả cảnh giới chúng ta thấy chung quanh, như người, đồ vật, nhà cửa, cây rừng v.v… đều là những ảo ảnh nước thôi, không thật có, muốn nắm bắt cũng chỉ như nắm bắt hoa đốm giữa hư không. Mà chúng ta bị đọa làm thân người, súc sanh, ngạ quỉ v.v. ... đều chỉ vì trong vô lượng kiếp, không bao giờ chúng ta chịu nhìn vào tâm, mà chỉ nhìn vào vật bên ngoài, chỉ dùng tâm để hướng ngoại, như nhìn con cái, nhìn vợ, nhà cửa, của cải, tiền bạc v.v.. mà không bao giờ quay đầu lại nhìn vào tâm cả. Nên thỉnh thoảng chúng ta nên tập dừng chân lại, không chạy theo vật nữa mà nên nhìn vào tâm mình, nhìn lâu thì thấy rằng tất cả những vật ngoài kia đều là ảo ảnh nước trên đường, như hoa đốm giữa hư không, vì đến khi lâm chung, chúng ta không mang theo được bất cứ một thứ gì, từ vợ,chồng, con cái tiền bạc, của cải, xe cộ v.v… ngoại trừ cái nghiệp mình đã tạo và phước báo mình đã tu. Ngay đến khi già chết, chúng ta cũng không thể nhờ được con cháu một điều gì mà có thể đem đến một niềm an lạc, vì chính chúng nó cũng chỉ là những sản phẩm của cơn mê sảng thôi. Nên khi chết, hành trang của ta chính là những nghiệp báo ta đã tạo, lúc đó không thể “hối lộ” được với quỉ thần, vì luật tắc trong giới u minh rất nghiêm ngặt.

 

KINH:

Tưởng bóng nắng là nước.
Mà thật không có nước.
Thức chủng tử cũng thế…

GIẢNG: “Thức chủng tử”, ý ngài muốn nói rằng, tàng thức ta có những chủng tử đó khi đến thời cơ chín mùi, nó sẽ nở ra và ánh ra ngoài thành những y báo như thế, chứ không phải thực có, chỉ do đủ duyên thì tâm nở ra thế thôi. Nhìn cảnh giới bên ngoài lay chuyển, hiện đủ thứ này nọ, động chuyển, thay đổi, có thời gian, không gian, chính chỉ là từ do tâm “động” ánh ra, do những chủng tử hiện hành mà ra. Đó là “Thánh ngôn lượng” lời của bậc Đại Giác nói, vì các ngài đã đi qua những cảnh giới của chúng ta nhiều lắm rồi, các ngài đã vào đến tàng thức, đến những bình diện rất sâu, nên các ngài thấy rất rõ,rồi nói lại cho ta biết như vậy.

 

KINH:

Thức chủng tử cũng thế.
“Động” tâm chuyển thấy cảnh.

GIẢNG: Vì vậy, những gì tôi giảng ở đạo tràng này không phải tôi nghĩ ra đâu, mà chính là trong kinh nói như thế, tôi chỉ là người nói lại cho quí vị nghe,còn tin hay không là tùy ở quí vị. Tin thì tâm thức chúng ta còn có cơ hội tiến lên, không tin thì chỉ cô phụ chính mình thôi.

Tất cả những sự vật chúng ta cùng người khác trông thấy, như cây cỏ, núi non, (nhưng không trông thấy được quỉ), là do tâm ta động nên thấy thế thôi, nếu khi có những chủng tử nở khác, như ta có những chủng tử thấy quỉ thì nó sẽ nở ra, lúc bấy giờ ở ngoài sẽ có quỉ hiện đến. Nên hai câu kệ trên đây, tôi cho là rất quan trọng, nói lên cái cơ cấu căn bản của pháp giới này. “Thức chủng tử cũng thế. Động tâm chuyển thấy cảnh”. Ngoài kia, ngay cả không gian và thời gian cũng không có, vì tâm động nên tạo nên không gian và thời gian. Ngoài kia không có cảnh, chỉ vì diệu tâm ấy rất mầu nhiệm, nên khi ta quay đầu nhìn lại, thì lóe ra tất cả cảnh giới bên ngoài. Hoài bão của chư Phật chỉ muốn dạy chúng la có thế này thôi, tất cả kinh Lăng Già chỉ thu tóm trong hai câu này. Vì vậy, ngày xưa, có ngài Tăng Triệu làm một bộ luận nhỏ, nhưng rất nổi tiếng gọi là “Vật bất thiên luận.” Vật bất thiên là vật không rời đổi, không thay đổi. Ý ngài nói rằng, vật không hề thay đổi, như thân căn chúng ta đây, cây cỏ kia, núi sông kia, không hề lớn, già, chết v.v.. mà chính vì cái tâm ta chuyển nên ta mới thấy thế. Vì vậy kẻ nào chấp nhận và hiểu ý nghĩa sâu xa nhiệm mầu ấy, mà trong vòng nhiều năm suy tư mà thấy thấm được những lời kinh, tôi tin chắc chư Phật phải duỗi tay cứu độ kẻ ấy.


KINH:

Người ngu sanh vọng tưởng.
Như mắt bị bệnh lòa.
Từ đời vô thủy lại.
Nhiếp thọ sanh chấp đắm.

GIẢNG: Chúng sanh bị bệnh lòa mắt, bị ái dục làm lòa, chấp vào thân, chấp vào cảnh, quên rằng ta và pháp giới chính là một. Quên mất đi sự nhất như uyên nguyên, tự tách ra để chấp mình là khác với pháp giới này, rồi nhìn thấy pháp giới với muôn vàn hình tướng sai biệt, nên suốt ngày chạy theo những vật, không lúc nào ngơi nghỉ, rồi tham đắm vào đây. Tham từ những miếng thịt, ly rượu, áo đẹp, danh vọng, tham luyến người nữ kia, người nam nọ v.v… mà không bao giờ biết tham cái tâm cả, vì thế chúng sanh bị đầy đọa, trôi nổi trong sáu nẻo luân hồi mà không thể ra khỏi vòng xích sắt ấy. Vì vậy kinh mới nói “nhiếp thọ sanh chấp đắm” vì nhiếp thọ cảnh giới ấy, vì không hiểu cảnh là huyễn, trông thấy một cái xe hơi đẹp đâm đắm nhiễm mê say, khởi tâm muốn chiếm hữu cho được, dù phải đi vay nợ, hay tệ hơn nữa là đi lường gạt người để chiếm hữu cho bằng được. Tôi nhớ hồi còn trẻ, lúc khoảng độ hai mươi tuổi, trông một bộ quần áo đẹp mê không thể nói được, suốt đêm nghĩ cách làm thế nào có tiền để mua bộ quần áo, nhưng nếu lúc đó mà chợt nhớ được cái tâm mình, thì có lẽ chúng ta không còn bị cái đắm nhiễm vọng tưởng đó điều khiển nữa.

 

KINH:

Ngôn giáo chỉ giả danh.
Nó cũng không có tướng.

GIẢNG: Trong Bát Nhã luôn luôn nói tất cả chỉ là danh tự, danh tướng thôi, ý chỉ tất cả sự vật như cái núi kia, thì chúng ta tưởng cái núi ấy có thật, nhưng không hiểu rằng, vì chúng ta là người, có những cộng nghiệp tương đương, nên trong tàng thức ánh ra thành cái núi, những người khác vì cũng có những cộng nghiệp, nên trong tàng thức riêng của mỗi người đều ánh ra những quang minh kết nên cái núi ấy, nên cái thấy của tôi, cũng như của quí vị đều giao thoa với nhau để cùng nhìn thấy như thế. Nhưng với loài chúng sinh khác, có những cộng nghiệp khác, họ không cho đó là cái núi, mà có thể đi qua núi đá ấy một cách vô ngại. Nên mọi vật không nhất thiết là một cái gì, rồi ta đặt cho mỗi vật một danh tên, tưởng nó có thật, kỳ thật nó chỉ là huyễn thôi mà chỉ có danh tự. Vì vậy, Phật mới dạy rằng “ngôn giáo chỉ giả danh,” nghĩa là tất cả chỉ là huyễn mà chỉ có tên gọi chụp lên nó thôi. Đây là những điểm khó tin, khó hiểu, khó vào nhất.

 

KINH: Nó cũng không có tướng…

GIẢNG: Mà tướng của nó cũng chỉ là tướng huyễn, vì vật kia, sông kia, núi kia v.v… cũng huyễn mộng thôi. Nên tôi vẫn thường nói ở đây, khi xuống phố trông thấy một người quen đi giữa đường, sau khi dùng tâm thế gian chào hỏi, thì ta nên dùng cái tâm vi diệu để quán chiếu người đó chỉ như cái bóng trong tâm ta hiện lên thôi. Khi nghĩ được như vậy, thì người đó đẹp hay xấu, nam hay nữ, hôi nhơ hay thơm sạch v.v… ta cũng có một tâm bình đẳng, không đắm nhiễm, không thương, không ghét. Ngay cho dù họ có chửi vào mặt cũng không giận (điều này làm rất khó, vì cái ngã của ta rất lớn, còn lớn hơn núi Tu Di nữa, nên vừa nghe câu chửi là ta đã nổi sân lên rồi), hay ăn cắp tiền của ta cũng không khởi tâm giận họ. Ngược lại, họ có cho ta tiền hay cung kính lễ bái ta cũng không khởi tâm ngã mạn, vì biết tất cả chỉ do nhân duyên nở ra thôi.

 

KINH:

Ở đây khởi vọng tưởng.
Ấm hạnh như mớ tóc.

GIẢNG: Tức là ở tất cả cảnh huyễn kia do ta khởi vọng tưởng, vì thế các vật “ấm hạnh” giống như mớ tóc xõa xuống nên người đau mắt nhìn thấy thế.

 

KINH: Như bức vẽ mộng sự.

GIẢNG: Mộng sự là cảnh thấy trong mộng. Người họa sĩ chính là cái tâm vẽ lên đủ thứ, và cảnh giới hiện lên theo nghiệp lực như vậy. Khả năng của tàng thức chúng ta rất ghê gớm mà không ai biết cả. Đức Phật nói rằng, tất cả vật là do tâm ảnh hiện, ngoài ra không có gì khác.

 

KINH: Như thành càn thát bà.

GIẢNG: Những người đi biển vào đến những vùng chói chang mặt trời, hơi nước bốc lên chập chùng thường hay làm hiện lên hình dạng giống như những thành phố, nhưng chính thực không có, nên gọi là thành càn thát bà.

 

KINH: Như vành lửa, bóng nắng.

GIẢNG: Vành lửa là khi ta đốt một cây hương xoay tròn người ở xa nhìn thấy một vòng lửa, nhưng chính thực chỉ là một điểm hương cháy di động thôi (vẫn nói đến cảnh huyễn).

 

KINH: Vốn không mà hiện có.

GIẢNG: Chính thực nó không có gì hết, chỉ hiện ra như vậy thôi. Nên chúng ta phải luôn nhớ chữ hiện trong kinh.

 

KINH:

Chúng sanh thường mê chấp.
Thường, vô thường, nhất dị.

GIẢNG: Chúng ta hay mê chấp, cái vô thường thì chấp là thường, chấp rằng cái này giống cái kia, hay khác cái kia, chấp có nam, có nữ, có yêu, có ghét v.v.

 

KINH:

Do vô thỉ lỗi lầm.
Người ngu si vọng chấp.

GIẢNG: Do những tập khí nhận thức từ vô thỉ của chúng ta nên cứ phải trôi lăn chìm nổi mãi.

 

KINH: Tịnh nhãn thấy gương sáng.

GIẢNG: Còn những bậc Đại Bồ Tát và Phật, không bị bệnh mắt lòa, có con mắt thanh tịnh thì thấy pháp giới như một cái gương sáng, tất cả diệu tâm không có một vật, tuy rằng, nếu nhìn bằng nhục nhãn, các ngài cũng vẫn nhìn thấy pháp giới núi sông, người vật y hệt như chúng ta vậy, đồng thời nếu các ngài nhìn bằng huệ nhân thì tất cả như một tấm gương sáng. Cũng vẫn là câu chuyện soi gương của chàng Diễn Nhã, diễn tả một người có nhiều vọng nghiệp “soi gương’ nên làm lóe lên tất cả cảnh giới này. Ngược lại, đối với các ngài đắc đạo, như ngài Huệ Năng thì nói “Bổn lai vô nhất vật” là vì tất cả chỉ như một cái gương sáng tròn đầy.

 

KINH:

Thấy Ma ni bửu tháp.
Trong đó hiện các pháp.

GIẢNG: Những bậc có đạo lực cao, thì thấy các Ma ni bửu tháp, với những diệu pháp.

 

KINH: Mà thiệt vô sở hữu.

GIẢNG: Thí dụ như chúng ta có nguyện thanh tịnh muốn sang Cực Lạc, về sau chín mùi trong tâm thức ta sẽ ánh lên những cảnh giới của Cực Lạc, tuy cũng là huyễn, nhưng ta cần phải vào cái huyễn tế đó, sau mới ly huyễn và nhập vào chân không (diệu tâm).

 

KINH:

Hết thảy tánh hiển hiện.
Như tranh vẽ hơi nóng.
Hiện đủ các hình sắc,
Như mộng không thật có.

GIẢNG: Trong những bài kệ kinh Lăng Già, ngài chỉ dạy thu tóm một chữ huyễn thôi.

Tóm lại, chúng ta nên nhớ đến điểm soi gương, đó chính là tàng thức của mình ánh ra pháp giới, thân căn này. Tuy tách ra thành hai phần rõ rệt, trong ngoài, nhưng không phải hai. Vì tất cả pháp giới này đều Nhất Như, đều từ diệu tâm khởi ra, chúng sanh ngu si, tự tách đôi rồi tự tạo những cảnh huyễn của mình, sau đó bị lạc trong mê đồ ấy, và khởi lên lất cả những nghiệp vọng luân hồi.

Đấy là hết bài kệ trong kinh Lăng Già nói về khởi vọng.

 

Nay ta trở về kinh Hoa Nghiêm, với ngài Thiện Tài…

Kinh Hoa Nghiêm cũng dạy chúng ta Nhập Pháp Giới, cũng tương tự như thế. Nhập Pháp Giới là nhập vào trong tất cả diệu hữu ,tất cả các pháp, nhưng tâm vẫn vẳng lặng, không thọ một pháp nào, vẫn biết tất cả các pháp đều không thì lúc đó sẽ đắc được Vô Thượng Chánh Giác. Còn phàm phu chúng ta không phải là nhập pháp giới, mà là lạc vào mê đồ ảo phố của pháp giới, lạc loài trong đó, chịu mọi sự gian chuân, thống khổ, vì chúng ta chấp từng pháp một, hoặc chấp vài chục pháp, vài trăm pháp v.v… rồi tự làm những hàng rào ngăn cách chính mình với các pháp khác, nên không thể nhập trọn vẹn trong pháp giới. Ngược lại, Chư Phật nhập vào tất cả pháp nhưng không thọ một pháp nào cả nên mới đến mức nhập pháp giới trọn vẹn được.

Tôi xin tóm lược qua những kỳ giảng trước khi đi vào kinh. Khi Thiện Tài gặp ngài Phổ Hiền thì đầu tiên thấy những thoại tướng mây quang minh, rồi từ những quang minh ấy nở thành những thân chúng sanh, chư Thiên và các tầng trời, trông thấy bao la mọi cảnh giới, sau thu nhỏ lại nhìn thấy báo thân ngài Phổ Hiền ngồi trên tòa sen báu gần đức Phật. Lúc ấy, kinh không tả báo thân của ngài Phổ Hiền, mà tả từng lỗ lông của ngài, từ những lỗ lông ấy hiện ra vô số những thân vân, bửu vân, hoa vân, hương vân v.v.., mà mỗi thứ mây ấy kết thành vô lượng cảnh gii, có thứ kết thành cảnh trời cõi sắc, cõi dục, hay kết thành những thân thiên tử, hay kết thành những thân chúng sanh v.v… vẫn đi từ chỗ rất nhỏ, đến chỗ rất lớn. Sau khi Thiện Tài trông ngắm những lỗ lông của ngài Phổ Hiền rồi, thì chỉ riêng sự nhìn ngắm ấy thôi, Thiện Tài đắc được mười thứ trí ba la mật. Trong đạo phật, tột cao nhất là cái trí, rồi sau đó biến thành lực. Lực là sức biến hóa, đồng thời cũng là cái dụng, còn trí là bản thể tạo nên sự biến hóa ấy. Khi Thiện Tài đắc được mười thứ trí ba la mật là gần đến chỗ tột cùng rồi.

 

KINH: Trí ba la mật có thể trong mỗi niệm đi khắp tất cả các cõi Phật.

GIẢNG: Ngài dùng trí ba la mật mà trong mỗi niệm – một thời gian rất ngắn – có thể đi vào khắp tất cả cõi Phật, chỉ dùng trí của mình để đi mà không cần mang cả thân này.

 

KINH: Trí ba la mật trong mỗi niệm đều có thể qua đến tất cả chỗ Phật.

GIẢNG: Ở đoạn kinh trên thì chỉ nói đến các cõi Phật thôi, còn đoạn kinh này lại nói đến ngay chỗ Phật ngự, để cung kính cúng dường. Như vậy, Thiện Tài đã hóa giải được không gian.

 

KINH: Trí ba la mật, trong mỗi niệm đều có thể cúng dường tất cả Như Lai.

GIẢNG: Chỉ dùng cái trí ấy, hóa hiện đủ các thứ cúng dường, chỗ Phật ở đâu thì Thiện Tài hiện thân mình đến đó, rồi hiện các đồ cúng dường thành những mây, hoa, hương v.v… để cúng dường lên chư Như Lai, mà không cần phải dùng đến ngoại vật, mà chỉ dùng trí để hiện lên vật mà thôi. Tức là trí ấy là sự biến hóa không cùng.

 

KINH: Trí ba la mật trong mỗi niệm ở khắp chỗ của tất cả Như Lai để nghe pháp và thọ trì.

 

GIẢNG: Tới đó nghe pháp và nhớ mãi không quên. (đắvăn đà ra ni).

 

KINH: Trí ba la mật trong mỗi niệm tư duy pháp luân của tất cả Như Lai.

GIẢNG: Trong mỗi niệm, Thiện Tài tư duy các pháp luân của tất cả Như Lai. Trong đạo phật, pháp của đức Phật là “pháp luân,” bánh xe pháp, vì giáo lý của Như Lai tương tự như một cái thiên la võng, không có đầu, không có đuôi, và bánh xe ấy nói về đạo lý vận hành của pháp giới này. Vì thế gọi là “pháp luân” và nó cũng không cùng, không tận. Một người đắc đạo cao, chỉ cần một câu, nhẫn đến một chữ mà có thể diễn giảng mãi cũng được, như ngài Xá Lợi Phất, chỉ cần một chữ gì đó (tôi cũng quên mất), ngài có thể giảng bảy ngày, bảy đêm mới xong, vì trí huệ của ngài xoay tròn, đi theo đạo lý vận hành ấy nên nói mãi cũng không hết.

 

KINH: Trí ba la mật trong mỗi niệm biết sự đại thần thông bất tư nghì của tất cả Phật.

GIẢNG: vẫn là biến hóa.

 

KINH: Trí ba la mật trong mỗi niệm nói một câu pháp tột thuở vị lai biện tài vô tận.

GIẢNG: Khi có cái trí ấy rồi, Thiện Tài nhập vào pháp giới, ngay chỉ một chữ “diệu” thôi, trong một bông hoa thế nào, trong ngọn cỏ ra sao, hay trong một hạt cát, một người v.v… tất cả biến hóa thế nào, ngài cũng có biện tài vô tận nói mãi cũng không hết được nghĩa lý vi diệu của nó.

 

KINH: Trí ba la mật trong mỗi niệm dùng thâm bát nhã quán tất cả pháp.

GIẢNG: Tới trí này rồi, Thiện Tài vừa có Chân Không, vừa có Diệu Hữu, lúc nào cần dùng chân không đó thì dùng thâm Bát Nhã để quán tất cả các pháp đều huyễn mộng.

 

KINH: Trí ba la mật trong mỗi niệm nhập tất cả pháp giới thiệt tướng hải.

GIẢNG: Tất cả pháp giới đều là không, khi vào đến hiện chân không ấy, đồng thời khởi lên nhập vào tất cả các pháp mênh mông như đại hải, có thể nhìn rõ từng chi tiết, từng pháp một mà vẫn thấy chập chùng huyễn mộng, nên gọi là “nhập pháp giới thiệt tướng hải.”

 

KINH: Trí ba la mật trong mỗi niệm biết tâm của tất cả chúng sanh. Trí ba la mật trong mỗi niệm huệ hạnh của Phổ Hiền đều hiện tiền. Thiện Tài đã được mười trí ha la mật này rồi, Phổ Hiền Bồ Tát liền dơ tay hữu xoa đầu Thiện Tài…

GIẢNG: Thiện Tài được hai lần xoa đầu. Ngài Văn Thù và ngài Phổ Hiền. Đến đây, được ngài Phổ Hiền xoa đầu tức là Thiện Tài đã được sự ấn chứng là nhập vào pháp giới khá sâu. Như tôi đã nói ở đây, ngài Văn Thù tiêu biểu cho căn bản trí, còn ngài Phổ Hiền tiêu biểu cho hậu đắc trí. Giống như một xoáy nước nỗi lên trong biển diệu tâm (căn bản trí) vì mê vọng nên khởi một cuộc hành trình đi xuống đến chỗ cùng tột của mê đồ từ địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, kiếp người, thiên v.v… Sau khi đi lang thang khắp mọi nơi, cuối cùng hốt nhiên có một niệm thủy giác muốn vòng trở về với diệu tâm uyên nguyên ấy gọi là thủy giác. Sau khi thủy giác đi mãi, làm các hạnh nguyện tu hành,sau cùng thành tựu sai biệt trí tột cùng cũng tức là hậu đắc trí và đồng như căn bản trí. Nói một cách khác, cuộc hành trình của chúng sanh là tự mình rời bỏ căn bản trí ấy, tự mình rời bỏ cái diệu minh, để đi xuống, chỉ giữ lấy cái hư minh, mang cái hư minh ấy, đi là đà mãi trong mê đồ, đi qua các kiếp, các cõi, đến tột cùng thì một lúc nào đó, bắt đầu có ý muốn trở về. Và sau khi ngoi ngóp vượt qua năm màn sương mù của năm ấm, vượt luôn qua thức ấm, thì đến được chỗ sai biệt trí, cũng là hậu đắc trí, trở về với căn bản trí.


KINH: Được xoa đầu, Thiện Tài liền được tất cả phật sát vi trần số môn tam muội, mỗi tam muội lại dùng phật sát vi trần số tam muội làm quyến thuộc.

GIẢNG: Khi Thiện Tài được xoa đầu có nghĩa là trở về biển diệu tâm, đó là biển của tâm vi tế nhất, trong đó cụ túc tất cả mọi thứ nên có đủ các tam muội, vì bất cứ tâm tưởng nào khởi lên cũng đủ sức định lực để trở thành một tam muội. Lúc bấy giờ không có duyên làm chia chẻ, lệch lạc.

 

KINH: Mỗi mỗi tam muội đều thấy tất cả phật sát vi trần số phật đại hải mà từ xưa chưa thấy tích tập tất cả phật sát vi trần số nhất thiết trí trợ đạo…

GIẢNG: Trong mỗi tam muội,Thiện Tài lúc đó đã vào được Diệu Tâm, nên có thể thấy được vi trần số phật sát,những cõi phật mênh mông như biển mà từ xưa Thiện Tài chưa từng thấy. Muốn vào lần lần được bình diện “tột vi tế” của diệu tâm này, Thiện Tài cần tích tập tất cả phật sát vi trần số nhất thiết hạnh trí trợ đạo. Tu hành những gì thì gọi là “Nhất thiết trí trợ đạo” Khi người tu đạo, khác với người tu bình thường là làm bất cứ hạnh nào làm trợ đạo, các ngài đều hồi hướng nhất thiết trí, không bao giờ các ngài nghĩ đến những chuyện chứng đắc nhỏ khác, như đắc quả tu đà hoàn, a na hàm, a la hán v.v… mà chỉ nghĩ đến nhất thiết chủng trí, là chỗ Tri Kiến Phật, và các ngài có thể nhập pháp giới trọn vẹn. Thí dụ như chúng ta cầu xin về cõi Cực Lạc, sau khi bỏ báo thân này, thì ta cũng nên cầu rằng, con nguyện xin vô cõi ấy, để đắc được quả nhất thiết trí này, rồi dùng nhất thiết chủng trí khởi thần thông vô lượng trở lại sanh tử độ sanh, đó mới đúng với bản hoài của chư Phật. Nên trong đoạn kinh này, lúc nào cũng nhắc đến nhất thiết chủng trí.

 

KINH: Sanh đủ tất cả phật sát vi trần số nhất thiết tri thượng diệu pháp.

GIẢNG: Tức là sanh đủ tất cả các vi trần số thượng diệu pháp mà hướng về nhất thiết trí.

 

KINH: Phát tất cả phật sát vi trần số nhất thiết trí đại thệ nguyện.

GIẢNG: Dù khởi cái nguyện nào cũng đều hướng đến Phật Tri Kiến, không bao giờ kém hơn. Không phải như thế là các ngài có lòng tham cầu vị kỷ, vì trong sự mong cầu có sự “tự tha vô ngại”, và khi tham cầu nhập pháp giới, trở lại cái nhất như uyên nguyên đó chỉ để độ sanh thôi, và đã xả ly hết ngã rồi.

 

KINH: Nhập tất cả phật sát vi trần số đại nguyện hải, trụ tất cả phật sát vi trần số nhất thiết trí xuất yếu đạo, tu tất cả phật sát vi trần số bồ tát nhất thiết trí đại tinh tấn, được tất cả phật sát vi trần số nhất thiết trí tịnh quang minh.

GIẢNG: Tu hành những hạnh để mong có được những quang minh ấy, những pháp xuất yếu đó để tới được đến nhất thiết chủng trí, tức nhập pháp giới trọn vẹn.

 

KINH: Như ở Ta Bà thế giới chỗ của Tỳ Lô Gĩá Na Phật này, Phổ Hiền Bồ Tát xoa đầu Thiện Tài Đồng Tử, khắp mười phương thế giới, trong mỗi vi trần nơi những thế giới ấy, tất cả thế giới, tất cả chỗ Phật, Phổ Hiền Bồ Tát cũng xoa đầu Thiện Tài như vậy, những pháp môn tam muội chứng được cũng đồng

GIẢNG: Như cõi Ta Bà thế giới của đức Tỳ Lô Giá Na Phật này, trong kinh không nói của đức Thích Ca Mâu Ni, vì đức Phật vẫn thường nói ta với ngài Tỳ Lô Giá Na Phật cũng là một, cũng là khác. Mỗi vị thị hiện cách khác, nhưng đồng là Diệu Tâm cả. Do ảnh hiện chập chùng của Hoa Tạng, khi ngài Phổ Hiền xoa đầu Thiện Tài thì trong tất cả các cõi, tất cả các vi trần đều ảnh hiện lên đồng một hình ảnh như thế. Như tôi vẫn thường nói, chúng ta ngồi đây nghe kinh, thì trong tất cả vi trần các cõi đều ảnh hiện lên hình ảnh đạo tràng nhỏ bé này, với chúng ta đọc, tụng, nghe giảng kinh như thế, nhưng vì tâm chúng ta còn lồi lõm, còn đục ngầu, nên ảnh hiện ấy không rõ, đến khi nào chúng ta lên đến bực của ngài Thiện Tài thì cũng sẽ thấy ảnh hiện rõ ràng.

Tu hành đến chỗ tột bờ mé thì hiện ra những trạng thái như vậy, tức là nhìn thấy được tất cả các cơn lốc quang minh, khởi lên những tầng trời, các thứ thân chúng nanh, rồi sẽ nhìn thấy báo thân của một vị Phật hay Bồ Tát mà chúng ta mong muốn được nhìn, như Phật A Di ĐÀ , ngài Quán Thế Âm, ngài Phổ Hiền v.v… rồi nương vào thần lực của các ngài đưa chúng ta đến chỗ bất thối chuyển, rồi được các ngài thọ ký, tới chỗ nhập pháp giới trọn vẹn, tức Phật quả.


KINH: Bấy giờ Phổ Hiền Bồ Tát bảo Thiện Tài rằng, này thiện nam tử, ngươi thấy thần lực của ta chăng?

GIẢNG: Lúc nào ngài cũng nói đến thần lực. Vì vậy, pháp giới này và thân căn chúng ta chỉ dệt nên bởi ba thứ lực: Thần lực hải của chư Phật, nguyện lực hải của chư đại Bồ Tát và nghiệp lực hải của chúng sanh.

 

KINH: Thiện Tài thưa: Bạch vâng, những sự thần thông quảng đại bất tư nghì này chỉ đức Như Lai mới biết được.

GIẢNG: Ý Thiện Tài muốn nói là thần thông quảng đại đó thuộc về Như Lai, mà ngài Phổ Hiền cũng là một vị Phật, (ngài chỉ thị hiện là Bồ Tát để khiến chúng sanh cảm thấy gần gũi hơn), vì sự nhập pháp giới này tột cao, bậc thập địa cũng chưa thể làm nổi. Tôi cũng xin nhắc một điểm là giữa bậc cửu địa Bồ Tát và bậc thập địa cách nhau rất xa, vì một vị Bồ Tát ở thập địa có thể cái chân, nhấc tay mà cửu địa Bồ Tát không thể biết nổi. Và những tam muội, những hành xứ, những tâm tưởng ngài khởi lên thì bậc cửu địa không thể biết nổi. Nên vì vậy, quanh chúng ta đây, chư Phật hiện thần thông biến hóa tràn đầy và ta đang sống trong ấy, nhưng cũng không hay, không biết mảy may. Như khi ta đau ốm quá, tự nhiên một hôm có người mách một thứ thuốc, mang về uống thì thấy đỡ. Tâm lý thường chúng ta nghĩ đó là do cơ duyên may mắn, gặp người mách thuốc. Nhưng riêng ý tôi, tôi nghĩ rằng, khi nghiệp chúng ta chuyển biến, nhiều khi các vị thần linh giúp ta bằng cách này hay cách khác, nhưng thường các ngài không bao giờ hiện ra cho ta biết, mà chỉ đưa đẩy cơ duyên qua tay người khác đem đến thôi. Cũng như người đi tàu bị đắm, người ấy khấn ngài Quán Thế Âm thì rất ít khi ngài hiện ra cho người bị nạn thấy, ngài chỉ dùng cơ duyên như hiện một miếng ván tấp đến cho kẻ kia níu lấy để trôi vào bờ. Vì nghiệp chướng của ta quá sâu dày, chưa đáng nhìn thấy hình tướng các ngài, nên chỉ nhận được những duyên do các ngài đẩy đến và phần đông chúng ta chỉ tưởng là tình cờ, ngẫu nhiên. Nhưng trong pháp giới này không có sự ngẫu nhiên . Cũng không có sự quyết . Chỉ có sự tương ưng  giữa pháp giới và Tâm nở ra mà thôi. Ở trong nở tốt, thì ngoài hiện tướng tốt, và ngược lại.


KINH: Này thiện nam tử, thuở quá khứ bất khả thuyết bất khả thuyết phật sát vi trần số kiếp, ta thật hành bồ tát hạnh cầu nhất thiết trí. Trong mỗi mỗi kiếp vì muốn thanh tịnh bồ đề tâm, nên kính thờ bất khả thuyết bất khả thuyết phật sát vi trần số Phật. Trong mỗi mỗi kiếp vì tích tập nhất thiết trí phước đức nên thiết lập bất khả thuyết bất khả thuyết phật sát vi trần số thí hội quảng đại, khiến tất cả thế gian đều nghe biêt, phàm ai đến cầu xin thời đều làm cho họ đầy đủ cả.

GIẢNG: Trong đoạn này, ban đầu thì ngài tu hạnh lễ kính chư Phật, sau thì tu theo hạnh bố thí (đàn ba la mật).

 

KINH: Trong mỗi mỗi kiếp vì cầu pháp nhất thĩết trí nên ta đem bất khả thuyết bất khả thuyết phật sát vi trần số tài vật bố thí.

GIẢNG: Ở đây, thì ngài bố thí ngoại vật, cho của cải. Ngài kể qua cho Thiện Tài nghe về con đường bồ tát hạnh của ngài.

 

KINH: Trong mỗi mỗi kiếp vì cầu phật trí, nên ta đem bất khả thuyết bất khả thuyết phật sát vi trần số thành ấp, tụ lạc, quốc độ, vương vị, thê tử, quyến thuộc, mắt tai mũi lưỡi, thân thịt tay chân đến cả mạng sống để bố thí.

GIẢNG: Đoạn kinh này, ngài bố thí đến nội vật, ngay cả thân thể mình cũng đem ra bố thí, không những tu hạnh đó trong một kiếp, mà vô lượng vô số kiếp. Vì phải cho như thế thì mới thành tựu môn “Như huyễn tam muội”, hiểu thân thể này cũng là huyễn, mà thật ra không có cái chết, nó chỉ biến hóa từ một thân căn này qua một thân căn khác. Phàm phu chúng ta sợ hãi không làm được hạnh bố thí thân căn ấy vì chưa quen, cũng như chưa tin sự biến hóa ấy. Lúc đầu thí thân thì sợ lắm, nhưng về sau, khi quen rồi, các ngài làm việc ấy rất dễ dàng, kinh nói rõ rằng, một vị Bồ Tát khi thí thân, thì có pháp hỷ sung sướng như một vị Tỳ kheo nhập đệ tam thiền vậy.

 

KINH: Trong mỗi mỗi kiếp vì cầu nhất thiết trí thủ, nên ta đem bât khả thuyết bất khả thuyết phật sát vi trần số đầu để bố thí. Trong mỗi mỗi kiếp vì cầu nhất thiết trí, nên ở chỗ bất khả thuyết bất khả thuyết phật sát vi trần số Như Lai, ta cung kính tôn trọng, kính thờ cúng dường, rồi xuất gia học đạo, trong phật pháp tu hành hộ giáo.

GIẢNG: Phàm phu chúng ta cứ tưởng rằng khi tu hành nhất thiết phải đến chùa, thọ giới, mặc áo sư, và xuất gia v.v… nhưng trong tất cả pháp giới này, “sự-kỳ- diệu-là-cái-gì-cũng-có-thể-có-được”. Kinh nói rằng, có những cõi tịnh độ, như cõi của ngài Văn Thù Sư Lợi là cõi “Phổ Kiến Như Lai” tất cả chúng sanh vừa mới sanh ra đã được mặc áo cà sa rồi. Cũng như chúng ta chỉ thấy có thai sanh thôi, người mẹ sanh ra người con, nên không hiểu rằng có những kiếp chúng sanh thanh tịnh đến mức độ hóa sanh từ hoa sen xong, không cần phải đi thọ giới, người vốn là pháp hạnh, được mặc ngay áo cà sa, (trong Đại Bảo Tích).

 

KINH: Này thiện nam tử, ta ở trong những số kiếp như vậy, tự nhớ chưa từng có một niệm chẳng thuận phật giáo, chưa từng có một niệm sanh lòng sân hại…

GIẢNG: Niệm nào cũng đều tùy thuận Bồ Đề tâm cả, nhất là không có niệm nào sân hại cả. Trong kinh Hoa Nghiêm có hai chỗ, ở phẩm thứ ba mươi lăm, ngài Phổ Hiền nhấn mạnh hai lần về lòng sân. Bồ Tát không bao giờ được khởi lòng sân đối với một vị Bồ Tát khác, vì lòng sân rất ghê gớm, nó như ngọn lửa có thể đốt hết tất cả những pháp lành và công đức của mình. Lòng tham thì không đốt căn lành nhiều như lòng sân, nhưng nó làm cho chúng ta lưu luyến, làm tâm bị nặng nề trần trược, nên không thể thăng hoa lên được.

 

KINH: Cũng chưa từng có một niệm sanh tâm ngã, ngã sở…

GIẢNG: Ngài cũng không từng có một niệm sanh tâm cái này của mình, cái kia là mình v.v… vì ngài đã nhập vào diệu tâm ấy, biết rằng, ta và pháp giới này là một, nên không khởi lên sự sai biệt đôi bên.

 

KINH: Tâm mình người sai biệt, tâm xa rời bồ đề, tâm nhàm mỏi sanh tử…

GIẢNG: Cũng không bao giờ ngài khởi tâm nhàm mỏi sanh tử, vì nếu có tâm nhàm mỏi thì sẽ rơi vào hàng Thanh Văn, mà không thể tiến xa hơn để độ sanh và Nhập pháp giới trọn vẹn được.

 

KINH: Tâm lười biếng, tâm chướng ngại, tâm mê hoặc…

GIẢNG: Không bao giờ nên khởi tâm mê hoặc người khác. Nếu một vị đạo sư, hoặc tự xưng mình là một đạo sư kỳ diệu có nhiều người theo, hoặc muốn nói những chuyện quyến dụ người khác, làm cho họ nghe mình, muốn họ cúng dường mình thật nhiều, thích được phật tử khen mình nhiều, hay sai đệ tử đăng báo ca tụng mình v.v… tất cả những điều ấy đều rơi vào cái “tâm mê hoặc” người khác. Ngược lại, một vị đạo sư khi nói pháp, chỉ cốt làm thế nào để giữ được tâm trang nghiêm, đừng cầu gì thì vị đạo sư đó không có tâm mê hoặc.


KINH: Mà ta chỉ an trụ tâm đại bồ đề vô thượng chẳng thể trở hoại tích tập pháp trợ đạo nhất thiết trí.

GIẢNG: Tu hành bất cứ con đường nào, mục đích chung chỉ để đến nhất thiết trí thôi. Đấy là ngài Phổ Hiền nói thế, mặc dù Thiện Tài cũng biết rồi, nhưng ngài cũng vẫn cứ nhắc lại để kinh lại cho người đời sau noi theo, không nên xen một tâm niệm nào khác làm lạc tâm bồ đề và tâm cầu nhất thiết trí.

 

KINH: Này thiện nam tử, ta trang nghiêm phật độ, dung tâm đại bi cứu hộ chúng sanh, giáo hóa thành tựu, cúng dường chư Phật, thờ thiện tri thức, vì cầu chánh pháp nên hoằng tuyên hộ trì, trong thân ngoài vật đều có thể xả tất cả, đến mạng sống cũng không tiếc.

GIẢNG: Trong kinh Đại Bảo Tích có một vị hỏi Phật rằng, người tu hành trong rừng sâu, thấy những cọp, beo, lang sói, rắn độc v.v… rất sợ, thì lúc đó phải làm sao? Phật dạy, người tu hành trong rừng sâu phải coi thân mình như cây cỏ, tường vách, giả dụ như nó đến ăn cũng chẳng sao. Nên phải hiểu tâm vô úy của người tu hành trong đạo Phật ở một mức độ rất cao, dù cho hổ đói có đến ăn cũng bố thí bỏ xả thân này không một niệm luyến tiếc, sợ hãi. Ngày xưa, đọc đến những đoạn kinh Phật dạy như thế, tôi thấy thật là khủng khiếp và quá sức phi nhơn bản, nhưng dần dần, suy tư nhiều về những lời kinh, tôi thấy quả đúng như thế, không có thể làm gì khác khôn ngoan hơn điều Phật dạy, phải coi thân này như cây cỏ, tường vách, “người giữ thi la không trọng thân mạng, vì dùng con mắt ảo quán sát pháp giới.” Nên Phật giáo là một tôn giáo đạt tới mức cao độ tâm thức một cách tột cùng, không có một tôn giáo nào sánh kịp.

 

HỎI: Ở Việt Nam, cũng có những vị sư mỗi tối ra ngoài vườn, cởi trần ra để cho muỗi đốt, làm như vậy sẽ có những con muỗi độc đốt xong rồi truyền bệnh cho vị này, sau đó vị nàỵ có bệnh như sốt rét chẳng hạn, mà chứng sốt rét có thể lây bệnh cho người khác nữa. Hành động như thế là đúng hay sai? Bố thí như thế có đúng không?

ĐÁP: Nói đến việc đúng sai thì phải xét cái tâm của vị ấy. Trong cuốn “Đường về Cực Lạc” có một vị sư mỗi tối, ngài chui vào bụi, cởi trần cho muỗi đốt, dùng máu của mình nuôi chúng sanh khác, đó là xả thân để bố thí. Hành động này tôi cho là đúng.

 

HỎI: Nhưng còn vấn đề làm lây bệnh cho người khác thì sao? Nếu làm một hạnh để giúp được một khía cạnh này, thì vô hình chung ta lại tạo ra một mặt khác hại người.

ĐÁP: Có thể cũng truyền bệnh cho người khác, nhưng người khác nếu bị lây bệnh cũng có gì là tuyệt đối quan trọng đâu, vì người ấy cũng được vơi nghiệp đi. Phần đông chúng ta chưa đến mức độ tâm thức đó đâu, vì trước hết thường nghĩ rằng mình làm thế bị bệnh thì lôi thôi lắm, đau đớn khổ sở, không tu hành được chẳng hạn chúng ta không làm được vì tâm thức còn hạn hẹp hòi, còn sợ bệnh tật, có nghĩa rằng còn chấp ngã, còn quí cái thân xác này, còn cho nó có thực, còn chấp rằng, có người thọ, có kẻ gây v.v… Nhưng nêu xét theo pháp giới về cả hai khía cạnh, thì không có gì trên thế gian này quan yếu cả, chỉ là một tuồng biến hóa thôi. Cùng lắm bệnh nó có thể làm cho chúng ta bỏ thân này, nhưng cái giới thân huệ mạng của chúng ta đâu có chết, bỏ được thân này, biết đau lại có một thân khác thanh tịnh hơn, thần thông biến hóa hơn.

Riêng tôi, tôi cho rằng hạnh bố thí của những vị đó là đúng nhưng ít người có thể làm nổi. Đó chỉ là một hình thức bố thí xả bỏ thân này thôi mà chúng ta không làm nổi rồi, hà huống gì nói đến việc cho mắt, mũi, tủy não…

 

KINH: Nếu dùng thời gian kiếp hải để nói nhơn duyên đó, kiếp hải còn có thể hết chớ nhơn duyên đó không cùng tận. Này thiện nam tử, trong pháp hải của ta, không có một chữ, không có một câu…

GIẢNG: Ngài dùng chữ “pháp hải” là biểu tượng một cái gì bao la mênh mang vô tận, nhưng trong pháp hải ấy không có một chữ, không có một câu (tức Bát Nhã).

 

KINH: Chẳng phải thí xả ngôi Chuyển Luân Vương mà cầu được. Chẳng phải thí xả tất cả sở hữu mà cầu được.

GIẢNG: Ý ngài muốn nói, tất cả sự thí xả về tài vật vẫn còn thấp, không thể như thế mà cầu được pháp ấy.

 

KINH: Này thiện nam tử, pháp của ta cầu đều vì cứu hộ tất cả chúng sanh. Một lòng suy nghĩ mong cho chúng sanh được nghe pháp nầy. Nguyện dùng trí quang chiếu khắp thế gian. Nguyện vì chúng sanh mà khai thị trí xuất thế gian…

GIẢNG: Tức là xả thí như thế vẫn chưa đủ mà phải dùng đại bi để cứu độ tất cả chúng sanh, và nhất là phải có pháp thí.

 

KINH: Nguyện cho chúng sanh đều được an lạc. Nguyện khắp tán dương những công đức của chư Phật, thuở xưa, nhơn duyên của ta như vậy, trong bất khả thuyết bất khả thuyết phật sát vi trần số kiếp hải nói không hết được.

GIẢNG: Hạnh của ngài là hạnh “hải.” Phổ Hiền hạnh nguyện hải phải làm rất nhiều kiếp.

 

KINH: Này thiện nam tử, vì thế nên ta dùng sức trợ đạo pháp như vậy, những sức thiện căn, sức đại chí nguyện, sức tu công đức, sức như thiệt tư duy tất cả pháp, sức trí huệ nhãn, sức Phật oai thần, sức đại từ bi, sức tịnh thần thông, sức thiện tri thức như vậy nên ta được pháp thân thanh tịnh tam thế bình đẳng rốt ráo này.

GIẢNG: Ngài tu những hạnh đó nay được pháp thân thanh tịnh bình đẳng rốt ráo như thế, không những được pháp thân ngài còn được cả báo thân và hóa thân.

 

KINH: Ta lại được sắc thân thanh tịnh vô thượng siêu các thế gian, tùy sở thích tâm của chúng sanh mà hiện hình vào tất cả cõi khắp tất cả xứ, nơi các thế giới rộng hiện thần thông, làm cho người thấy đều vui mừng.

GIẢNG: Ngài kể rằng, khi vào được biển thần lực hải đó rồi (pháp thân), đồng thời ngài lại có sức đại bi, hiện tất cả các thân tùy theo các loài để độ sanh (hóa thân).

 

KINH: Này thiện nam tử, ngươi quan sát sắc thân của ta như vậy.

GIẢNG: Pháp thân chưa nói đến, chỉ nói đến sắc thân thôi, sắc thân này là thân thanh tịnh vô thượng siêu các thế gian.

 

KINH: Sắc thân của ta đây đã thành tựu từ vô biên kiếp hải. Vô lượng ngàn ức na do tha kiếp khó thấy khó nghe. Này thiện nam tử, nếu có chúng sanh chưa gieo thiện căn và gieo ít thiện căn, Thanh Văn, Bồ Tát thời còn chẳng được nghe danh hiệu của ta huống là thấy được thân ta.

GIẢNG: Ngài nói thế, xong ngài lại bảo Thiện Tài đi vào sắc thân của ngài, vào từng lỗ chân lông ngài.

 

KINH: Này thiện nam tử, nếu có chúng sanh được nghe danh hiệu của ta thời không còn thối chuyển nơi vô thượng bồ đề. Nếu ai hoặc thấy, hoặc chạm, hoặc rước, hoặc đưa, hoặc tạm theo dõi, nhẫn đến trong mộng được thấy nghe ta, thời đều cũng được bất thối chuyển.

Hoặc có chúng sanh một ngày, một đêm nhớ nghĩ đến ta thời liền được thành thục. Hoặc bảy ngày, bảy đêm, nửa tháng, một tháng, nửa năm, một năm, trăm năm, ngàn năm, một kiếp, trăm kiếp, nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết phật sát vi trần số kiếp nghĩ nhớ đến ta mà được thành thục.

GIẢNG: Có người chỉ cần nghĩ nhớ đến ngài một ngày một đêm đã được thành thục bất thối chuyển, nhưng cũng có người lâu hơn, có thể bảy ngày, bảy đêm, một tháng một năm, nhiều năm, nhiều kiếp nghĩ nhớ đến ngài mới được thành thục.

 

KINH: Hoặc thấy ta phóng đại quang minh, hoặc thấy ta chấn động cõi Phật, hoặc sanh e sợ, hoặc sanh hoan hỷ thảy đều thành thục.

GIẢNG: Khi ngài phóng đại quang minh và thấy ngài chấn động cõi Phật, thì dù cho tâm ngươi sanh e sợ, hay sanh tâm hoan hỷ, nghĩa là duyên nào cũng tốt cho người ấy cả. Vì thế, trong đạo Phật kỵ nhất là hạng người thờ ơ, không theo, không chống. Tốt nhất là người tin thuận theo, tốt nhì là người chống đối, tỷ dụ như Việt Cộng, nhưng đó là một “cơ duyên nghịch,” vì sau khi xuống địa ngục xong, lên làm người lần lần sẽ gặp được các bậc thiện tri thức hay gặp Phật. Còn những người cứ lờ dờ, chẳng tu hành, chẳng nghe kinh, chẳng tin, cũng chẳng chống đó là hạng người bết nhất. Trở lại đoạn kinh này, những vị nào thấy những quang minh phóng ra của ngài Phổ Hiền, hoặc phát sợ hãi khi tất cả cõi phật chấn động, hoặc phát tâm vui mừng khấp khởi, hai hạng người này đều được độ cả. Trong kinh Mật Tông có nói một thí dụ về điểm này, ví như một người đi vào rừng Chiên Đàn lấy cây chiên đàn về cúng Phật là tốt nhất rồi, nhưng cũng có loại người vào đó đập phá lung tung, đến khi người ấy về tuy bị tội đập phá rừng chiên đàn, nhưng trên người vẫn thoảng có mùi hương chiên đàn, nên cũng vẫn được lợi ích. Duy còn một loại người không hề ghé chân qua rừng chiên đàn ấy, thờ ơ thì đó là loại người đáng thương nhất, họ sống bập bềnh, mù mịt trong pháp giới này, vì mùi hương chiên đàn (ví như pháp vị của Chư Phật), không thể thấm vào thân tâm của họ được. Lại một thí dụ khác, là có một vị tỳ kheo ni, vào trong cung vua khuyên các cung phi đi tu, các cô này bảo rằng, chúng tôi đi tu làm sao được, vì chúng tôi còn trẻ đẹp, yêu đời, đi tu thế nào cũng phạm giới. Vị tỳ kheo ni lại bảo, thì các vị cứ tu đi, rồi cứ… phạm giới đi, sau khi bị đọa địa ngục rồi lên sẽ có cơ duyên gặp Phật, lúc đó sẽ được ngài điểm hóa rồi có thể tinh tn tu hành. Đó là một cách gieo những chủng tử lành cho nhiều đời sau vậy.

Còn chuyện “chấn động cõi phật” trong kinh, điểm này cũng có rất nhiều người hỏi, tại sao kinh bảo thế giới chấn động sáu cách mà ta chẳng thấy gì cả, cỉ thỉnh thoảng thấy động đất làm sợ muốn chết! Nhưng chắc sự chấn động trên bình diện tâm thức vi tế hơn, người phàm phu chúng ta không hay biết, phải những bậc tu hành cao họ mới cảm thấy điều đó, có lẽ sự chấn động trong tầng lớp thọ ấm, tưởng ấm hay hành ấm gì đó mà chúng ta không biết chắc được.

 

KINH: …(Bỏ một đoạn)… Nếu có chúng sanh nào thấy nghe cõi thanh tịnh của ta thời tất được sanh trong cõi thanh tịnh này. Nếu có chúng sanh nào thấy nghe thân thanh tịnh của ta thời tất được sanh trong thân thanh tịnh của ta…

GIẢNG: Trong kinh Hoa Nghiêm luôn luôn nói đến cõi tịnh và bất tịnh, nên ta phải hiểu rằng chân lý của Tinh Độ rất rõ rệt. Nếu người nào chê bai Tịnh Độ là vẫn chưa hoàn toàn hiểu kinh, vì cả bộ kinh thường nhắc đốn cõi tịnh, uế luôn. Mà tu hành thì phải đi từ cõi uế đến cõi tịnh, đâu có thể chê bai tha lực được.

Ở đây, ngài Phổ Hiền nói cõi thanh tịnh và thân thanh tịnh của ngài cũng là một. Như cõi Cực Lạc, chúng ta coi như là thân của đức A Di Đà hay cõi của ngài cũng được. Vì thế tôi vẫn nói, chúng ta ngồi đây là đang ngồi trong thân của ngài Quán Thế Âm vậy.

 

KINH: Này thiện nam tử, ngươi nên quan sát thân thanh tịnh của ta đây. Thiện Tài quán sát tướng hảo chi tiết nơi thân Phổ Hiền Bồ Tát. Trong mỗi mỗi lỗ lông đều có bất khả thuyết bất khả thuyết phật sát hải. Mỗi mỗi sát hải đều có chư Phật xuất thế và chúng hội Bồ Tát.

GIẢNG: Ở đây ngài Phổ Hiền nói rằng, khi trước Thiện Tài quan sát chưa được kỹ lắm, nay nên đi vào từng lỗ lông xem sao.

 

KINH: Và lại thấy tất cả sát hải đó: những kiến lập…

GIẢNG: Trong kinh, đôi khi ta gặp chữ “kiến lập” có nghĩa là tạo dựng. Cũng như trong kinh Lăng Già, chúng ta hay gặp chữ “kiến lập” và chữ “phỉ báng.” Kiến lập tức là khẳng định, còn phỉ báng là phủ định, (đó là những chữ khó của kinh Lăng Già). Còn ở đây là kiến lập, là thành lập các cõi.

 

KINH: Những hình trạng, những trang nghiêm, những đại sơn bao quanh, những sắc mây che trùm hư không, những Phật Như Lai xuất thế thuyết những pháp luân.

GIẢNG: Bao giờ cũng nói đến “pháp luân,” bánh xe pháp.

 

KINH: Lại thấy ở trong mỗi mỗi thế giới hải, Phổ Hiền xuất hiện tất cả phật sát vi trần số phật hóa thân vân, cùng khắp thập phương tất cả thế giới giáo hóa chúng sanh khiến hướng về vô thượng bồ đề.

GIẢNG: Tất cả đều là những đám mây hào quang xoáy tròn hữu nhiễu tạo thành những thân đó.

 

KINH: Bây giờ Thiện Tài lại thấy tự thân ở trong thân Phổ Hiền giáo hóa chúng sanh trong mười phương tất cả thế giới.

GIẢNG: Lúc bấy giờ, Thiện Tài tự thấy thân mình nhập vào thân ngài Phổ Hiền, vì thân ngài Phổ Hiền tức là pháp giới. Thực tình, kinh Hoa Nghiêm không có cách gì có thể giảng rõ được, chỉ có thể gượng giảng tạm thôi, vì tất cả vấn đề đều là sự chập chùng thần lực của Diệu Tâm, nếu chưa đi sâu vào tâm thức, chúng ta chỉ có thể nương theo kinh tưởng tưởng gượng thế thôi, chứ không thể giảng rõ được.

 

KINH: Bao nhiêu thiện căn trí huệ quang minh của Thiện Tài đã được, khi thân cận phật sát vi trần số chư thiện tri thức, sánh với thiện căn khi thấy Phổ Hiền Bồ tát mà được, thời không bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn, một phần trăm ngàn ức, nhẫnn đến không bằng một phần toán số ví dụ.

GIẢNG: Từ trước đến nay, trong kinh nói Thiện Tài gặp năm mươi ba vị thiện tri thức, đó chỉ là những ví dụ điển hình thôi, nhưng thực ra Thiện Tài đi gặp vô lượng vị, nhưng tất cả thiện căn Thiện Tài đắc được trong cuộc hành trình đi gặp các vị thiện tri thức này, nếu so với thiện căn khi gặp ngài Phổ Hiền Bồ Tát thì không bằng một phần trăm, một phần ngàn…, nhẫn đến một phần toán số ví dụ. Tại sao lại được công đức ghê gớm thế khi gặp ngài Phổ Hiền? Thiện Tài tu hành không biết bao nhiêu hằng hà sa na do tha kiếp, gặp không biết bao nhiêu vị thiện tri thức, tích lũy những thiện căn, nhưng tất cả thiện căn ấy, vẫn không bằng thiện căn khi được gặp ngài Phổ Hiền, vì trong đạo Phật, lúc nào cũng chú trọng về cái phẩm, khi lên đến tột bờ mé thì cái phẩm nó biến hóa rất nhiều, nó tăng cấp số nhân với một con số không thể nghĩ bàn, vì ngài Phổ Hiền là chặng đường tột cuối của tâm thức cao độ, nên vì vậy, thiện căn tích lũy nhiều vô cùng tận.

Nên vì vậy, tôi vẫn thường nói ở đây, ví như một ngôi chùa có năm trăm ngàn Phật tử, chỉ đến lễ lạy cầu phước báo hữu lậu, hay làm những phật sự thông thường, kinh kệ thì mù mịt, chỉ lễ lạy, cầu siêu, cầu an, cầu gia nghiệp làm ăn phát đạt v.v… không bằng một ngôi chùa có chỉ độ hai, ba chục phật tử trong đó có vài người hiểu kinh và phát bồ đề tâm. (Đó là kinh nói, không phải tôi nghỉ ra đâu). Vì trong vài người ấy, sau này sẽ thành Phật độ chúng sanh, còn tất cả năm trăm ngàn người kia chỉ lăng xăng, trôi nổi lên lên, xuống xuống trong sáu nẻo luân hồi, không bao giờ thành Phật, cũng chẳng giúp ích được cho một người nào đi vào con được phật đạo và phát bồ đề tâm.


KINH: Trong một niệm mà hiện nay Thiện Tài nhập sát hải của chư Phật ở trong một lỗ lông của Phổ Hiền, sánh với thời gian từ sơ phát tâm đến nay đã nhập sát hải, thời nhiều hơn đến số bất khả thuyết bất khả thuyết phật sát vi trần. Như nơi một lỗ lông, tất cả lỗ lông cũng đều như vậy.

GIẢNG: Câu này cũng y như câu trên. Trong một niệm, Thiện Tài nhập vào một lỗ lông của ngài Phổ Hiền, tức là nhập vào tâm thức tột cao để nhập vào pháp giới, thì niệm ấy, sánh với thời gian mới bắt đầu phát tâm bồ đề đến lúc gần nhập pháp hải, niệm này còn dài hơn lất cả các a tăng kỳ kiếp, vì thời gian là như vậy. Khi tâm càng thanh tịnh bao nhiêu thì thời gian càng chóng vánh bấy nhiêu, còn thời gian đục ngầu phía dưới thì dài lê thê hơn nhiều. Như trong phẩm Thọ Lượng Như Lai có nói một kiếp ở cõi Ta Bà này (mười sáu triệu năm), chỉ bằng một ngày một đêm ở cõi Cực Lạc. Vì tâm thánh chúng bên ấy thanh tịnh hơn tâm chúng ta nhiều. Vì vậy, khi Thiện Tài nhập vào lỗ lông của ngài Phổ Hiền thì tâm ngài thanh tịnh tột bực, nên chỉ cần ngài khởi một niệm, vẫn có thể dài hằng hà sa số kiếp ở những sát độ khác. Ngược lại, có thể thu ngắn nhiều kiếp thành một sát na.


KINH: Trong lỗ lông của Phổ Hiền Bồ Tát, Thiện Tài bước một bước qua khỏi bất khả thuyết, bất khả thuyết phật sát vi trần số thế giới, đi mãi như vậy tột thuở vị lai vẫn còn chẳng biết được thứ đệ sát hải của trong một lỗ lông, cũng chẳng biết ngằn mé của sát hải tạng, sát hải sai biệt, sát hải phổ nhập, sát hải thành, sát hải hoại, sát hải trang nghiêm. Cũng chẳng biết được ngằn mé của Phật hải thứ đệ, Phật hải tạng, Phật hải sai biệt, Phật hải phổ nhập, Phật hải sanh, Phật hải diệt. Cũng chẳng biết được ngằn mé của Bổ Tát chúng hải thứ đệ, Bổ Tát chúng hải tạng, Bồ Tát chúng hải sai biệt, Bổ Tát chúng hải phổ nhập, Bồ Tát chúng hải tập, Bồ Tát chúng hải tán. Cũng chẳng thể biết ngằn mé của trí nhập chúng sanh giới, biết căn chúng sanh, giáo hóa điều phục chúng sanh, chỗ trụ thậm thâm tự tại của Bồ Tát những địa, những đạo của Bồ Tát nhập.

GIẢNG: Đọc những câu kinh này, có thể nói rằng ta bị đè bẹp tan hoang, vì sự mường tượng về tâm ý ghê gớm quá. Đại ý đoạn kinh này nói rằng, trong lỗ lông của ngài Phổ Hiền, tuy gọi là “lỗ lông’ mà nó cũng chính là pháp giới. Vì thế, Thiện Tài ở trong một lỗ lông ấy chỉ cần bước một bước đã qua bất khả thuyết, bất khả thuyết phật sát vi trần số thế giới. Đi mãi không biết bao nhiêu kiếp, đến tột thuở vị lai cũng không bao giờ hết, không thấy được ngằn mé, thứ đệ của pháp giới đó. Vì lúc đó tâm Thiện Tài vẫn còn động chuyển theo sức Đại Bi vô niệm, nên pháp giới vẫn vô tận. Ngược lại, ngài chỉ cần khởi một tâm niệm Bát Nhã lên, thì tất cả pháp giới ấy sẽ không còn, sẽ tắt đi và trở thành hữu tận.

Phàm phu chúng ta vì tâm luôn luôn động nên pháp giới trở thành “không ngằn mé,” và tâm ta động niệm theo sự thô kệch nhất của tham, sân, si. Ngược lại, chư Phật và chư Đại Bồ Tát động niệm theo Đại Bi bình đẳng để độ sanh, nên pháp giới cũng không ngằn mé,do Đại Bi Vô Niệm.

Trong lỗ lông của ngài Phổ Hiền, có thể nói không gian và thời gian đều bị hóa giải, không còn nhất định dài hay ngắn nữa. Một sát na có thể kéo dài cả nhiều kiếp, ngược lại,hằng hà sa số kiếp có thể thu ngắn vào một sát na, tùy tâm thức của các ngài khởi tâm niệm đại bi hay bát nhã. Vì vậy, Thiện Tài có thể bước một bước qua khỏi vi trần số thế giới mà không biết được ngằn mé.


PHẬT TỬ: Tôi vào kinh Hoa Nghiêm cũng nhờ nhưng câu kinh khó như thế này, khó quá! tuy không hiểu, nhưng trong tâm vẫn cứ ngờ ngờ thấỵ hay..

ĐÁP: Đúng, nhiều đoạn trong kinh, có thể đè bẹp người đọc như bị ngạt thở, như thấy bàng hoàng, đảo lộn. Khi đọc kinh, dù không hiểu mà cảm thấy “ngờ ngợ” hay, tức là người có nhiều túc duyên với đại thừa.

Ông nên đọc cuốn kinh “Đại thừa trang nghiêm bảo vương”cũng nói riêng về những lỗ lông của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát. Trong kinh, Phật nói đến mức hóa giải luôn về không, thời gian.

Tôi xin đọc lại cho quí vị nghe đoạn kinh vừa đọc, không phải nghe để hiểu, (vì lời kinh khó quá), mà nghe để thấy được sự mênh mang sâu thẳm trong lời kinh…


KINH: Trong mỗi lỗ lông của Phổ Hiền Bồ Tát, Thiện Tài bước một bước qua khỏi bất khả thuyết, bất khả thuyết phật sát vi trần số thế giới, đi mãi như vậy tột thuở vị lai vẫn còn chẳng biết được thứ đệ sát hải của trong một lỗ lông, cũng chẳng biết ngằn mé của sát hải tạng, sát hải sai biệt, sát hải phổ nhập, sát hải thành, sát hải hoại, sát hải trang nghiêm. Cũng chẳng biết được ngằn mé của Phật hải thứ đệ, Phật hải tạng, Phật hải sai biệt, Phật hải phổ nhập, Phật hải sanh, Phật hải diệt. Cũng chẳng biết ngằn mé của Bồ Tát chúng hải thứ độ, Bồ Tát chúng hải tạng, Bồ Tát chúng hải sai biệt, Bồ Tát chúng hải phổ nhập, Bồ Tát chúng hải tập, Bồ Tát chúng hải tán…

GIẢNG: Những “thế-giới-hải-tập” thế nào? Và “Thế-giới-hải-tán” ra sao? Cũng như trong kinh Bát Nhã có phẩm “Tập, tán.” Khi các vi trần tụ tập lại thành thế giới, rồi các vi trần ấy tán ra thành hư không. Nên Phật dạy, đừng tưởng các cõi ấy đều thực có, mà chỉ do các vi trần tập hợp mà thành, vì vậy ngài nói rằng: “Vi trần chỉ tạm gọi là vi trần, cõi tạm gọi là cõi…” và ngay cái thân này cũng chỉ là cái pháp tích tập của những vi tế bào. Vì vậy, khi những tế bào ấy đến lúc trở về không thì nó lại tán ra, nên không cách gì giữ được xác thân trường tồn mãi được, vì pháp giới vận hành phải như vậy.


KINH: Cũng chẳng thể biết ngằn mé của trí nhập chúng sanh giới, biết căn sanh, chỗ trụ thậm thâm tự tại của Bồ Tát những địa, những đại của Bồ Tát nhập.

Nơi sát hải trong lỗ lông của Phổ Hiền Bồ Tát, Thiện Tài đi như vậy hoặc nơi một cõi trải qua một kiếp, nhẫn đến hoặc trải qua bất khả thuyết bất khả thuyết phật sát vi trần số kiếp mà đi như vậy.

Cũng chẳng mất nơi đây mà hiện nơi kia. Mỗi niệm Thiện Tài cùng khắp vô biên sát hải giáo hóa chúng sanh khiến họ hướng về vô thượng bồ đề.

Đương lúc đó, Thiện Tài thứ đệ được những hạnh nguyện hải của Phổ Hiền Bồ Tát, đồng với Phổ Hiền, đồng với chư Phật một thân sung mãn tất cả thế giới…

GIẢNG:Thân ngài đầy khắp pháp giới tức là nhập giới.

 

KINH: Đồng quốc độ, đồng hạnh, đồng chánh giác, đồng thần thông, đồng pháp luân, đồng biện tài, đồng ngôn từ, đồng âm thanh, đồng lực vô úy, đồng phật sở trụ, đồng đại từ bi, bất tư nghì giải thoát tự tại đều đồng…

Tôi xin ngừng nơi đây. Quí vị nào có cần hỏi gì không? Chỉ còn một bài kệ của ngài Phổ Hiền, xin để kỳ sau sẽ giảng tiếp.

 

 

Diễn Giảng

PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI


Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng

 

 

Ngày 7 tháng 7 năm 1991

 

Hôm nay, chúng ta đi vào bài kệ cuối của Hoa Nghiêm. Trong bài kệ này, ngài Phổ Hiền nói rằng:

— Tất cả thế gian này đều là vọng tưởng, Và chư Phật vì lòng đại bi bình đẳng hiện đủ các thứ thân để độ chúng sinh. Vì vậy, dù là một hòn đá trước cửa nhà, trông có vẻ vô nghĩa, ù lỳ, nhưng cũng là sự hiện tướng của pháp thân đó.


KINH: Đương lúc đó, Thiện Tài thứ đệ được những hạnh nguyện hải của Phổ Hiền Bồ Tát, đồng với Phổ Hiền, đồng với chư Phật một thân sung mãn tất cả thế giới…..

GIẢNG: Ngài Phổ Hiền tu đến mức độ đó thì thân ngài lớn đồng với thân chư Phật, sung mãn cả pháp giới, tức là nhập pháp giới trọn vẹn, không có một cọng cây, một cái lá, một đóa hoa, một vi trần nào…, mà không có tâm và thân của ngài phổ vào.


KINH: Đồng quốc độ, đồng hạnh, đồng chánh giác, đồng thần thông, đồng pháp luân, đồng biện tài, đồng ngôn từ, đồng âm thanh, đồng lực vô úy, đồng Phật sở trụ, đồng đại từ bi, bất tư nghì giải thoát tự tại đều đồng.

GIẢNG: Ngài Phổ Hiền đến bậc này là bậc Đẳng giác vào Diệu giác.


KINH: Lúc đó Phổ Hiền đại Bồ Tát liền nói kệ rằng:

Các ngài phải trừ những phiền não
Nhất tâm bất loạn mà lắng nghe
Tôi nói Như Lai đủ các độ…

GIẢNG: Đủ các độ là tất cả phật sát độ.


KINH:

Tất cả đạo chân thật giải thoát
Xuất thế điều nhu Thắng Trượng Phu

GIẢNG: Trong phẩm thứ mười hai, phẩm Hiền Thủ, ngài Hiền Thủ cũng nói đến công đức của chư Phật, ở đây ngài Phổ Hiền thu tóm lại tất cả. Tại sao lại phải nói đến công đức của chư Phật? Vì nếu không có chư Phật thì thế gian này không thể tồn tại một sát na nếu không nương vào thần lực hải của chư Phật. Như quí vị đã biết, trong phẩm Thành tựu thế giới, thế giới này được tạo dựng bằng ba thứ lực: Nghiệp lực hải của chúng sanh, nguyện lực hải của chư Đại Bồ Tát và thần lực hải của chư Phật. Nghiệp lực của chúng sanh phải nương vào thần lực và nguyện lực thì mới tạo lập thế gian được, và chỉ cần chư Phật rút đi thần lực trong một sát na thôi, thì tất cả thế gian này sẽ tan tành không còn lại một cái gì. Vì vậy, kinh nói đến công đức của chư Phật là gìn giữ thế gian này. Nhưng trong kinh Lăng Già lại nói rằng, thế gian này nở ra từ A-lại-da thức của chúng sanh, và khi a-lại-da thức được gạn lọc đến chỗ tột cao thì trở thành Bạch tịnh thức, tức là thành thần lực hải của chư Phật. Vì vậy, Phật và chúng sanh cũng không phải là một, không phải là khác. Nên ngài Phổ Hiền nói rằng: “Tất cả đạo chân thật giải thoát. Xuất thế điều nhu Thắng Trượng Phu.” Thắng Trượng Phu là chư Phật. Trong kinh thường dùng những chữ như: Thắng Trượng Phu, Tối Thắng Tôn…, để chỉ cho chư Phật. Còn một vị Bồ Tát tu đến mức độ cao thì gọi là Tối Thắng Tử, người con tối thắng, hay Phật tử tối thắng.


KINH:

Trong lòng thanh tịnh như hư không
Hằng phóng trí nhật đại quang minh
Khiến khắp quần sanh diệt si ám…

GIẢNG: Lúc nào các ngài cũng phóng quang minh diệt si ám cho chúng ta mà ta không hề hay biết.


KINH:

Như Lai rất khó được thấy nghe
Vô lượng ức kiếp nay mới gặp
Như hoa Ưu Đàm một lần hiện
Vì thế nên nghe Phật công đức…

GIẢNG: Công đức này là công đức trưởng dưỡng những thiện căn của chúng sanh.


KINH:

Tùy thuận việc làm của thế gian
Ví như thuật sĩ hiện những sự
Chỉ để làm vui lòng chúng sanh
Chưa từng phân biệt khởi tưởng niệm.

GIẢNG: Khi Phật phóng quang minh khởi tất cả những sắc tướng độ chúng sanh, nhưng tâm niệm ngài vẫn vô niệm. Giống như một nhà thuận sĩ (nhà ảo thuật), hiện tất cả mọi sắc tướng mà tâm không chấp. Trong kinh Đại Bảo Tích cũng nói chư Phật là nhà Đại Ảo Sư tạo nên thế gian để độ chúng sanh. Nên thế gian này chỉ là một tuồng huyễn hóa, do một đại ảo SƯ bày ở ngã ba đường. Nhưng phải hiện thế để vui lòng chúng sanh, khiến tăng trưởng lòng tin mà tu hành mới ra khỏi được lưới ấy. Sau khi ngài Phổ Hiền nói như vậy, chư Bồ Tát nghe xong bài kệ ấy, đều cũng khởi lòng khát ngưỡng, mà nghĩ rằng, ngài Phổ Hiền Bồ Tát đã đủ các hạnh rồi, nay ngài nói đến công đức của chư Phật, ta phải nghe cho kỹ.


KINH: Phổ Hiền Bồ Tát công đức trí huệ trang nghiêm đầy đủ, như hoa sen chẳng dính trần cấu tam giới. Ngài bảo chúng Bồ Tát rằng: “Các ngài hãỵ lắng nghe, nay tôi muốn nói tướng một giọt trong biển công đức của Phật.”

GIẢNG: Ngài nói và ngài dùng chữ “một giọt công đức,” chứ ngài không nói đến cả biển công đức ấy, vì tất cả lời nói đều hữu hạn, chỉ nói được phần nào mà không thể nói đến chỗ như như tịch tĩnh, lồng lộng khôn cùng. Nhưng dù chỉ nói một giọt thôi, cũng đủ lắm rồi, vì giọt nước trong biển ấy vẫn mang đủ những khí vị của nước biển.


KINH: Phổ Hiền nói kệ rằng:

Phật trí rộng lớn đồng hư không
Khắp cùng tất cả tâm chúng sanh
Đều rõ thế gian những vọng tưởng.

GIÁNG: Những kiến chấp của phàm phu chúng ta, của Thanh Văn của ngoại đạo v.v… đều chĩ là những vọng tưởng.


KINH:

Chẳng khởi những phân biệt sai khác…
Một niệm đều biết pháp tam thế
Cũng rõ tất cả căn chúng sanh
Ví như nhà ảo thuật thiện xảo
Mỗi niệm thị hiện vô biên sự
Tùy tâm chúng sanh hiện những hạnh
Thuở xưa các nghiệp, sức thệ nguyện
Khiến họ thấy, biết đều chẳng đồng
Mà Phật bổn lai không động niệm
Hoặc có xứ xứ thấy Phật ngồi
Sung mãn thập phương các thế giới
Hoặc có chúng sanh tâm bất tịnh
Trong vô lượng kiếp chẳng thấy Phật

GIẢNG: Ở đây ngài nói đến các loại căn cơ chúng sanh. Những người tu hành cao, có tín giải thì sẽ thấy xứ xứ đều có Phật sung mãn thập phương thế giới. Trái lại,những chúng sanh tâm ý bất tịnh, không tin, không chịu tu hành, thì trong vô lượng kiếp cũng không thể thấy Phật được, vì không cảm thì không có ứng.


KINH:

Hoặc có tín giải rời kiêu mạn
Phát ý liền được thấy Như Lai

GIẢNG: Chúng sanh nào có tín giải, tâm lại thanh tịnh không kiêu mạn, thì người đó chỉ cần phát ý (khởi niệm) là thấy được Như Lai. Như nếu chúng ta có lòng tin sâu chắc, tâm ý lại thanh tịnh, thì chỉ cần một niệm mong được thấy đức A Di Đà thì ngài sẽ hiện đến.


KINH:

Hoặc kẻ siểm cuống tâm bất tịnh,
Ức kiếp tìm cầu chẳng thấy Phật

GIẢNG: Những kẻ nào tâm còn bất tịnh thì trăm ngàn ức kiếp có tìm cầu hoài cũng không thấy được Phật.


KINH:

Hoặc người mọi xứ nghe tiếng Phật
Âm thanh mỹ diệu làm tâm vui
Hoặc kẻ trăm ngàn muôn ức kiếp
Vì tâm bất tịnh chẳng được nghe
Hoặc thấy thanh tịnh đại Bồ Tát
Đầy khắp tam thiên đại thiên giới
Đều đã đầy đủ hạnh Phổ Hiền
Trong đó Như Lai nghiễm nhiên tọa

GIẢNG: Những vị tu hành cao, tâm ý thanh tịnh, luôn luôn thấy được Như Lai.


KINH:

Hoặc thấy cõi nầy diệu vô tỷ
Phật vô lượng kiếp đã nghiêm tịnh

GIẢNG: “Diệu vô tỷ,” là diệu trang nghiêm không thể so sánh được. Trong kinh Duy Ma Cật, ngài Xá Lợi Phất nghĩ rằng, không biết tại sao cõi Ta Bà của đức Thích Ca xấu xí thế. Liền đó Phật Thích Ca chỉ cần lấy chân ấn đất thì ngài Xá Lợi Phất thấy cõi Ta Bà thanh tịnh ngay. Đủ biết sở dĩ ta thấy đầy hầm hố, chông gai, chỉ là vì nghiệp của chúng ta quá nặng nề, nhưng nếu tâm thức ta thanh tịnh thì cõi Ta Bà này trở thành tịnh độ.


KINH:

Tỳ Lô Giá Na Tối Thắng Tôn

GIẢNG: “Tối Thắng Tôn” là tên gọi của chư Phật.


KINH:

Trong đây đại ngộ thành chánh giác
Hoặc thấy Liên Hoa cõi thắng diệu
Hiền Thủ Như Lai ở trong đó.

GIẢNG: Đoạn kinh này ngài nói về cõi tịnh độ của ngài Liên Hoa Hiền Thủ, còn thanh tịnh hơn cõi của đức A Di Đà nhiều lắm. Kinh Hoa Nghiêm có dạy rất rõ về các từng lớp thanh tịnh của các cõi tịnh độ, sự thanh tịnh tột cùng là cõi tịnh độ Liên Hoa, ở đó,những đại Bồ Tát như ngài Phổ Hiền ngồi đầy khắp trong hoa sen. Cõi Cực Lạc của Đức A Di Đà vẫn còn có hàng Thanh Văn và phàm phu, còn phải nghe pháp để đắc cái này, cái nọ. Nhưng sở dĩ chúng ta cầu vãng sanh Cực Lạc íà vì căn cơ chúng ta chỉ có được từng đó thôi, thứ nữa cõi ây gần chúng ta hơn và có nhiều tầng lớp để chúng ta có thể dần dần tu lên nữa. Còn những cõi tịnh độ kia thì cao quá, căn cơ chúng ta không thể với nổi. Và trong kinh thì lúc nào cũng nói trùng trùng những cõi tịnh và uế, và nói rất rõ. Ây vậy mà vẫn còn có những vị tu hành vẫn bài bác tịnh độ và không chịu tin, lại còn chê những người tu theo pháp môn tịnh độ là những người ngu xuẩn, chỉ dành cho những bà già nhà quê. Đó là một điều sai lầm và đáng tiếc!


KINH:

Vô lượng Bồ Tát chúng vi nhiễu
Thảy đều siêng tu hạnh Phổ Hiền
Hoặc có thấy Phật Vô Lượng Thọ
(tức là ngài A Di Đà)
Quán Âm, Thế Chí hầu hai bên
Đều bậc quán đảnh bổ xứ cả
Sung mãn mười phương các quôc độ.

GIẢNG: Trong đoạn kinh này, ngài lại tả sự thanh tịnh bên cõi Cực Lạc của đức A Di Đà, có ngài Quán Âm và ngài Thế Chí hầu hai bên.


KINH:

Hoặc có thấy cõi đại thiên này
Thanh tịnh trang nghiêm như Diệu Hỷ
A Súc Như Lai ngự tại đây
Chúng đại Bồ Tát bao quanh Phật

GIẢNG: Ở phương tây có đức A Di Đà. Phương đông có đức Diệu Hỷ Như Lai. Trong kinh Đại Bảo Tích có nói rõ các vị Phật bốn phương. Nhưng thường thường chúng ta xin vãng sanh Cực Lạc vì ngài A Di Đà có túc duyên lớn với chúng ta, ngài phát thệ bốn mươi tám nguyện lớn để độ chúng sanh. Thứ nữa nước Cực Lạc cũng gần hơn những cõi thanh tịnh khác. Vì vậy, nên Phật khuyên chúng ta nên cầu xin vãng sanh Cực Lạc.


KINH:

Hoặc thấy Nguyệt Giác Danh xưng Phật
Cùng Kim Cang Tràng chư Bồ Tát
Ở cõi Viên Cảnh diệu trang nghiêm
Khắp đến mười phương các quốc độ

GIẢNG: Đây cũng là một cõi tịnh độ lớn.


KINH:

Hoặc thấy Nhựt Tạng Phật Thế Tôn 
Ở cõi thanh tịnh Thiện Quang Minh
Cùng với quán đảnh chư Bồ Tát.
Sung mãn mười phương mà thuyết pháp.

GIẢNG: Có những cõi mà chúng Bồ Tát đều là nhứt sanh bổ xứ, có những cõi đều có những vị quán đảnh. (Những vị quán đảnh này đều là đệ thập địa Bồ Tát).


KINH:

Hoặc thấy Kim Cang Đại Diệm Phật
Câu hội với Trí Tràng Bồ Tát
Châu hành tất cả cõi quảng đại
Thuyết pháp diệt trừ chúng sanh mê.

GIẢNG: Ngài giảng nói toàn những cõi tịnh độ.


KINH:

Mỗi mỗi đầu lông bất khả thuyết
Chư Phật tướng hảo ba mươi hai
Bồ Tát quyến thuộc đồng vây quanh
Vì độ chúng sanh luôn thuyết pháp.

GIẢNG: Trên kia, ngài nói đến các cõi tịnh độ lớn, còn ở đoạn kinh này ngài nhắc lại rằng trong những lỗ lông có vô lượng cõi. Đủ biết rằng, khi tâm thức lên đến mực độ ấy thì không gian bị hóa giải, không còn có cái lớn, bé như con mắt phàm nữa. Như lúc đầu, Thiện Tài mong cầu thấy ngài Phổ Hiền mà chỉ thấy các tinh vân, tinh tú, nhật, nguyệt v.v.., sau đó mới nhìn thấy ngài Phổ Hiền ngồi cạnh đức Phật Thích Ca trong bồ đề đạo tràng.

Lúc ấy, kinh lại không tả ngài Phổ Hiền hình dáng ra sao theo lối mắt nhìn của chúng ta mà chỉ mô tả ngay vào lỗ lông của ngài, từ mỗi lỗ lông cổ trăm vạn thân vân, mỗi thân vân lại khởi lên tạo thành những tinh tú, nhật, nguyệt, hoặc cõi này, cõi khác v.v… ở đây, cũng như thế, nói đến những cõi tịnh độ: “Mỗi mỗi đầu lông bất khả thuyết…”


KINH:

Hoặc có xem thấy một lỗ lông
Đầy đủ cõi trang nghiêm quảng đại
Vô lượng Như Lai đều ở trong
Thanh tịnh phật tử đều sung mãn
Hoặc có thấy trong một vi trần
Có đủ hằng sa Phật quốc độ
Vô lượng Bồ Tát đều sung mãn
Bất khả thuyết kiếp tu các hạnh
Hoặc có thấy chỗ một đầu lông
Vô lượng trần sa những sát hải
Bao nhiêu nghiệp khởi đều sai khác
Tỳ Lô Giá Na chuyển pháp luân.

GIẢNG: Trên kia, phần nhiều kể những cõi tịnh. Còn đến đoạn kinh tiếp theo đây ngài lại kể những cõi uế.


KINH:

Hoặc thấy thế giới chẳng thanh tịnh
Hoặc thấy thanh tịnh báu làm thành
Như Lai trụ thọ lâu vô lượng.

GIẢNG: Ở đây, ngài chỉ nói một câu có thế giới uế thôi, sau đó lại nói đến những thế giới thanh tịnh.


KINH:

Nhẫn đến Niết Bàn đều hiện đủ
Cùng khắp mười phương khắp thế giới
Thị hiện nhiều thứ bất tư nghì
Tùy các chúng sanh tâm trí nghiệp
Thảy đều hóa độ khiến thanh tịnh
Vô Thượng Đạo Sư như vậy thảy
Sung mãn thập phương các quốc độ
Thị hiện nhiều loại thần thông lực
Tôi nói một ít ngài nên nghe.

GIẢNG: Trong đoạn kinh này có điều lạ là ngài chỉ nói một câu “hoặc thấy thế giới chẳng thanh tịnh,” sau đó ngài lại nói đến những thế giới thanh tịnh ngay. Có lẽ là vì trong phẩm “Hoa tạng thế giới thành tựu” ngài đã tả về những uế độ nhiều rồi, nên ở đây, khi một hành giả tu đến mức gần cuối cùng thì ngài thường nói đến cõi thanh tịnh nhiều hơn. Nếu ta đọc lại kinh Hoa Nghiêm sẽ thấy rằng, ở chỗ nào ngài cũng hay nói đến những cõi tịnh, uế. Vì thế, không thể nào không tin là có cõi tịnh độ được. Vì như thế mới hợp lý. Tu hành là gì? Là chúng ta tu từ cõi uế sang cõi tịnh. Nhưng nếu ta cứ khăng khăng, bướng bỉnh mà cho rằng, “không cần sang tịnh độ” thì đó chính là tự cô phụ mình vậy. Rồi khi sang được cõi tịnh, tu hành đắc đạo lại trở lại cõi uế độ sanh. Muốn nhưthế, trước hết ta phải ra khỏi dục giới đã.


KINH:

Hoặc thấy Thích Ca thành Phật đạo
Đã trải kiếp số bất tư nghì
Hoặc thấy nay mới làm Bồ Tát
Mười phương lợi ích các chúng sanh.

GIẢNG: Ở đây, chúng ta phải trở lại phẩm “Thọ lượng Như Lai” trong kinh Pháp Hoa. Trong đó Phật nói ngài thành đạo từ lâu xa lắm, hoặc nói bây giờ ngài mới thành đạo là tùy theo mức độ tâm thức từng loài chúng sanh nhìn. Nếu chúng sanh nhìn với tâm nhãn cao, sẽ thấy Phật thành Phật từ rất lâu xa về quá khứ, nhưng với con mắt thịt đương thời của phàm phu chúng ta thì sẽ thấy, ngài mới thành Phật khoảng hai ngàn năm trăm năm trước. Thường thường, các ngài thị hiện như vậy để chúng sanh nghĩ rằng: “Thì ra, vị Phật ấy là một Thái Tử, giống như những người thường, cũng có vợ, con. Sau đi tu thành Phật được, thì ta đây tu một thời gian cũng có thể thành Phật được.” Đó là phương tiện thiện xảo của các ngài thị hiện để độ sanh.


KINH:

Hoặc người lại thấy Thích Sư Tử
(Thích Sư Tử cũng là một vị Phật)
Cúng dường chư Phật tu đạo hạnh
Hoặc thấy Thế tôn đủ phước trí
Hiển hiện những sự đại thần thông
Hoặc thấy bố thí, hoặc trì giới
Hoặc nhẫn, tinh tấn, hoặc thiền định
Bát nhã, phương tiện, nguyện, lực, trí
Tùy tâm chúng sanh đều thị hiện.

GIẢNG: Ở mỗi cõi, tùy theo chúng sanh chấp trước cái gì, thích gì, ngài hiện ra như vậy. Nếu có chúng sanh chấp mình là người tu hành, thì ngài hiện thân người tu hành thành đạo. Nhưng nếu trong các cõi như sắc cứu cánh, là một cõi tâm thức chúng sanh đã cao rồi, thì ngài lại nói thẳng rằng ngài đã đắc đạo từ vô lượng kiếp, và trong cõi đó ngài lại thị hiện thành Phật nhưng dưới một hình thức khác.

Nhân đây, tôi cũng xin nói qua về con đường tu chứng của chúng ta ra sao. Ban đầu chúng ta tu hành là phát bồ đề tâm, làm những hạnh lành và tất cả đều hồi hướng Cực Lạc, sang đó để đắc được năm thứ tam muội. Sau đó lên được mức Vô sanh pháp nhẫn (đệ bát địa) và được chư Phật thọ ký. Lúc đó, có thể ta sẽ ở luôn đây để tu hành, hoặc có thể ta có những hạnh nguyện trở về những cõi uế để độ sanh mà không bị nhiễm, vì lúc đó ta đã ở mức vô sanh pháp nhẫn rồi, và sắc thân lúc đó không còn là thai sanh máu mủ nữa mà là “pháp thân đại sĩ.” Sau đó, trải qua nhiều kiếp tu hành về các hạnh “ba la mật,” đến khi vào đến đệ thập địa thì lúc đó Đại Bồ Tát ấy sẽ lên cung trời sắc Cứu Cánh (như trong kinh Tâm Địa Quán hay Lăng Già dạy thế). Lúc đó, Đại Bồ Tát sắp nhận sự quán đảnh của Chư Phật, ngài ngồi trên một bông đại bửu liên hoa, phóng hào quang khắp thập phương thế giới, các chư Bồ Tát từ các nơi vân tập về để dự lễ thọ chức của vị Đại Bồ Tát này, lúc đó ngài đã gần đồng như Phật.

Sau khi thọ lễ quán đảnh, ngài có thể vẫn ở trên đó, tu dần đến Đẳng giác và Diệu giác, hoặc ngài có thể thị hiện xuống nhân thế để độ sanh. Khi ấy, ngài sẽ xuống cõi trời Đâu Suất như ngài Di Lặc, ngồi đó, chờ thời tiết chín mùi, chờ cõi nhân thế, và tâm thức của chúng sanh chín mùi, đáng được gặp một vị Phật. Rồi chọn xem gia đình, quyến thuộc nào đáng được mang thai Phật, thường là gia đình được chọn đều đã theo ngài tu hành nhiều kiếp rồi, và nhất là người đàn bà mang thai Phật đều là bậc đại Bồ Tát lớn có nguyện mang thai Phật, như ngài Ma Gia thị hiện xuống trần để cho ngài gá vào. Nhưng người trần gian lại cứ tưởng rằng ngài cũng là thai sanh như họ. Ngài làm những việc đó, tìm những quyến thuộc của mình, đồng thời cùng những vị đệ tử của ngài từ nhiều kiếp để cùng xuống trần như một chùm nho vậy. Như ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, đi vào ngoại đạo, hoặc ngài Ca Diếp đi tu thờ thần lửa v.v…

Chư Phật không bao giờ đản sanh mà không có rất nhiều quyến thuộc đi theo. Từ chư thiên cõi sắc và cõi vô sắc đều đi theo hộ trì và nghe pháp. Ngay khi ngài nhập thai, các vị chư Thiên và Đại Bồ Tát cũng vẫn ở nơi bụng ngài Ma Gia để nghe pháp, đồng thời tất cả những vị có cơ duyên đều cũng thọ sanh cùng thời với ngài. Vì vậy, những người vợ của đức Thích Ca như Da-Du-Đà-La và Thích-Nữ-Cù-Ba chỉ xuống thị hiện làm vợ ngài thôi. Thực ra các ngài đều là những bậc tu hành lớn. Bà Cù-Ba là một vị đại Bồ Tát địa thứ mười. Còn bà Da Du Đà La với Phật chắc đã nhiều kiếp làm vợ chồng rồi, có thể các ngài làm chồng vợ với nhau đến năm trăm kiếp, (như ngài A Nan và Ma Đăng Già), lúc bấy giờ thì chuyển tình đời sang tình đạo, cùng nhau đi trong sanh tử mà không bị sanh tử làm đắm nhiễm. Trong kinh kể những mốì tình như thế rất nhiều, như trong kinh Hoa Nghiêm cũng vậy, có vị Bửu Nữ Cụ Túc Diệu Đức và Thái Tử Đại Quang (nếu tôi nhớ tên ngài không lầm) cũng thế. Nên phải hiểu rằng, có những cặp nam nữ, có duyên với nhau từ nhiều kiếp, cùng làm vợ chồng, rồi đến một lúc nào đó thì tình đời chuyển thành tình đạo, sau đó hai người cùng lên cao, những vọng tưởng sẽ trở thành Bát Nhã, vọng tình sẽ trở thành Đại Bi, lên đến tột bờ mé thì cùng nhập lại để vào Niết Bàn tịch tĩnh của chư Phật. Nên sự chuyển biến từ tình đời sang tình đạo đều được chuyển theo hình xoáy trôn ô’c, vọng tình sau trở thành đại bi, vọng tưởng trở thành bát nhã.

Trên đây là con đường tu chứng mà ta cần phải biết qua, và cần phải cầu xin vãng sanh Cực Lạc, cốt nhất là để đắc “Vô sanh nhẫn,” tức là đệ bát địa. Ở địa này, hành giả đã được mức độ bất thối chuyển, đã có ngũ thông, và nhiều tam muội, tự tại lực, lúc đó hành giả có thể thong dong đi xuống trần thế độ sanh, xuống đây, có thể làm đủ hạnh, như lấy vợ, sinh con, làm đủ nghề thế gian mà không bị nhiễm đắm, vì lúc đó hành giả đã là pháp thân bồ tát rồi. Làm những hạnh độ sanh đủ lục ba la mật rồi, lúc đó hành giả lên cõi trời sắc cứu cánh, vào đệ thập địa, rồi thành Phật. Hay xuống cung Đâu Suất, nhìn xuống nhân gian chọn nơi thọ sanh và thị hiện thành Chánh Giác. Đó là lịch trình tu chứng của một vị Bồ Tát. Nên chúng ta phải đọc nhiều kinh rồi nối lại mới có thể hiểu rõ.

Như chuyện thành Phật ở trời sắc cứu cánh là lộ trình mà trong kinh Tâm Địa Quán đã dạy rõ, mà trong kinh Lăng Già cũng nhắc lại điều ấy. Khi ngài Đại Huệ hỏi đức Phật rằng: Tại sao không thành Phật ở tầng trời sắc Cứu cánh mà lại thành Phật ở nhân gian? Nhưng chính ra, các ngài thành Phật ở trời sắc cứu cánh, còn xuống nhân gian chỉ là thị hiện thành Phật mà thôi. Mỗi kinh, nói từng phần một, vì Phật thuyết pháp là tùy theo người hỏi mà trả lời, nên khi ta đọc kinh, ta phải biết nối lại từ đoạn này đến đoạn kia, như những ngọn hải đăng lập lòe trên biển sương mù, khi biết nối lại rồi thì tất cả các kinh đều thông suốt lẫn nhau mà không hề mâu thuẫn cả. Sở dĩ đôi khi đọc kinh ta thấy như có sự mâu thuẫn vì không hiểu kinh và không biết cách nối mà thôi.

Trong bộ Đại Trí độ luận, ngài Long Thọ nói rất kỹ về thế nào là Bồ Tát vị, thế nào là đắc vô sanh pháp nhẫn, thế nào là bất thối chuyển, có bao nhiêu thứ thọ ký v.v… tất cả những thứ ấy, chúng ta phải hiểu qua. Theo ý tôi, nếu vị nào tu học đại thừa cẩn thận, phải đọc bộ Đại trí độ luận (do cụ Thích Trung Quán dịch), giảng về Đại Bát Nhã.

Nay trở lại ngài Thiện Tài.


KINH:

Hoặc hiện tu hành vô lượng kiếp
Trụ nơi Bồ tát, bậc kham nhẫn
Hoặc hiện trụ nơi bực bất thối
Hoặc hiện pháp thủy rưới trên đầu…

GIẢNG: ” Pháp thủy rưới trên đầu..” là lễ quán đảnh.


KINH:

Hoặc hiện thân Phạm, Thích, Tứ Vương…

GIẢNG: Thân Phạm là thân Phạm Thiên. Thích là thân trời Đế Thích. Tứ Vương là thân Tứ Thiên Vương.


KINH:

Hoặc hiện Sát Lợi, Bà La Môn…

GIẢNG: Sát Lợi là thân Sát Đế Lợi. Bà La Môn là thân các vị Bà La Môn ngoại đạo.


KINH:

Nhiều loại sắc tướng thân trang nghiêm
Dường như thuật sĩ hiện hình tượng…

GIẢNG: Riêng bài kệ này đã dùng ba lần chữ “thuật sĩ.” Tôi đã đọc cho quí vị nghe một đoạn trong kinh Đại Bảo Tích nơi phẩm “Đại ảo sư Bạt Đà La” ở đạo tràng này rồi, trong đó Phật tự nhận mình là một Đại Ảo Sư. Nên sự quán chiếu về ảo rất quan trọng, ta nên thực hành sự quán chiếu ấy, vì không có gì lợi hơn và khi quán lâu, những ý tưởng đó sẽ thấm dần vào chúng ta,rồi đi đâu, thấy cảnh giới gì cũng thấy chẳng thật, chẳng hư, tất cả chỉ là một tuồng huyễn ảo, dần dần nó sẽ trừ được nhiều thứ phiền não và hệ lụy. Đến khi quán chiếu ngay cái thân ta cũng là ảo thì ở mức độ này, ta cũng có thể đối phó ít nhiều với bệnh tật được rồi, có thể sẽ không còn cảm thấy đau đớn mấy đỗi, và khi tâm thức chuyển dần lên cao thì bệnh tật không còn có thể móc vào ta được nữa.


KINH:

Hoặc hiện Đâu Suất mới giáng thần
Hoặc hiện trong cung thọ dục lạc.

GIẢNG: Các ngài có thể thị hiện thọ đủ những dục lạc của thế gian, như ăn uống, ngủ nghỉ và ngay cả đến vấn đề nam nữ v.v.., nhưng vẫn không nhiễm đắm.


KINH:

Hoặc thấy rời bỏ những vinh hoa.
Xuất gia lìa tục đi học đạo
Hoặc thấy mới sanh hoặc thấy chết
Hoặc thấy xuất gia học dị hạnh.

GIẢNG: Tất cả những gì gọi là “dị” có nghĩa là ngoại đạo, và các ngài thị hiện đi vào ngoại đạo để học, nhưng chính thật để chỉ cho ngoại đạo biết rằng, con đường tu của họ vẫn chưa đến mực giải thoát rốt ráo. Còn tất cả chúng sanh chưa hiểu đạo thì gọi lá “dị tánh”.


KINH:

Hoặc thấy ngồi dưới cội Bồ Đề
Hàng phục ma quân thành chánh giác
Hoặc lại thấy Phật mới Niết Bàn
Hoặc thấy dựng tháp khắp thế gian
Hoặc thấy trong tháp thờ tượng Phật
Vì biết thời cơ hiện như vậy
Hoặc thấy Như Lai Vô Lượng Thọ
Phật thọ ký cho chư Bồ Tát
Mà thành vô thượng Đại Đạo Sư
Kế bổ nhậm ở cõi An Lạc
Hoặc thấy vô lượng ngàn ức kiếp
Phật sự đã xong nhập Niết Bàn.

GIẢNG: Trong tất cả các đức Phật, riêng có ngài Đa Bảo là ngài không thuyết pháp, sau khi thành Chánh giác ngài nhập Niết Bàn ngay, và ngài để lại toàn thân sá lợi, thì đó cũng là một cách thuyết pháp. Còn đức Thích Ca để toái thân sá lợi (sá lợi nát ra từng viên một).


KINH:

Hoặc thấy nay mới thành bồ đề
Hoặc thấy chánh tu những diệu hạnh
Hoặc thấy Như Lai Thanh Tịnh Nguyệt
Ở tại Phạm Thế và Ma Cung.

GIẢNG: Đức Như Lai ở trên trời Phạm thế và ngay cả cung điện của Ma nữa.


KINH:

Tự Tại thiên Cung, Hóa Lạc Cung
Thị hiện thần thông những biến hóa.

GIẢNG: Lúc nào kinh cũng nói sự biến hóa.


KINH:

Hoặc thấy ở tại cung Đâu Suất
Vô lượng chư Thiên đồng vây quanh
Vì họ thuyết pháp cho hoan hỉ
Chư Thiên phát tâm cúng dường Phật
Hoặc thấy ở tại Dạ Ma Thiên
Đao Lợi, Tứ Thiên, cung Long Thần
Nơi cung điện Thiên, Long, Bát Bộ
Không chỗ nào Phật chẳng hiện thân.

GIẢNG: Ở chỗ nào Phật cũng hiện thân. Ngay ở đây ngài cũng hiện thân mà chúng ta không nhìn nổi. Nếu có một vị tu hành cao, ngồi tụng kinh với tâm thanh tịnh, tụng độ ba ngày vào được định thì sẽ thấy Phật đang ngồi thuyết pháp. Vì thế, chúng ta cần ý thức rằng chung quanh đây đều bao bọc bởi thế giới vô hình, rất ghê gớm, chỉ cần có cơ hội là những lực vô hình có thể lọt vào được thân tâm ta rồi. Thí dụ như người tu, chỉ cần khởi một tâm kiêu mạn, hay tâm tham dục thì ma lợi dụng ngay kẽ hở đó để hại được họ rồi, vì vậy có rất nhiều trường hợp bị ma nhập, nhưng thế gian không muốn nói đến mà cứ lờ đi. Ngược lại, nếu hành giả ấy không có tâm kiêu mạn, tham dục hay mong cầu sự chứng đắc nào, thì chư Phật lại hiện ra đối trước người ấy. Nên ta lúc nào cũng phải ý thức đến thế giới vô hình. Thí dụ như ta làm một việc nào mà nghĩ rằng không có ai biết cả, nhưng các vị quì thần đều biết hết, nghĩ như thế sẽ bớt đi những ý nghĩ cuồng ngông vô ý thức.


KINH: 

Ở chỗ Nhiên Đăng Phật Thế Tôn
Rải hoa, trải tóc để cúng dường
Từ đây biết rõ pháp thâm diệu
Hằng dùng đạo này độ quần sanh.

GIÁNG: Đoạn kinh này nhắc lại một thuở quá khứ của đức Phật Thích Ca cúng dường Phật Nhiên Đăng. Lúc đó ngài là một vị Bà La Môn tên Mê Già, đi cúng dường ngài Nhiên Đăng, gặp cô con gái cầm hoa, hai người rủ nhau cùng mang hoa này cúng dường Phật. Sau khi ngài rải hoa, ngài lại trải tóc, và trải cái áo da hưu xấu của mình để đức Phật dẵm lên. Khi Phật dẵm lên chiếc áo ấy, ngài Mê Già đắc ngay vô sanh pháp nhẫn, bay lên hư không nói kệ tán thán Phật Nhiên Đăng. Nên chúng ta phải có lòng tin sâu chắc, tin chắc rằng, nếu có tu hành thì sẽ có ngày chứng đắc, như trong mây câu kệ cuối cùng ngài Phổ Hiền dạy…


KINH:

Nếu ai nghe biển công đức này
Mà sanh lòng vui mừng tin hiểu
Tất sẽ được những công đức này
Thận trọng chớ sanh lòng ngờ vực.

GIẢNG: Ngài Phổ Hiền dặn dò chúng ta thế, vì biết phàm phu chúng ta hay khởi tâm nghi ngờ lắm. Không nên khởi tâm nghi như vậy, phải tin chắc rằng một ngày kia, đức Phật sẽ dẵm lên lưng ta, đắc ngay được vô sanh pháp nhẫn, bay lên hư không cao bảy cây đa la nói kệ tán thán đức Phật. Chắc chắn sẽ như thế! Nên ta phải có lòng tin và sự chuyên cần, đừng nhìn vào vật nhiều quá, vì khi nhìn vào vật nhiều sẽ là những cơ duyên làm ta bị lùi lại mất vài ngày, vài năm, nhẫn đến vài kiếp trên con đường tu chứng của ta. Hãy quay trở lại nhìn vào tâm, lúc đầu có thể chúng ta sẽ ngơ ngác, sau quen dần, lúc đó sẽ nhìn thấy được nhiều điều kỳ diệu.


KINH:

Hằng dùng đạo này độ quần sanh
Hoặc người thấy Phật lâu Niết Bàn
Hoặc thấy Phật mới thành bồ đề
Hoặc thấy Phật trụ vô lượng kiếp
Hoặc thấy giây lát liền nhập diệt
Thân tướng quang minh cùng thọ mạng
Trí huệ bồ đề và Niết Bàn.
Chúng hội được độ tiếng oai nghi
Mỗi mỗi như vậy đều vô số
Hoặc hiện thân mình rất rộng lớn
Như núi Tu Di đại bửu sơn
Hoặc thấy Phật ngồi chẳng động la
Sung mãn vô biên những thế giới.

GIẢNG: Ngài có thể hiện ra như một hạt bụi, mà cũng có thể ngài ngồi kiết già, thân choán cả hư không.


KINH: Hoặc thấy viên quang lượng một tầm…

GIẢNG: Tức là thân ngài phóng quang minh ra khoảng một tầm. Tại sao chư Phật và đức Thích Ca chỉ hiện quang minh một tầm thôi, trong khi ngài có thể hiện hào quang sáng chói mọi cõi nước? Vì với chúng sanh như chúng ta nếu ngài phóng hào quang lộng lẫy chói sáng quá ta sẽ khởi tâm sợ hãi, hơn nữa nghiệp chúng sanh chỉ đáng được như thế thôi, nên ngài chĩ hiện một tầm thôi. Nhưng nếu một vị Bồ Tát cần phải hiện mười tầm thì lúc đó ngài sẽ hiện mười tầm hay hơn nữa.


KINH: Hoặc thấy ngàn vạn ức do tuần…

GIẢNG: Hoặc ngài có thể phóng quang minh xa đến ngàn vạn ức do tuần. (Mỗi một do tuần khoảng bốn mươi dặm).


KINH:

Hoặc thấy chiếu khắp vô lượng cõi.
Hoặc thấy sung mãn tất cả cõi.
Hoặc thấy Phật thọ 80 năm (như Phật Thích Ca)
Hoặc thấy thọ ngàn muôn ức tuổi.

GIẢNG: Tùy theo thời tiết và căn cơ của chúng sanh thì thọ mạng của chư Phật cũng thế. Thí dụ như trong một cõi nào, thọ mạng chúng sanh lên đến tám ngàn tuổi thì ngài cũng thị hiện thọ mạng dài như thế.


KINH: Hoặc thọ bất khả tư nghì kiếp…

GIẢNG: Vì tất cả chỉ là biến hóa của tâm, mọi sự đều có thể biến hóa ra được. Nhưng chúng ta lại không biết được điều đó, suốt mấy chục năm sống, chỉ nhìn thấy những việc rất hữu hạn, và tin chắc vào những điều mắt thấy, tai nghe ấy. Như cứ tin chắc rằng, người thì phải chui từ bào thai ra mà không bao giờ nghĩ rằng có những trường hợp hóa sanh, hoặc nghĩ rằng phải đi làm mới có tiền, phải ăn cơm, ăn thịt mới thấy no, mà không biết rằng có những loài chúng sanh ăn bằng nhiều loại khác nhau, như chỉ cần suy tư cũng no (tư thực), hay chỉ cần ngửi mùi hương (xúc thực), và tuyệt nhiên không bao giờ hiểu rằng, thức có thể nuôi sống thọ mạng được (thức thực). Khi chúng ta hết được những tham dục thì sẽ được thọ sanh trong hoa sen, hay trong bông soài.

Những Phật tử tu theo tịnh độ, thường tu theo hai cách. Thứ nhất là tu niệm Phật cho đến khi nhất tâm bất loạn. Nhưng lối niệm Phật này rất khó, vì phải giữ sao cho tâm thật yên tịnh, nhưng ngoài ra, chúng ta cũng có thể tu theo pháp môn “tán môn,” tức là niệm Phật một ít, suy nghĩ về kinh một ít. Nhất là hiểu được tất cả thế gian này đều là huyễn ảo, kể cả ngài A Di Đà và cõi Cực Lạc, thì có thể có hy vọng vãng sanh. Hiểu được điểm then chốt ấy (về chữ ảo) chúng ta sẽ bớt đi rất nhiều phiền não, bớt được nhiều tham dục, sân, si, và đồng thời trưởng dưỡng được lòng từ bi bình đẳng.


KINH:

Hoặc thọ bất khả tư nghì kiếp
Như vậy lần lượt bội hơn đây
Phật trí thông đạt tịnh vô ngại
Một niệm biết khắp pháp tam thế.

GIẢNG: Như tôi vẫn nói đến vấn đề thời gian. Chúng ta luôn thấy có quá khứ, hiện tại, vị lai. Nhưng chư Phật chỉ cần một niệm là có thể thấy tam thế hiện tiền (hiện ra trước mắt), từ vô lượng kiếp về trước, nhẫn đến vô lượng kiếp về sau.


KINH:

Một niệm biết khắp pháp tam thế
Đều từ tâm thức nhơn duyên sanh
Sanh diệt vô thường không tự tánh.

GIẢNG: Đoạn này giảng cũng giống như kinh Lăng Nghiêm, trong kinh nói “tâm ảnh ra sắc.” Còn kinh Lăng Già lại nói tất cả từ do tâm ánh ra, từ A-lại-da thức phát khởi lên, ánh ra thành sắc. Khi thọ sanh, chủng tử nở ra cái gì, lập tức ta sẽ lọt vào cảnh giới y báo ở ngoài đúng y như thế. Như một người có những chủng tử nhiều phước đức, nhiều trí huệ nở ra, thì lập tức thần thức sanh vào một y báo rất tốt, vào một gia đình quyền quý, chung quanh đều bằng vàng ngọc, lưu ly. Ngược lại, nếu những chủng tử ngu si, ít trí huệ, không có phước đức hay thiện căn, thì thần thức ấy sẽ chui vào một gia đình bần cùng, hèn kém, không biết Phật, pháp, tăng. Vì vậy trong kinh có câu: “Các chúng sanh đều là những người nghèo cùng.” Nghèo cùng về thiện căn, về phước đức, và trí huệ. Dù rằng có thể được làm vua có nhiều tiền bạc, nhưng cái tiền ấy chỉ đem lại một ít vật chất trong kiếp này thôi, rất hữu hạn. Còn cái từ bi và trí huệ thì đi qua nhiều kiếp tiêu xài cũng không hết. Vì vậy, giữa tiền bạc, của cải và trí huệ, từ bi ta nên chọn cái trí huệ và từ bi ấy.


KINH:

Tất cả vào một, một vào khắp
Tùy tâm chúng sanh đều thị hiện.

GIẢNG: Trong đạo Phật, ta luôn luôn nên nhớ chữ “tùy tâm.” Vì có thân căn đẹp, xấu thế nào, bị đui mù, hay những y báo bên ngoài, những quyến thuộc, bố, mẹ, vợ con, sang trọng hay nghèo hèn v.v… đều tùy ở tâm thanh tịnh hay nhơ uế. Tâm ta thế nào thì cuộc đời đãi ngộ đúng y như vậy, hiện ra như vậy.


HỎI: Lúc nãy ông có nói rằng, tùy theo phước đức và trí huệ của mình thì sẽ sanh gia đình giàu có, còn kém phúc thì sanh vào nhà bần hàn. Thì tại sao có những trường hợp người ta sanh vào nhà bần hàn sau làm thủ tướng, tể tướng, hay làm quan lớn, hoặc làm thương gia giàu có? Nếu nói rằng một người rất ít phước, rất ít trí huệ phải sanh vào nhà bần cùng thì tại sao sau này họ lại được nhiều cơ duyên sung sướng như thế?

ĐÁP: Quí vị nghĩ sao về câu hỏi này? Khi một thần thức sắp thọ sanh, trong a lại da thức của người ấy có những chủng tử nợ nần, hay những chủng tử ít thiện căn nở ra trước nên phải chui vào nhà bần hàn đã, sau những chủng tử thiện, hay phước đức nở ra sau, nên cuộc đời của họ biến chuyển theo phước đức ấy. Đó là vấn đề thời tiết, căn cơ chín mùi ra sao thì sẽ như vậy, không phải tất cả những chủng tử đều nở tóe ra cùng một lúc được. Nói về nghiệp lực thì thật trùng trùng, đan nhau chằng chịt, chỉ có tuệ giác của Phật mới có thể nhìn thấy hết.


HỎI: Nếu nói về nghiệp lực, thì một người kiếp trước phải tích đức nhiều, nếu kiếp này vì còn rơi rớt những chủng tử xấu, hay còn nợ nần nhiều người thì phải chui vào nhà bần cùng để trả nợ, cũng có nghĩa rằng, đó cũng là do nghiệp xấu của kiếp trước chi phối, như vậy cũng là kém rồi.

ĐÁP: Tâm thức của chúng sanh là một tiến trình triển chuyển luôn luôn. Nó không phải là một cái gì cố định, ù lỳ. Nói cách khác, không phải người sanh trong nhà khá giả phải nhất định là phước đức hoàn toàn, vì trong a lại da thức, từ nhiều kiếp nó huân tập tất cả những chủng tử, từ những chủng tử tốt, xấu, phước đức, bất hạnh v.v… mà không chừa một loại chủng tử nào. Đến khi đi thọ sanh, những chủng tử nào nở trước thì y báo tương ưng sẽ hiện ra. Vì vậy, trong đạo phật, cũng có tướng số, có thiên văn và đủ mọi thứ, vì Phật pháp chính là thế gian pháp. Nhưng đừng bị vấp vào đó để cản trở con đường tu hành của mình, vì khi ta bị vấp vào những cái tử vi, quẻ số, tiên đoán những hên sui trong tương lai, lúc đó tâm ta sẽ bận bịu suốt ngày về những thứ ấy, rồi quên mất mục đích chính của mình là trở về Tâm, tìm cầu sự giải thoát.

Trong bộ Đại Trí Độ luận kể một câu chuyện rằng:

Có một vị tu sĩ khổ hạnh tu trong một khu rừng, mỗi ngày ra suối tắm và giặt quần áo mà thỉnh thoảng trong quần áo ấy, nhiều khi vị tu sĩ bị mộng tinh nên những tinh khí rơi rớt ra trong khi giặt, sau đó có một con hưu cái đến uống nước ấy, sau đó thọ thai. (Ta phải hiểu rằng, không nên xét nhãn quan về pháp giới này một cách hạn hẹp, gần gần, vì có nhiều kiếp xa xôi về trước có sự thọ thai, hay sinh nở cũng rất lạ.) Đến thời kỳ sanh con, hưu cái trở lại nơi nó thụ thai kêu la thảm thiết rồi sanh ra một đứa bé, sau đó nó bỏ đi. Vị tu sĩ nghe tiếng kêu la, chạy ra thấy một đứa bé nằm trên phiến đá, thương tình ông mang về nuôi. Thằng bé lớn lên rất thông minh, nhưng nó lại mang hai cái chân hưu, sau rất giỏi về thiên văn, rồi gặp được Phật xin xuất gia, và đắc quả A la hán. Một hôm, hai thầy trò đi đến một vùng làng mạc vào một buổi chiều, cả hai ngồi xuống một ven rừng nghỉ chân, vị tỳ kheo chân hưu nhìn tinh tú một hồi và nói rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, thật là nguy, con xem tinh tú và biết rằng xứ Ma Gia Đà này sẽ bị mưa liền trong mười hai năm trời, tất cả mùa màng đều hỏng, tật bệnh, đói kém xảy ra khắp nơi, sẽ có rất nhiều người chết.” Đức Phật không nói gì, ngài chỉ ngồi im lặng một lúc, sau đó ngài bảo: “Bây giờ ông thử coi lại tinh tú xem sao?” Vị Tỳ kheo chân hưu coi lại bảo với Phật rằng: “Bạch Thế Tôn, lạ quá, con coi lại thì các tinh tú đã chuyển đường hướng vận hành, mưa chỉ còn lại có bảy ngày thôi.” Thì ra, chính Phật đã dùng thần lực chuyển tất cả đường đi của tinh tú, đồng thời ngài phải gánh cái nghiệp mười hai năm đói kém cho dân chúng miền đó.

Đó là về thiên văn, tướng số trong đạo phật. Trong Đại Bảo Tích cũng có kể một câu chuyện, một vị tu sĩ tu trong núi Tuyết Sơn mấy chục năm ròng rã, lúc nghe Phật đi ngang qua miền ấy, ông ta bèn xuống núi gặp Phật để tranh luận với ngài, ông ta hỏi Phật rằng: “Ngài là ai? Ngài có biết về pháp môn Tinh tú học không?” Phật ngồi im một hồi rồi bảo rằng: “Cái đó tôi có thể biết được, nhưng ông tu về tinh tú mấy chục năm nay, cũng tốt đấy, nhưng những thứ đó chỉ làm cho ông thêm bận tâm mà không đưa ông đến được sự giải thoát nào, ông phải nên nhớ trong đời này, cái may, sự rủi đều không quan trọng, cái quan trọng nhất là làm sao cho tâm ta thanh tịnh, an nhiên.”

Trong cuộc đời chúng ta, ai cũng chỉ thích sự may mắn mà không bao giờ chấp nhận sự rủi ro, nhưng tất cả những thứ ấy chỉ là những cặp đối đãi do vọng tưởng tạo thành, không có gì là chắc thực cả. Vì khi cái may nó đến thì âm đức lại kém đi, còn gặp cảnh rủi ro thì nghiệp vơi đi, thì có gì cần và quan trọng đâu, tất cả đó chỉ là do nghiệp tắc nhân quả mà thành. Thí dụ như một người giỏi về bói toán hay tướng số, suốt ngày ngồi trong nhà, có một con chim khách bay qua hót lên ba tiếng, ông vội vã ngồi bấm độn xem số mạng ấy thế nào. Rồi cả ngày chỉ bận rộn vào ba cái hào, cái quẻ, tất nhiên tâm lúc nào cũng bận, thì làm sao có trí huệ, làm sao tâm được thanh tịnh, yên vui? Vì vậy, một số người tu hành, đến một mức nào đó, hiểu về pháp giới được một ít, cho là đủ, suốt ngày bận bịu với những thứ ấy, không biết rằng tất cả những thứ đó chỉ là sự biến hiện của tâm, chỉ dạy những thứ đó, mà quên mất Tâm. Muốn biết được tất cả phải buông bỏ mọi nhân duyên, càng buông thì tâm càng lớn, đến tột bờ mé, nhập vào pháp giới với tâm là một. Đó mới chính là bản hoài của chư Phật.

Nên trong đạo Phật, nho, y, lý, số v.v… đều có, nhưng đó chỉ là những biện pháp tạm thời ở một mức độ tu chứng nào đó thôi, nếu còn chấp và đó thì chỉ làm bận tâm hành giả, mà không đưa hành giả đến được cái tâm như như bất động được.

 



Diễn Giảng

PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI


Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng

 

 

Ngày 21 tháng 7 năm 1994

 

Hôm nay là buổi thuyết giảng thứ một trăm ba mươi mốt về kinh Hoa Nghiêm tại chùa này, đồng thời cũng là buổi thuyết giảng thứ mười tám của Đại Bát Nhã. Nhưng trước khi vào kinh, chúng tôi muốn thông báo cho quí vị mấy điểm. Tới ngày mùng 7 tháng 8, trong ban kinh này có bốn người, tôi, ông Minh Đạo, ông Đính và bà Định làm một cuộc hành hương sang Ngũ Đài Sơn. Chúng tôi có làm một bản khấn nguyện, (cũng như trước kia chúng ta có làm một bản khấn nguyện ở núi Linh Thứu vậy), nếu quí vị nào có muốn ký tên, cùng khấn nguyện thì xin ký vào đây.

Trong đời mạt pháp này, chúng ta tu hành thực ra không được tinh tấn lắm, vì nghiệp chướng còn sâu dày, phước đức cạn mỏng, nên đôi khi muốn dâng những sớ ngay ở các Thánh địa nhờ chư Phật và chư Đại Bồ Tát gia hộ. Theo tôi biết, ở núi Linh Thứu có ngài Mật Tích Kim Cang Bồ Tát mà chúng ta có thể nương về được. Còn ở Ngũ Đài Sơn có ngài Thanh Lương, là một vị tổ của tông Hoa Nghiêm và trên đó lại còn có đức Văn Thù hay hiện thân. Tôi xin đọc bản khấn nguyện như sau:

Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Nam mô Thanh Lương Hoa Nghiêm Bồ Tát.

Chúng con là những Phật tử trong ban Hoa Nghiêm tại chùa Trúc Lâm Yên Tử, vùng Santa Ana, tiểu bang California, Hoa Kỳ. Xin kính cẩn đề trình bản khấn này. Cầu xin cho thế giới được an bình, bớt thiên tai và chiến tranh, cầu xin gia bị cho chúng con, đọc tụng và giảng nói bộ kinh Đại Bát Nhã ba la mật đa. Lấy công đức hồi hướng cho tất cả để làm tư lương vãng sanh Tịnh Độ.

Bản khấn nguyện chỉ có thế, lát nữa, sau buổi giảng, vị nào muốn ký tên vào bản khấn nguyện này xin ghi vào.


Nay ta trở lại kinh…

Vừa rồi chúng ta tụng một phẩm Bát Nhã, trong đó Phật dạy rằng, mỗi khi có người tụng, hay giảng nói Bát Nhã ba la mật đa tâm kinh thì vô lượng chư Thiên tới nghe. Vì thế, chúng ta phải cố gắng mà tụng, đừng khởi tâm giải đãi, lấy công đức đó hồi hướng cho tất cả làm tư lương vãng sanh Cực Lạc.

Trong kinh lại nói thêm rằng, khi vô lượng chư Thiên tới nghe, thường thường có hào quang, nhưng mắt ta kém cỏi nên không nhìn thấy, và có mùi hương lạ, nhưng dĩ nhiên chúng ta cũng không ngửi thấy. Nhưng khi các vị chưThiên đến thì các tiểu quỷ phải đi xa ngay.

Về kinh Hoa Nghiêm, chúng ta giảng đã gần xong, nên trước khi giảng nốt nửa bài kệ ấy, tôi xin giảng qua một ít về Bát Nhã.

Chúng ta đang ở trong giai đoạn tiền bát nhã, tức là giai đoạn chuẩn bị để đi vào kinh thôi. Trong Bát Nhã có ba giai đoạn:

Giai đoạn thứ nhất là Văn tự bát nhã. Văn tự, là trong một, hai kỳ nữa chúng ta sẽ đi vào những lời kinh xem ngài dạy thế nào, ngài nói những gì là vô sỡ đắc, các gì là vô sở hữu v.v…, chúng ta sẽ được nghe những lối lập luận của ngài Tu Bồ Đề, Xá Lợi Phất như thế nào. Thực ra, trong kinh, Phật nói rất ít, để cho mấy vị đại đệ tử nương vào thần lực của Phật luân phiên giảng nói về Bát Nhã. Thường là ngài Tu Bồ Đề, Xá Lợi Phất, Phú Lâu Na, Thiên Đế (Ngọc Hoàng Thượng Đê) luân phiên nhau nói. Vì vậy, các chư thiên tề tựu rất đông. Chúng ta khởi sự đi vào kinh cho quen dần lời kinh, vì lời kinh lúc nào cũng nói đến chữ “ly”,đến mức độ sau này đọc không còn thấy vướng nữa, lúc đó tâm đã hơi thuần thục rồi, kinh gọi là “nhu nhuyễn.” Đó là giai đoạn văn tự bát nhã.

Giai đoạn thứ hai, là chúng ta có thể học tại chùa này, hoặc khi về nhà, hay ở bất cứ nơi chốn nào, tùy tâm thức mỗi người, ta phải tu tập “Quán chiếu bát nhã.” Vậy thế nào là Quán chiếu bát nhã? Thường thường trong kinh dạy, đầu tiên là ta phải quán vô thường, mọi sự mọi vật đều vô thường biến đổi, không có cái gì là thường còn mãi mãi cả. Thứ hai, lên cao hơn một bậc là ta phải quán lý nhân duyên, thấy tất cả các pháp đều là những nhân duyên hội tụ lại, như thân căn này nó không thực có, chỉ là sự hội tụ của vô số tế bào, hộ trùng kết thành thân căn này, đến khi những con hộ trùng và các tế bào ấy hết duyên nghiệp, thì nó tách rời ra, mỗi đứa đi một đàng, đứa đi ngược, đứa đi xuôi, lúc đó ta sẽ mất đi cái thân này, vì thế gọi là không. Mà tất cả các pháp đều như thế, thân căn chúng ta, bàn này, ghế kia, chùa chiền v.v… đều là do vô lượng những nhân duyên hội tụ lại, kết lại do những nghiệp cũ, khi kết lại đúng thời gian thì nghiệp lực giữ nó lại, làm thành hiện hữu một thời tiết dài, ngắn nào đó, khi hết nghiệp thì tự nhiên nó rũ ra, thì cái pháp ấy không còn nữa. Thứ ba, chúng ta quán lên cao nữa là quán theo lối như huyễn. Rồi thứ tư là hành giả sẽ quán đến chỗ như như tịch tĩnh, trạm nhiên tịch chiếu, đó chính là cái tâm của mình. Đó là giai đoạn quán chiếu bát nhã. Thì tùy mỗi người, sau khi đọc kinh, thấy ta hợp với lối quán chiếu nào nhất thì hành theo lối ấy, thích quán theo lối nhân duyên, hay như huyễn, hoặc tu tâm từ v.v… thì làm theo thế ấy. Riêng tôi, tôi chọn cái quán nhưhuyễn. Như tôi đã thường nói nhiều lần ở đây, lối quán chiếu này, theo tôi dễ thực hiện hơn cả. Như khi ta đi chơi ngoài phố, đến công viên, trông thấy một cái cây mọc lên, ta quán chiếu rằng cái cây đó cũng mọc trong tâm của ta mà ra cả. Hoặc trông một chiếc lá lắt lay, rung động, ta nghĩ rằng, cái tâm ấy cũng đang lắt lay rung động vậy. Hay ta xuống phố, vào trong khu Phúc Lộc Thọ ngồi ăn, thấy lao xao chung quanh những người nào ăn, nào uống, nào trẻ con chơi nghịch, người lớn cười đùa, đôi khi cãi vả ồn ào, mà lúc đó ta vẫn giữ được tâm bình lặng và quán chiếu rằng: Tất cả những thứ đó đều “hiện-trong-tâm mình, chứ không- phải-ngoài-tâm”. Hay những lần ra biển chơi, trông thấy nước bao la trùng trùng, nhiều khi khỏi tâm sợ hãi, nhưng rồi cũng phải quán rằng, tất cả cũng đều nổi lên trong tâm mình mà thôi. Vì trong kinh Lăng Nghiêm dạy rằng, tất cả sơn hà đại địa của vũ trụ này đều nổi lên trong tâm tương tự như áng mây xanh trên bầu trời. Lối quán chiếu này đi đâu, làm gì, cũng đều làm được cả, đồng thời chúng ta cũng có thể mỗi ngày đề khởi tâm Từ khoảng mười lăm hay ba mươi phút. Đề khởi tâm Từ để làm gì? Để cho tâm ta mềm lại, nhu nhuyễn hơn, vì tâm ta bây giờ rất thô tháo, cứng ngắc, vì từ nhiều kiếp nó chỉ thích chạy theo ngoại vật, vì nó chấp ngã một cách kiên cố, người nào nói chạm đến mà không hợp ý là ta nổi sân lên ngay. Đó là tâm thô, không có mềm mại. Nên ta phải đề khởi tâm từ mới làm bớt đi được tham, sân, si, ngã mạn…, lúc đó mới có thể đi sâu vào vô thức.

Vì vậy, trong kinh Pháp Hoa, có ngài Thường Bất Khinh, gặp ai cũng lạy. Đó chính là vì ngài quán cái tâm ấy, trông người kia xấu xí, tật nguyền, nhưng ngài biết được người ấy cũng có phật tánh trong tâm, cũng từ một biển diệu tâm mà ra, nên lễ lạy chính là lễ lạy cái tâm ấy, cái Phật tánh ấy.

Giai đoạn thứ ba là giai đoạn “chứng nhập”. Chứng nhập thì ghê gớm quá, chúng ta chưa cần phải nói đến, vì chưa ai đến mức độ đó cả.

Nhưng hôm nay, tôi muốn nêu lên một vấn đề, có lẽ vấn đề này nhiều người đã nghe qua, nhưng chưa có thì giờ hoặc có dịp để suy nghĩ kỹ. Trong đạo Phật có hai chữ mà chúng ta luôn luôn nghe nhắc tới, nhưng có thể chúng ta chưa hiểu rõ, mà hai chữ này rất cần hiểu rõ để sau này biết được trình độ tu chứng của chính mình và những người khác. Chữ thứ nhất là chữ “NGỘ,” chữ thứ nhì là chữ “GIÁC.” Vậy thì thế nào là ngộ, và thế nào là giác? Trong kinh Pháp Hoa nói đến bốn chữ: KHAI, THỊ, NGỘ, NHẬP, thì chỉ có chữ ngộ mà không có chữ giác, vậy chữ giác trong bốn chữ này là chữ nào?

Chữ “giác” chính là chữ “nhập.”


PHẬT TỬ: Nếu theo như lời ông giảng, tôi nghĩ như vậy chữ “ngộ” là chỉ cho con đường mới chớm hiểu về pháp giới. Còn chữ “Giác” là… chắc là phải hiểu sâu lắm rồi, có phải chăng?

ĐÁP: Đức Phật ngài là bậc giác ngộ. Nhưng thường chúng ta gọi ngài là bậc Đại Giác mà không dùng chữ ngộ. Và ngài Thiện Tài đồng tử mà chúng ta đang học, thì ta lại gọi là bậc Đại Ngộ hay bậc Đại Giác? Theo ý tôi, kinh Hoa Nghiêm là kinh của nhập pháp giới, ít khi dùng chữ ngộ…


HỎI: Vậy xin hỏi, ngộ là gì?

ĐÁP: Ngộ là nhận ra.


HỎI: À…, hóa ra chữ ngộ chỉ có nghĩa là “mới gặp thấy” thôi, chữ ngộ còn kém chữ “đắc,” vì theo như tôi suy luận, chữ đắc nó sâu xa hơn, có phải không?

ĐÁP: Đắc là một danh từ gọi chung. Thí dụ một hành giả đắc được một quả vị thấp nào đó cũng gọi là đắc, hoặc một quả cao nào đó cũng gọi là đắc. Trở lại chữ ngộ, nó không có nghĩa là “gặp gỡ” đâu, mà nó có nghĩa là “nhận ra.” Khi một hành giả tu đến mức nhận ra cái tâm của mình thì gọi là “liễu ngộ” đến khi vào được lớp ngoài của tàng thức sơ năng biến, tức là chớm bước vào không hải thì gọi là “đại ngộ,” nhưng nếu hành giả không dừng ở bờ mé ấy mà lặn sâu xuống đáy, đến chỗ tột không, khởi lên tất cả những giả hữu để độ sanh thì đó mới gọi là giác và đại giác. Vậy thì, các vị Bồ Tát là những bậc đã vào được đến tàng thức rồi, nhưng còn tùy theo mức độ nông, sâu. Trong con đường lặn sâu vào tàng thức, cũng có nhiều giai đoạn, khi vượt một phần thì gọi là “tương tợ giác” (ngờ ngợ biết được pháp giới), sâu hơn nữa thì gọi là “phần giác” (biết được một phần pháp giới), và lặn đến tột đáy tàng thức ấy thì gọi là “đại giác” (biết được toàn thể pháp giới, hay nhập pháp giới trọn vẹn)

Quý vị phải nhớ rõ con đường đi vào tâm thức bằng những danh từ này: Liễu ngộ, chứng ngộ, tương tợ giác, phần giác và đại giác. Nên ngài Thiện Tài trong Hoa Nghiêm không thể gọi là ngộ được mà đến đoạn cuối, lúc ngài gặp ngài Phổ Hiền thì ở mức độ gần như Đại Giác rồi. Hơn nữa, có thể nói tất cả những nhân vật trong Hoa Nghiêm ta cũng không thể dùng chữ ngộ được, vì các ngài toàn là những bậc ở mức độ phần giác hay đại giác cả.

Vậy thì những vị nào hay dùng chữ ngộ nhất? Đó là những vị tu thiền. Như tông pháp của Thiền đốn ngộ chẳng hạn. Nhưng hai mươi tám tổ sư thiền bên Ấn (Tây độ) là những vị thiền sư rất cao, mà không bao giờ các ngài tự nhận mình giác hay tự nhận mình là Phật cả. Còn nói về năm vị tổ thiền đầu tiên bên Trung Hoa (Đông độ), là những ngài Đạt Ma, Huệ Khả, Tăng Xán, Đạo Tín và Hoằng Nhẫn cũng không bao giờ nói về mình, không tự cho mình là những bậc đại giác. Tôi cho rằng các vị như Hoằng Nhẫn, Hám Sơn và Hư Vân các ngài không phân biệt tông với giáo. Ngài Hám Sơn và ngài Hư Vân cũng niệm Phật. Riêng có ngài Hoằng Nhẫn, ngài viết cuốn sách “Tối thượng thừa luận” thì ngài nói một câu rất khiêm tốn, không bao giờ khoe mình, vì trong trang cuối của cuốn sách, ngài nói với Phật rằng: “Con viết bộ luận tối thượng thừa này, là con y văn, nhận nghĩa, chứ không phải là do sự chứng đắc.” Từ ngài Huệ Năng trở về sau, thiền Đông độ đi vào một khúc rẽ. Thứ nhất là các ngài có vẻ Trung Hoa hóa vấn đề thiền, đồng thời đưa đến bát nhã, nhưng bát nhã đã đượm mầu sắc vô vi của Lão, Trang, về sau, lại xiển dương những thứ đó thành những công án và thường thường các ngài chỉ nhấn mạnh chữ “ngộ” thôi. Vì các ngài lập luận rằng, các thiền khác của nhà Phật gọi là “Như Lai thiền” thì các ngài không theo những lốì thiền ấy, mà lại theo Tổ sư thiền, mà Tổ SƯ thiền bắt nguồn từ điển tích “Niêm hoa vi tiếu,” tức là khi đức Phật ngồi ở Linh Sơn, đưa cành hoa lên ngài Ca Diếp hiểu được ý Phật nên mỉm cười. Có nghĩa là “lấy tâm truyền tâm.” về sau, các vị thiền sư Đông độ đưa cái đó lên, và cho rằng TỔ sư thiền hơn Như Lai thiền. Điều đó, tôi nghĩ chưa hẳn là đúng. Lại còn nói rằng, Như Lai thiền được dạy trong các kinh, còn riêng Tổ sư thiền thì không có trong các kinh, chỉ lấy “tâm truyền tâm” mà thôi. Thí dụ như trong Hoa Nghiêm, có một lối thiền gọi là “Quán pháp giới,” mà ngài Đỗ Thuận và ngài Thanh Lương chủ trương, nhưng lối thiền ấy, sau này không có mấy người theo, vì không mấy người đọc nổi Hoa Nghiêm. Đồng thời lại có kinh Lăng Nghiêm đưa ra phép quán “Như huyễn tam ma đề” phép quán này có ba giai đoạn: không, giả và trung. Trước hết đi vào không hải, đó là lịch trình mà hành giả phải đi qua sắc ấm, qua các cảm giác (thọ ấm), rồi vượt qua những tâm tưởng (tưởng ấm), hóa giải tất cả những thứ đó, rồi qua hành ấm chấp ngã, hóa giải luôn cái ngã ấy, rồi đi vào thức ấm sơ năng biến. Lúc đó, hành giả đã bắt đầu đi vào biển tàng thức lung linh kỳ diệu, cái không hải của tâm thức. Trong lúc quán chiếu đi vào không hải, khi vào được tàng thức sơ năng biến, hành giả không được dừng lại ở đó. Thường những vị đã vào được tàng thức sơ năng biến là tương đương gần như một vị A La Hán, đã đi qua được tứ thiền, tứ không định, rồi qua luôn diệt thọ tưởng định để vào tàng thức sơ năng biến. Vào trong đó rồi, các ngài gột nốt những phiền não chướng để thành quả A La Hán. Còn những vị tu theo pháp môn Tịnh Độ thì theo hạnh nguyện sẽ thây đức A Di Đà. Ta nên nhớ rằng tất cả con đường tu tập thiền hay tịnh, đều phải đi vào tàng thức sơ năng biến, dù là thiền đốn ngộ, nghi tình, công án hay thiền theo lối Thiên Thai v.v… cũng phải đi vào tàng thức sơ năng biến ấy. Nhưng phương tiện dùng thì khác nhau. Đây cũng chính là con đường quán chiếu bát nhã.

Nay, tôi xin đơn giản hóa và tóm lược lại cho quí vị nắm được những ý chính. Trong nhà thiền, đại khái là có một pháp môn là “Như Lai thiền” dạy trong các kinh, và một phương pháp khác là “Thiền đốn ngộ,” Tổ sư thiền mà bây giờ có nhiều người theo học, phương pháp thiền đốn ngộ này là bất lập văn tự, không quan tâm đến kinh sách nhiều. Nay, ta nói đến Như Lai Thiền trước, xem sự khác biệt như thế nào.

Các vị Bồ Tát tu tập đi vào không hải, vào được đến đó thì phải LẶN SÂU XUỐNG để khởi lên những cái giả độ sanh và trung quán song chiếu để thành Phật. Còn các vị Thanh Văn thì đầu tiên các ngài tu tứ niệm xứ, sau đó đến 37 phẩm trợ đạo, rồi tu tứ thiền, vào bốn không định bằng cách quán tứ đế và thập nhị nhân duyên để vào được diệt tưởng định, sau đó rồi sẽ vào được không hải. Không hải ở đây là cái rỗng không của tâm thức, nhưng các vị Thanh Văn chỉ mới chớm bước vào không hải thôi, chưa lặn sâu. Ở đây, các ngài ngồi quán chiếu để tiêu dung đi tất cả phiền não chướng như: Tham, sân, si rồi thành quả A La Hấn, dứt được phân đoạn sanh tử, không phải thọ sanh trở lại nữa.

Còn thiền của đại thừa thì có những ngành thiền nào? Như bên Trung Hoa, có một ngành thiền tạm gọi là Hoa Nghiêm thiền. Tổ của ngành này là ngài Đỗ Thuận và Thanh Lương, nhưng rất tiếc ngày nay không còn được truyền thừa nữa, vì lúc đầu, các vị trí thức bên Tầu theo Hoa Nghiêm rất nhiều, nhưng sau thấy quá khó, kinh lại dài gần năm ngàn trang tụng mãi không hết, nên càng ngày càng thưa dần. Và còn có một ngành thiền khác bên Trung Hoa, đi khá đúng như trong kinh đó là ngành thiền Thiên Thai, do ngài Huệ Tư và Trí Giả Đại Sư ở núi Thiên Thai lập nên. Các vị tổ này cũng đồng thời với ngài Huệ Năng bên thiền đốn ngộ. Trong ngành này, Tổ Thiên Thai cũng lập theo lốì không, giả, trung, và nói đến “nhất tâm tam quán.” Trước hết phải quán không, đi vào bát nhã, sau quán giả để đi vào đại bi, sau đó là “không-giả” song quán. Trong con đường thiền định của ngành này, ta thấy đi đúng như trong kinh. Vì trong Lăng Nghiêm cũng nói rằng, có ba giai đoạn tu “như huyễn tam ma đề” là: Samatha (không quán), Sa-ma-bát-đề (giả quán) và thiền na (trung đạo song chiếu). Nhưng bên ngành thiền đốn ngộ lại đưa ra một lối lập luận khác, tuyên bố rằng, không cần phải lập văn tự, chỉ cần “trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành Phật.” Vậy thì câu “kiến tánh thành Phật” là câu mà chúng ta cần phải xét kỹ. Thực ra, các vị Tổ thiền sau ngài Huệ Năng chỉ nhận mình là ngộ, đâu dám nói đến chữ “giả.” Đủ biết rằng, những giai đoạn của ngành tu thiền đốn ngộ, thí dụ như hành giả đề khởi nghi tình, hay quán thoại đầu để đi vào không hải, mà vào đến đó cũng chưa xong chuyện, (chứ đừng nói đến chuyện thành Phật), vì chính trong nhà thiền, cũng có một chữ gọi là “bảo nhậm.” Bảo nhậm có nghĩa là khi một hành giả mới lọt vào không hải thì phải “bảo nhậm” cái kiến tánh đó, vì cái đó chỉ là một sự “thoáng nhìn thấy” (glimpse) không hải của tâm, chưa đến được mức độ nhìn thấy thường trực. Vì vậy, phải vào rừng sâu, tu 30 năm để bảo nhậm cái đó. Nói một cách dể hiểu, hành giả phải tập sông không lìa tánh, giữ cái tánh đó thường trực hiện hữu, sau đó mới đi vào quán giả. Nên các vị thiền Trung Hoa, thường hay nói một cách phóng khoáng, và tuyên bố câu “kiến tánh thành Phật”. Nhưng thực ra, từ kiến tánh đến thành Phật là cả một đoạn đường dài xa cần khổ, vì kiến tánh chỉ mới thành tựu được không quán, (một phần ba đường tu) mà các ngài còn phải đi nốt con đường giả quán và trung đạo song chiếu. Mà trong hai phần ba đoạn đường cuối cùng này, giả quán và trung đạo song chiếu, phải đạt nhiều thần thông biến hóa thì mới tới được mục đích tối hậu. Một điều nữa cần để ý, các vị thiền sư Trung Hoa ít có vị nào có thần thông, nếu có người hỏi đến thần thông thì các ngài lại bác, chỉ nói rằng ta kiến tánh diệu dụng vô cùng mà không cần thần thông. Nhưng chính trong kinh Hoa Nghiêm dạy, phải có thần thông mới độ sanh được. Nên tôi nghĩ rằng, các vị bên thiền đốn ngộ, sau này ăn nói một cách quá bát nhã, phóng khoáng, cứ nói vô trụ, vô tâm, kiến tánh thành Phật v.v… như chuyện kiến tánh là thành Phật rất dễ, nên gieo lại nhiều sự ngộ nhận cho người đời sau. Các ngài quên rằng, tập khí của một chúng hữu tình rất sâu xa ghê gớm, vì nhiều khi một hành giả đã trừ được những tâm niệm thô, lúc đó tâm đã được tĩnh lặng đôi chút, nhưng ở trong, tập khí biến dịch sanh tử còn nhiều. Chẳng cần phải tìm đâu xa, ta cứ xét chính mình cũng biết ngay. Lúc ta đọc kinh, hay giảng một bài pháp, thì lúc đó ta có vẻ từ bi, tự tại lắm, có vẻ không lấy gì tham, sân nhiều. Nhưng nếu có một người nào dè bỉu, chê bai thì lúc đó tập khí lại nổi lên ầm ầm, chẳng có gì là từ bi,tự tại. Hơn nữa, tập khí chấp ngã rất kiên cố, đừng tưởng chỉ cần một sớm, một chiều, một vài tháng, một vài năm mà có thể tiêu trừ được. Vì vậy, trong Thiền đốn ngộ, chuyện kiến tánh là chỉ giai đoạn “mới-chớm-vào-không-hải” thôi, còn hai phần ba con đường phải đi. Nên sau khi kiến tánh rồi, cần phải đi vào rừng sâu, tu ba mươi năm để bảo nhậm cái đó, cho kiến tánh ấy không bị lu mờ. Và chính Tổ Đạt Ma cũng dạy tu theo lối quán không, trung,giả, bằng cớ là câu chuyện của ngài Huệ Khả đến cầu pháp mà tôi đã kể một lần  đây rồi. Khi Tổ Đạt Ma hỏi ông đến đây đề cầu gì? “Thưa thầy, con chỉ xin thầy an tâm cho con”. “Vậy ông đưa cái tâm đây ta an cho”. Lúc đó Huệ Khả đứng suy nghĩ một lúc, thấy rằng cái thân này không phải là tâm, lên đến những cảm giác phù du hư ảo cũng không phải là tâm, lên đến những tâm tưởng cũng chỉ là những vọng tâm, không phải là chân tâm, rồi lên đến cái ngã cũng không thấy có nữa, nên thưa rằng: “Con không thấy tâm ở đâu cả. “Vậy là ta đã an tâm cho ông rồi đó”. Tức là ngài đã đưa ngài Huệ Khả vào nơi không hải, thành tựu giai đoạn không quán. Tu một ít lâu nữa, thì ngài Huệ Khả lại trình lên Tổ Đạt Ma rằng: “Thưa thầy, con đã buông bỏ muôn duyên rồi,” buông bỏ muôn duyên tức là ngài Huệ Khả đang bơi lội trong không hải ấy, không còn một duyên gì vướng ngại nữa. Lúc đó, Tổ Đạt Ma bèn dặn rằng: “Cẩn thận, chớ rơi vào đoạn diệt, hãy đi vào diệu hữu.” Ý nói rằng, ông đã vào được không hải đó rồi, nhưng đừng trụ vào cái không ấy, mà khởi giả quán để đi vào diệu hữu. Nên ta thấy rõ, từ sau ngài Huệ Năng, các vị thiền sư Trung Hoa rơi vào cái đà mê say, muốn Trung Hoa hóa ngành Thiền đốn ngộ, đồng thời nhuộm thêm mầu sắc vô vi của Lão, Trang. Nên các ngài ít nhắc tới quán giả và quán trung mà chỉ nói đến phép đi vào kiến tánh thôi, tức là đi vào không hải. Do đó, các vị thiền sư không bao giờ gọi là giác mà chỉ gọi là ngộ thôi.

Còn tu theo lối Tịnh Độ của chúng ta thì sao? Thì thấy rõ rằng, lối tu tịnh độ chẳng có gì kém thiền, hơn thế nữa, cũng có thể gọi là “Đốn-ngộ-trực-chỉ.” Vì khi ta chuyên tâm niệm Phật vào đến niệm Phật tam muội, đó cũng là con đường đi vào không hải, lọt vào đó thì bên thiền tông sẽ kiến tánh, còn Tịnh Độ sẽ thấy được đức A Di Đà. Một đằng là phi thần hóa (thiền),một đằng là thần hóa (Tịnh Độ). Một hành giả tu Tịnh Độ sẽ thấy được đức A Di Đà khi vào không hải ấy. Nhưng lúc chết, ta có thể thấy được ngài là vì bất cứ ai chết cũng phải có một lúc thần thức được rút lên lọt vào không hải ấy, đó là một cơ hội tự nhiên mà ta có thể thừa dịp để được giải thoát dễ dàng. Phương pháp Tịnh Độ có điểm rất hợp cho thời mạt pháp là người tu có thể tu theo cách “tán môn” cũng có thể được vãng sanh, mà không cần phải niệm đến mức nhất tâm bất loạn. Thứ nữa, theo như bên Mật Tông của Tây Tạng dạy, thì mỗi người khi chết đều có một cơ hội tự nhiên để được giải thoát. Có hai cơ hội tự nhiên con người có thể được giải thoát. Cơ hội thứ nhất là trong kiếp hoại, khi thế giới này băng hoại đi, lúc đó tự nhiên trên trời có tiếng nói: “Các chúng sanh nào ở dục giới sẽ lên sơ thiền”. Rồi có những cơn phong luân đưa chúng sanh lên sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền. Đó cũng gọi là “Đốn,” tức là biến thể. Cơ hội thứ hai là khi chết, (theo như trong Mật tông Tây Tạng) thần thức bị rút lên trên, qua bình diện sắc ấm, qua thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và lọt vào tàng thức sơ năng biến. Vào đến đó thì tùy theo mức độ thanh tịnh của người chết, có người chỉ trụ trong đó một giây, có người trụ được một, hai giờ, nhẫn đến vài ngày. Lúc đó, nếu người nào có sự tập luyện, biết niệm Phật, biết quán như huyễn, sẽ có thể nắm ngay cơ hội ây.

Tâm thức chúng ta luôn luôn phân tán, lúc nghĩ thế này, sau lại nghĩ thế khác. Nhưng trong thiền tông, hành giả dùng định lực để cột tâm lại bằng cách “đề khởi nghi tình.” Vì pháp tu nào cũng là “nhất niệm vi mật hiện tiền an trụ tịch tĩnh,” bên Tịnh Độ niệm Phật cũng thế, nhưng bên tịnh độ có rất nhiều cái lợi như tôi đã nói hồi nãy. Bây giờ ta hãy trở lại bên thiền tông với những công án, và đề khởi nghi tình. Vậy thì đề khởi nghi tình là như thế nào? Thường thường thiền sinh hay quán những công án như sau: “Niệm Phật là ai?” “Vô,” hay “Muôn pháp qui về một, thì cái một ấy qui về đâu?” v.v…, còn có rất nhiều công án khác, mà các vị thiền sư tùy theo căn cơ của thiền sinh mà đặt thêm ra. Nhưng công án thông dụng nhất có lẽ là “Niệm Phật là ai ?” Ai khởi lên câu niệm Phật ấy ? Có phải là Ông Nguyễn? Bà A? Có phải là cái thân của tôi không? Nói tóm lại, phải quán chữ “AI” đó, mà chữ “ai” ấy chính là quán cái tâm của ta vậy. Như thế, thiền sinh luôn quán chữ “Ai” ấy, suốt ngày, đi, đứng nằm ngồi đều nghĩ đến nó, đến mức độ không còn thấy mình đi, đứng, nằm, ngồi, nhẫn đến không thấy được cảnh giới chung quanh. Chỉ nhớ một chữ “Ai,” tức là nhớ đến cái tâm đó. Dần dần, trải qua độ vài tháng, vài năm, như ngài Mông Sơn mang chữ “Ai” quán trong mười tám hôm thì ngài lọt được vào tàng thức, có vị phải quán đến mấy chục năm, có vị chỉ quán trong vòng vài ngày, vài tháng thì sẽ lọt được vào tàng thức, có nghĩa là, cái dùi của vị đó chọc thủng được lớp sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, ngã ấm (hành ấm), phá tan cái ngã đó rồi mới chui vào thức ấm. Vì vậy, phần lớn các vị thiền sư không có vị nào có thần thông, vì muốn có thần thông phải đi xa hơn vào quán giả và quán trung. Chỉ có mấy vị như ngài Phổ Hóa, Tịnh Chiếu là có thể chết tự tại thôi, mà không có thọ sanh tự tại, đồng thời không có thần thông.


HỎI: Xin ông định nghĩa chữ thần thông là gì? Ngay cả khoa học bây giờ cũng có thần thông vậy, như nếu một người có máy quay phim, đi đến một nước ở bên kia trái đất, quay những quang cảnh mà ở đây ta không thể thấy, rồi đem về đây quay lại, thì đó cũng gọi là thần thông. Hay người tu có một chút định, có thể cầm đá hóa vàng cũng gọi là thần thông. Theo tôi, khi người ta không chứng minh được một điều gì, và nhất là không làm được, thì người ta cho rằng đó là thần thông. Nếu vậy, khoa học càng ngày càng tiến bộ thì khoa học cũng có rất nhiều thần thông hay sao?

ĐÁP: Những thần thông như chỉ đá hóa vàng, kinh Phật gọi đó là những thần thông của thiên ma ngoại đạo, chưa ăn thua gì với thần thông của chư Phật và chư Đại Bồ Tát, vì tất cả đều tùy vào mức độ nông sâu của tâm thức. Vả lại, ngoại đạo còn nhiều mong cầu và chấp Ngã. Còn cái gọi là “thần thông” của khoa học lại còn kém hơn nữa, vì khoa học phải trụ vào bình diện sắc ấm để làm nên thần thông, ví dụ như máy ảnh (là một thí dụ ông vừa nêu ra), xe hơi, máy bay, điện thoại v.v… đều làm từ sự xắp xếp những chất rất thô kệch của sắc ấm. Còn trong tâm thì chấp Ngã, chấp vật, nên đem theo nhiều đấu tranh, hệ lụy và phiền não. Còn thần thông của đạo Phật như những thần thông trong kinh Hoa Nghiêm hay kinh Duy Ma Cật. Ngài Duy Ma ngồi một chỗ như người thợ gốm, vươn cánh tay kéo tất cả cõi Bất Động đến cõi Ta Bà để độ sanh. Hay chư Phật hóa hiện ra thành nhiều cõi tùy theo nghiệp duyên cho chúng sanh nương về. Như cõi Cực Lạc là do đức A Di Đà hóa hiện ra vậy. Nói tóm lại, thần thông thuộc về quán giả (từ bi). Bát Nhã thuộc về quán không (trí huệ), đó là lối song chiếu cũa các ngài, như con thoi thiện thệ qua lại không bao giờ ngừng nghỉ.


HỎI: Xin ông cho biết sự khác biệt giữa Thông Thiên Học của Bà La Môn giáo và đạo Phật khác nhau thế nào?

ĐÁP: Ngày xưa, trước khi tôi vào đạo Phật, tôi đã bị lạc năm, bảy năm đọc sách Thông thiên học. Về sau, tôi bị một ấn tượng rất mạnh là Bà La Môn giáo nói rằng, một người Bà La Môn thì vĩnh viễn là Bà La Môn mà không thể xuống làm súc sanh, vì thần ngã bất biến. Ngược lại, đạo Phật lại bảo thần ngã không phải bất biến, nó là một “trường lực luôn luôn biến chuyển,” khi một dẫn nghiệp mạnh, nó sẽ dẫn thần thức đi vào cảnh giới ấy. Đạo Phật lại nói sau khi chết, thần thức chỉ trải qua bốn mươi chín ngày làm thân trung ấm, sau đó đi thọ sanh. Còn Thông thiên học nói giữa hai kiếp có khi cách nhau hơn một ngàn năm. Ngược lại, đạo Phật nói rõ không nhất định một người sẽ mãi mãi làm người, súc sanh mãi mãi là súc sanh, mà còn tùy theo nghiệp duyên dẫn dắt. sở dĩ đức Phật nói như thế vì nhãn lực (thiên nhãn thông) của ngài rất rộng lớn, trùm khắp tam thế ba đời, hơn hẳn các tôn giáo khác. Các vị Bà La Môn chỉ nhìn được một khúc nên thấy sao nói vậy thôi. Riêng tôi nghĩ, những trường hợp người chết bị đọa làm sâu bọ rất khó, nhưng trường hợp bị đọa làm súc sanh có thể xảy ra, vì nhiều khi trước khi chết, tâm người chết nổi lên những cuồng vọng của tâm thức súc sanh thì sẽ bị đọa và súc sanh. Đừng nói đâu xa, đôi lúc trong tâm thức ta hay nổi lên những cuồng vọng rất giống súc sanh, tham ăn, tham dục, bỏn xẻn, sân si, tật đố v.v… ở một mức cao độ thì đó là những tâm niệm của súc sanh, ngạ quỉ, nếu chết đúng lúc tâm thức có những thứ đó nổi lên thì chắc sẽ bị đọa.


KINH: …(Bỏ một đoạn)…

Nếu người thanh tịnh tâm quảng đại
Đầy đủ thí giới các công đức
Thân cận Như Lai đủ từ bi
Khiến họ nghe tiếng đại thừa đạo
Hoặc có quốc độ nghe nhất thừa
Hoặc nhị, hoặc tam, hoặc tứ, ngũ
Như vậy nhẫn đến vô lượng thừa
Đều là Như Lai phương tiện lực
Niết Bàn tịch tịnh chưa từng khác
Trí hạnh thắng liệt có sai khác
Như hư không thể tánh là một.
Chim bay gần, xa tự sai khác.

GIẢNG: Ý ngài muốn nói rằng, thực tại cuối cùng là Như Như. Niết Bàn tịch tĩnh chưa từng sai khác. Nhưng sở dĩ có tất cả các pháp, tất cả các thừa, Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, Bồ Tát thừa, cùng những mức độ tu chứng v.v… là vì do tâm còn phân biệt nên mới có sự sai khác, và tùy theo căn cơ của chúng sanh. Nên tất cả pháp không thực có.


KINH:

Phật thể âm thanh cũng duy nhất
Phổ biến tất cả cõi hư không
Tùy tâm chúng sanh sai khác nhau
Nên nghe và thấy cũng tự khác.

GIẢNG: Chúng ta nên nhớ thế giới này chỉ là ảnh hiện trùng trùng. Đừng tưởng rằng cái chùa này, cái cây ngoài sân chùa, cái núi v.v… phải nhất định là những thứ đó, mà vì chúng ta cùng một cộng nghiệp nên cùng trông thấy như nhau, nên đặt danh xưng, cho rằng cái này gọi là chùa, núi, sông, cây cỏ v.v… Nói tóm lại, tất cả vũ trụ này là một trường biến hiện, tùy theo tâm thức mỗi loài chúng sanh mà ánh ra thôi, mà loài khác sẽ trông thấy khác.


KINH:

Do Phật quá khứ tu công hạnh
Hay theo sở thích diễn diệu âm
Không lòng tính nghĩ đây và kia
Ai là đáng nói, ai thời không
Nơi mặt Như Lai phóng đại quang
Đủ số tám muôn bốn ngàn sáng
Pháp môn Phật nói cũng như vậy
Chiếu khắp thế giới trừ phiền não
Đầy đủ thanh tịnh công đức trí
Mà thường tùy thuận tam thế Phật
Ví như hư không chẳng nhiễm trước
Vì chúng sanh nên Phật xuất hiện
Hiện có sanh, lão, bệnh, tử, khổ
Cũng hiện trụ thọ ở thế gian
Dầu thuận thế gian hiện như vậy.
Thể tánh thanh tịnh đồng hư không.

GIẢNG: Trong kinh nói rằng các chư Phật và các quốc độ, và cõi Cực Lạc cũng vậy, các ngài hiện lên để hóa độ chúng sanh, mà thực ra không có gì nhất định cả. Ta chỉ cần nghĩ điều ấy khoảng vài ngày, vài tháng, vài năm, nhẫn đến vài chục năm, đến khi điều ấy thấm vào tâm thì lúc đó ta sẽ có được chút huệ nhãn, dù mang nghiệp nặng chư Phật cũng duỗi lòng cứu vớt. Vì tin được điều đó là rất khó.


HỎI: Lâu nay, ông thường giảng, tất cả những gì ở ngoài thế gian đều mọc từ trong tâm ra. Chữ “mọc” trong tâm ra có nghĩa thế nào? Xin ông giảng rõ hơn một chút. Vì theo như ai cũng đều thấy rõ, những vật ở ngoài đều do nhiều thứ tạo thành, ví như cái cây, cần phải có đất, có nước, có ánh sáng, có người vun sới v.v… Còn cái tâm, theo tôi hiểu, nó giống như một lăng kính để chiếu vào những đối tượng ấy (cảnh y báo bên ngoài), tùy theo nghiệp riêng của mỗi loài chúng sanh mà có sai khác, chứ không phải từ trong tâm này chui ra làm thành. Không biết tôi hiểu như vậy có đúng chăng?

ĐÁP: Muốn giải thích được rõ ràng, nay ta phải trở về với duy thức học. Trên tột bờ mé của biển tâm nó là một biển sáng ngời, không có một chút vọng nào,một vật nào,đó là Tâm của Phật, là biển uyên nguyên Như Như Tịch Tĩnh. Còn tàng thức của chúng sanh thì nó có một nửa chân, một nửa vọng. Tàng thức ấy tiếp tục đi xuống một bình diện thô kệch hơn là Mạt na thức. Do vọng tưởng phân biệt, Ngã và Phi Ngã, nó bị phân đôi. Một đằng là tướng phần, đi ra ngoài, một là kiến phần, ở trong. Kiến phần tượng trưng cho tâm thức trong thân chúng sanh, còn tướng phần di ra ngoài thành vũ trụ thế giới này, nhưng tất cả đều lưu xuất từ nơi biển diệu tâm ấy. Nên tôi mới nói là nó “mọc ra”, mọc ra từ tàng thức ấy. Nhưng chúng sanh ngu si, say mê, chấp trước nhiều mặt, thích cái này thì cho là của ta, ghét cái nọ thì lại cho là không phải của ta, mà không biết rằng tất cả cũng từ một biển tâm ấy mà ra… Nói rõ hơn, thì cây mọc từ đất, đất mọc từ hư không, hư không mọc từ thức luân, mà thức luân chính là cái “bóng mờ” của biển tâm ấy.


HÓI: Như vậy, trong tàng thức nó vẫn có cả kiến phần và tướng phần. Vì trong duy thức học nói rằng, Mạt na thức lấy cái kiến phần của A lại da thức chấp làm ngã. Vậy thì tất cả những thức đi vào vọng, từ mạt na thức trở xuống, hình như nó đều có tướng phần và kiến phần cả?

ĐÁP: Đúng vậy. Nhưng ở A lại da thức, tướng phần và kiến phần chưa hiện rõ rệt, nó rất vi diệu, gần như một, nó dễ trực nhận. Chỗ đó là bờ mé mịt mùng, không có mấy ai giải được rõ ràng, vì ngôn từ hạn hẹp, không thể nghĩ bàn được, chỉ biết và chấp nhận như thế thôi. Nên khi tôi nói cái cây ấy nó mọc từ trong tâm, tức là do nhân duyên từ nhiều kiếp, bây giờ nó hiện tướng ra như thế.


PHẬT TỬ: Tại vì ông cứ nói vắn tắt “nó mọc từ tâm ra” nên khi người nghe thấy rất “vấp” và khó chịu. Nhưng bây giờ ông giảng rõ ra từ tàng thức thì có vẻ dễ chấp nhận hơn.

ĐÁP: Ông nói như thế cũng rất đúng, vì tùy theo tâm thức của mỗi người nhìn vào một vấn đề như thế nào. Nhưng đối với riêng tôi, tôi thích dùng những chữ “mọc” hay chữ “nở,” vì những chữ ấy nó đưa tôi đi sâu vào tàng thức, để thâm nhận được cảnh giới nó chỉ từ tâm mình hiện ra.


KINH:

Giảng pháp chơn thiệt khiến điều phục
Hoặc đến trong chúng hội Phạm Thiên
Nói tứ vô lượng các thiền định.
Cho họ hoan hỉ bèn bỏ đi.

GIẢNG: Các đại Bồ Tát và chư Phật hiện lên như thế, nói pháp xong, hay làm xong một vài Phật sự rồi bỏ đi.


KINH:

Không ai biết được tướng qua lại
Hoặc đến sắc Cứu Cánh thiên cung
Để giảng giác phần những bửu hoa
Cùng những vô lượng thánh công đức
Sau đó bỏ đi chẳng ai biết
Phật trí vô ngại thấy khắp nơi
Trong đó tất cả những hàm thức
Đều dùng vô biên phương tiện môn
Nhiều cách giáo hóa khiến thành tựu
Ví như thuật sĩ giỏi ảo thuật
Hiện ra các thứ hình tượng huyễn
Phật hóa chúng sanh cũng như vậy
Vì họ mà hiện nhiều thân hình
Ví như trăng sáng giữa hư không
Thế gian chúng sanh thấy tròn, khuyết
Tất cả sông, ao hiện ánh trăng
Tất cả tinh tú khuất ánh sáng
Như Lai trí nguyện hiện thế gian
Cũng dùng phương tiện hiện tăng giảm
Tâm thủy Bồ Tát hiện bóng Phật
Thanh Văn, Duyên Giác khuất quang sắc
Như trong đại hải đầy châu báu
Trong sạch không nhơ, không hạn lượng.

GIẢNG (xúc động): Những câu kệ lạ lùng bất khả ngôn thuyết. Khó giải nói được. Nói không được, nói không được…


KINH:

Bao nhiêu chúng sanh ở bốn châu
Tất cả hiện bóng ở trong biển
Phật thân công đức cũng như vậy
Không nhơ, không đục, không ngằn mé
Nhẫn đến pháp giới các chúng sanh
Không-ai-chẳng-hiện-trong-thân-Phật.

GIẢNG: Chúng ta ngồi đây là đương hiện trong pháp thân Phật mà không hề hay biết. Hiện trong thân Phật Thích Ca, hay ngài Quán Thế Âm, tùy theo vị nào ta chọn.


KINH:

Ví như mặt nhựt phóng quang minh
Chẳng rời bổn xứ chiếu mười phương
Phật quang chiếu khắp cũng như vậy
Không khứ, không lai, trừ si tối
Ví như Long Vương tuôn mưa lớn
Chẳng từ thân ra, chẳng từ tâm
Mà mưa cùng khắp đều nhuần thâm
Trừ hết viêm nhiệt được thanh lương.

GIẢNG: Khi Long Vương tuôn mưa không phải từ thân hay từ tâm ngài, nhưng chữ “tâm” này ý nói là vọng tâm suy nghĩ của ngài. Mà chính từ cái tâm lực, có những nguyện như vậy, khi ngài quán chiếu đến những nguyện ấy thì tự nhiên có mưa lớn.


KINH:

Như Lai pháp vũ cũng như vậy
Chẳng từ thân tâm Phật phát ra
Mà hay khai ngộ tất cả chúng
Khiến khắp diệt trừ lửa tam độc
Như Lai thanh tịnh diệu pháp thân
Tất cả ba cõi không gì sánh.

GIẢNG: Pháp thân của chư Như Lai, pháp thân tịch tĩnh, ngoài ngôn ngữ. Không một ngôn ngữ, ý niệm nào có thể nói được, nó ngoài cái hữu và vô.


KINH:

Dầu không sở y mà ở khắp.
Dầu đến tất cả mà không đi
Như vẽ không trung, cảnh trong mộng
Phải quán thân Phật là như vậy
Những pháp có, không, trong ba cõi
Chẳng thể ví dụ cùng Phật được
Ví như chim muông trong núi rừng
Không nương không gian mà ở được
Đại hải ma ni vô lượng mầu
Thân Phật sai khác cũng như vậy
Như Lai phi sắc, phi phi sắc
Tùy nghi mà hiện, không sở trụ
Hư không, chân như và thiệt tế
Niết bàn, pháp tánh, tịch diệt thảy
Chỉ có những pháp chân thật này
Khả dĩ hiển thị được Như Lai
Sát trần tâm niệm đếm biết được
Nước trong đại hải uống hết được
Hư không lường được, gió buộc được
Không thể nói hết công đức Phật
Nếu ai nghe biển công đức này
Mà sanh lòng vui mừng tin, hiểu
Tất sẽ được những công đức này
Thận trọng chớ sanh lòng ngờ vực…

GIẢNG: Đây là đoạn kệ cuối cùng của ngài Phổ Hiền trong Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp Giới. Những ai nghe được biển biến hóa không cùng của chư Phật, mà sanh lòng kính tin, không ngờ vực, thì người đó trong một kiếp vị lai sẽ được mặc áo hào quang, đi dự những hải hội nhiệm mầu. Chúng ta, trong ban kinh này, tôi có thể nói chắc thế nào cũng sẽ đi đến mức đó, chỉ có nhanh (một, hai kiếp), hay chậm (nhiều kiếp) mà thôi.

Tới đây, ta chấm dứt phẩm nhập pháp giới, đồng thời cũng bơi qua được biển Hoa Nghiêm. Kỳ sau, chúng ta sẽ cố gắng dành vài năm bơi qua biển Bát Nhã. Biển này khó hơn, vì nó trừu tượng hơn, vì nó đi sâu vào Không. Nên ta phải hết sức kiên nhẫn, dù có ốm đau, bệnh tật cũng cố bơi qua.

 



ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

HOA NGHIÊM KINH

 

Phẩm Nhập Pháp Giới

Thứ ba mươi chín

 

Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà

Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH




53.- PHỔ HIỀN ĐẠI BỒ TÁT



Thiện-Tài tư-duy quán-sát nhất-tâm nguyện thấy Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát, và muốn thấy Ðại-Thiên thế-giới vi-trần-số thiện-tri-thức để gần-gũi cung-kính phụng thờ tuân hành giáo-pháp không chống trái, tăng trưởng xu cầu tất cả trí-huệ, làm rộng biển đại-bi, thêm mây đại-từ, quán-sát khắp mọi loài sanh lòng hoan-hỷ, an-trụ pháp-môn tịch-tịnh của Bồ-Tát, duyên khắp tất cả cảnh-giới quảng-đại, học tất cả công-đức quảng đại của Phật, nhập tất cả tri-kiến quyết định của Phật, thêm pháp trợ-đạo cho nhất-thiết-trí, khéo tu thâm-tâm của tất cả Bồ-Tát, biết tam-thế Phật thứ đệ xuất thế, vào biển nhất-thiết-pháp, chuyển xe nhất-thiết-pháp, sanh trong tất cả thế-gian, nhập nơi tất cả bồ-tát nguyện-hải, trụ tất cả kiếp tu bồ-tát-hạnh, chiếu rõ tất cả cảnh-giới Như-Lai, trưởng dưỡng chư căn của tất cả Bồ-Tát, được quang-minh thanh-tịnh của nhất-thiết-trí, chiếu khắp mười phương, trừ hết tôi tăm chướng-ngại, biết khắp pháp-giới, hiện thân mình khắp tất cả cõi, tất cả loài, dẹp tất cả chướng, vào khắp vô-ngại, trụ nơi bực pháp-giới bình-đẳng, quán-sát cảnh-giới giải-thoát của Phổ-Hiền, được nghe danh tự hạnh nguyện của PHỔ HIỀN ĐẠI BỒ TÁT, cũng nghe trợ-đạo, chánh-đạo, bậc chư địa, phương-tiện-địa, nhập-địa, thắng-tấn-địa, trụ-địa, tu-tập-địa, cảnh-giới-địa, oai-lực-địa, đồng-trụ khát ngưỡng.

Thiện-Tài muốn thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát, liền ở trước tòa sư-tử của Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai nơi Kim-Cang-Tạng Bồ-Ðề-Tràng, trên tòa Bửu-Liên-Hoa-Tạng, phát tâm rộng lớn như hư-không-giới, khởi tâm vô-ngại, bỏ tất cả cõi rời tất cả chấp, tâm vô-ngại đi trong tất cả pháp vô-ngại, tâm vô-ngại vào khắp tất cả thập phương, tâm thanh-tịnh vào cảnh-giới của nhất-thiết-trí, tâm minh-liễu quán-sát đạo-tràng trang-nghiêm, tâm quảng-đại nhập tất cả phật-pháp-hải, tâm châu-biến hóa-độ tất cả chúng-sanh-giới, tâm vô-lượng tịnh tất cả phật-độ, tâm vô-tận trụ tất cả kiếp, tâm cứu-cánh xu hướng Như-Lai thập-lực.

Lúc Thiện-Tài phát khởi những tâm như vậy, do sức thiện-căn của mình, được sức-gia-hộ của tất cả Như-Lai, do sức đồng thiện-căn của Phổ-Hiền Bồ-Tát, nên Thiện-Tài thấy mười thứ thoại-tướng, như là:

Thấy tất cả  phật-độ thanh-tịnh, tất cả như-lai thành đẳng-chánh-giác.

Thấy tất cả phật-độ thanh-tịnh không các ác-đạo.

Thấy tất cả phật-độ thanh-tịnh nghiêm-sức với những diệu-liên-hoa.

Thấy tất cả phật-độ thanh-tịnh, tất cả chúng-sanh thân tâm thanh-tịnh.

Thấy tất cả phật-độ thanh-tịnh, trang-nghiêm với những châu bửu.

Thấy tất cả phật-độ thanh-tịnh, tất cả chúng-sanh tướng tốt nghiêm thân.

Thấy tất cả phật-độ thanh-tịnh, những mây trang-nghiêm che phía trên.

Thấy tất cả phật-độ thanh-tịnh, tất cả chúng-sanh mến yêu nhau, giúp ích nhau, chẳng hại nhau.

Thấy tất cả phật-độ thanh-tịnh, đạo-tràng trang-nghiêm.

Thấy tất cả phật-độ thanh-tịnh, tất cả chúng-sanh tâm thường niệm Phật.

Thiện-Tài lại thấy mười tướng quang-minh, như là:

Thấy bao nhiêu vi-trần của tất cả thế-giới, trong mỗi mỗi vi-trần xuất-sanh tất cả thế-giới vi-trần-số phật-quang-minh võng-vân chiếu sáng khắp nơi.

Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế-giới vi-trần-số phật quang-minh luân-vân nhiều thứ sắc-tướng cùng khắp pháp-giới.

Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế-giới vi-trần-số phật sắc-tượng bửu-vân cùng khắp pháp-giới.

Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế-giới vi-trần-số phật-quang-diệm luân-vân cùng khắp pháp-giới.

Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế-giới vi-trần-số những diệu-hương-vân cùng khắp mười phương khen ngợi tất cả hạnh nguyện đại công-đức-hải của Phổ-Hiền.

Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế-giới vi-trấn-số nhựt nguyệt tinh tú vân, đều phóng quang-minh của Phổ-Hiền Bồ-Tát chiếu khắp pháp-giới.

Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế-giới vi-trần-số tất cả chúng-sanh thân sắc tượng vân phóng phật-quang-minh chiếu khắp pháp-giới.

Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế-giới vi-trần-số tất cả phật-sắc-tượng ma-ni-vân cùng khắp pháp-giới.

Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế giới vi-trần-số Bồ-Tát thân sắc-tượng-vân đầy khắp pháp-giới, khiến tất cả chúng-sanh đều được xuất ly, đều mãn sở-nguyện.

Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế-giới vi-trần-số Như-Lai thân sắc-tượng-vân, nói thệ nguyện quảng đại của tất cả Phật cùng khắp pháp-giới.

Thiện-Tài thấy mười thứ quang-minh nầy rồi, nghĩ rằng: nay tôi sẽ được thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát thêm lớn thiện-căn. Thấy tất cả Phật, nơi tất cả Bồ-Tát sanh tri giải quyết định, được nhất-thiết-trí.

Thiện-Tài nhiếp khắp thiện-căn, nhứt tâm cầu thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát, khởi đại tinh-tấn tâm không thối chuyển, liền dùng phổ-nhãn quán-sát mười phương tất cả chư Phật và chúng Bồ-Tát. Bao nhiêu cảnh-giới đã thấy đều tưởng là đuợc thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát.

Dùng trí-huệ-nhãn quán-sát phổ-hiền đạo, tâm quảng-đại dường như hư-không, đại-bi kiên-cố như Kim-Cang. Nguyện tận vị-lai thường được theo Phổ-Hiền, niệm niệm tùy thuận tu phổ-hiền-hạnh, thành-tựu trí-huệ, nhập như-lai-cảnh, trụ phổ-hiền-địa.

Bấy giờ Thiện-Tài Ðồng-Tử liền thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát ở trong chúng-hội trước đức Như-Lai, ngồi tòa sư-tử Bửu-Liên-Hoa, chúng Bồ-Tát vây quanh rất là tôn nghiêm, thế-gian không sánh được, cảnh-giới trí-huệ vô-lượng vô-biên khó lường khó nghĩ, đồng tam-thế Phật, tất cả Bồ-Tát không quán-sát được.

Thấy thân Phổ-Hiền, mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả thế-giới vi-trần-số quang-minh-vân, khắp pháp-giới hư-không-giới tất cả thế-giới, trừ diệt tất cả chúng-sanh khổ hoạn, khiến các Bồ-Tát sanh đại hoan-hỷ.

Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số những sắc-hương-diệm-vân, khắp pháp-giới hư-không-giới tất cả chư Phật chúng-hội đạo-tràng, để huân tập tất cả.

Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số tạp-hoa-vân, khắp pháp-giới hư-không-giới tất cả chư Phật chúng-hội đạo-tràng mưa những diệu-hoa.

Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số hương thọ vân, khắp pháp-giới hư-không-giới tất cả chư phật chúng-hội đạo-tràng mưa những diệu hương.

Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số diệu-y vân, khắp pháp-giới hư-không-giới chư phật chúng-hội đạo tràng mưa những diệu-y.

Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số bửu-thọ-vân, khắp pháp-giới hư-không-giới tất cả chư phật chúng-hội đạo tràng, mưa ma ni bửu.

Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số sắc-giới thiên-thân-vân sung-mãn pháp-giới, khen ngợi bồ-đề-tâm.

Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số phạm-thiên thân vân, khuyến thỉnh chư như lai chuyển diệu pháp luân.

Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số dục-giới thiên vương thân vân, hộ trì pháp-luân của tất cả như-lai.

Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số tam-thế phật-sát-vân, khắp pháp-giới hư-không-giới vì các chúng-sanh, những người không chỗ về nương mà làm chỗ về nương, những người không chỗ che chở mà làm chỗ che chở, những người không chỗ y-chỉ mà làm chỗ y chỉ.

Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số thanh-tịnh phật-sát-vân khắp pháp-giới hư-không-giới tất cả chư Phật xuất thế trong đó, chúng hội Bồ-Tát thảy đều sung-mãn.

Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số tịnh bất-tịnh phật-sát-vân khắp pháp-giới hư-không-giới, khiến tạp nhiễm chúng-sanh đều được thanh-tịnh.

Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số bất tịnh-tịnh phật-sát-vân khắp pháp-giới hư-không-giới, khiến tạp nhiễm chúng-sanh đều được thanh-tịnh.

Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số bất-tịnh phật-sát-vân khắp pháp-giới hư-không-giới, khiến thuần nhiễm chúng-sanh đều  được thanh-tịnh.

Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số chúng-sanh thân-vân khắp pháp-giới hư-không-giới, tùy sở nghi giáo hóa chúng-sanh đều khiến phát tâm vô-thượng bồ-đề.

Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số bồ-tát thân-vân biến pháp-giới hư-không-giới tán dương những danh hiệu của chư Phật làm cho chúng-sanh tăng trưởng thiện-căn.

Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số bồ-tát thân-vân khắp pháp-giới hư-không-giới tất cả phật-sát tuyên dương tất cả chư Phật Bồ-Tát, những thiện-căn sanh khởi từ khi sơ phát tâm.

Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số bồ-tát thân-vân khắp pháp-giới hư-không-giới, trong mỗi phật-sát nơi tất cả phật-sát tuyên dương tất cả bồ-tát nguyện-hải và thanh-tịnh diệu-hạnh của Phổ-Hiền Bồ-Tát.

Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh Phổ-Hiền Bồ-Tát hạnh-vân khiến tâm tất cả chúng-sanh được mãn túc, tu tập đầy đủ đạo nhất-thiết-trí.

Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số chánh-giác thân-vân, nơi tất cả phật-sát hiện thành chánh-giác, khiến các Bồ-Tát thêm lớn pháp đại-thừa thành nhất-thiết-trí.

Thiện-Tài thấy cảnh-giới thần-thông tự-tại của Phổ-Hiền Bồ-Tát như vậy, thân tâm hoan hỉ, hớn hở vô-lượng.

Lại thấy mỗi mỗi thân phần, mỗi mỗi lỗ chân lông của Phổ-Hiền đều có Ðại-Thiên thế-giới phong-luân, thủy-luân, địa-luân, hỏa-luân, đại-hải, giang-hà và những Bửu-Sơn, Tu-Di, Thiết-vi, thành ấp, cung điện, viên lâm, tất cả xứ của địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sanh, Diêm-La-Vương, những cung điện của Thiên, Long, Bát-Bộ, nhân và phi-nhân, cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô-Sắc, nhật, nguyệt, tinh-tú, gió, mây, sấm, chớp, ngày, đêm, tháng, giờ đến năm, kiếp, chư Phật  xuất thế, chúng hội Bồ-Tát, đạo-tràng trang-nghiêm, những sự như vậy đều thấy rõ cả.

Như thấy rõ tại thế-giới nầy, tất cả thế-giới ở mười phương đều thấy rõ cả.

Như thấy thập phương thế-giới hiện-tại, tất cả thế-giới tiền-tế hậu-tế cũng thấy như vậy, nhưng vẫn chẳng tạp loạn nhau.

Như ở chỗ Tỳ-Lô-Giá-Na-Như-Lai thị-hiện sức thần-thông như vậy, tại Liên-Hoa-Ðức thế-giới, chỗ của Hiền-Thủ Phật, hiện sức thần-thông cũng như vậy.

Nhẫn đến tại tất cả thế-giới mười phương, chỗ của tất cả chư Phật Như-Lai, cũng hiện sức thần-thông như vậy.

Mười phương tất cả thế-giới trong mỗi mỗi vi-trần đều có pháp-giới chư Phật chúng-hội. Chỗ mỗi đức Phật, Phổ-Hiền Bồ-Tát ngồi trên tòa Bửu-Liên-Hoa Sư-Tử hiện sức thần-thông cũng đều như vậy.

Trong thân của mỗi mỗi Phổ-Hiền đều hiện tất cả cảnh-giới tam-thế, tất cả cõi Phật, tất cả chúng-sanh, tất cả Phật xuất-hiện, tất cả bồ-tát-chúng, nghe ngôn âm của tất cả chúng-sanh, ngôn âm của tất cả Phật, pháp-luân của tất cả Như-Lai chuyển. Lại thấy công-hạnh của tất cả Bồ-Tát, thần-thông du-hí của tất cả Như-Lai.

Thiện-Tài thấy vô-lượng đại-thần-thông-lực bất-tư-nghì của Phổ-Hiền Bồ-Tát như vậy, liền được mười thứ trí ba-la-mật. Như là:

Trí ba-la-mật trong mỗi niệm đều có thể đi khắp tất cả cõi Phật.

Trí ba-la-mật trong mỗi niệm đều có thể qua đến tất cả chỗ Phật.

Trí ba-la-mật trong mỗi niệm đều có thể cúng-dường tất cả Như-Lai.

Trí ba-la-mật trong mỗi niệm ở khắp chỗ của tất cả Như-Lai để nghe pháp và thọ trì.

Trí ba-la-mật trong mỗi niệm tư-duy pháp-luân của tất cả Như-Lai.

Trí ba-la-mật trong mỗi niệm biết sự đại thần-thông bất-tư-nghì của tất cả Phật.

Trí ba-la-mật trong mỗi niệm nói một câu pháp tột thuở vị-lai biện-tài vô-tận.

Trí ba-la-mật trong mỗi niệm dùng thân bát-nhã quán tất cả pháp.

Trí ba-la-mật trong mỗi niệm nhập tất cả pháp-giới thiệt-tướng-hải.

Trí ba-la-mật trong mỗi niệm biết tâm của tất cả chúng-sinh.

Trí ba-la-mật trong mỗi niệm huệ hạnh của Phổ-Hiền đều hiện-tiền.

Thiện-Tài đã được mười trí ba-la-mật nầy rồi, Phổ-Hiền Bồ-Tát liền dơ tay hữu xoa đầu Thiện-Tài.

Ðược xoa đầu, Thiện-Tài liền được tất cả phật-sát vi-trần-số môn tam-muội, mỗi tam-muội lại dùng phật-sát vi-trần-số tam-muội làm quyến-thuộc.

Mỗi mỗi tam-muội đều thấy tất cả phật-sát vi-trần-số phật-đại-hải mà từ xưa chưa thấy, tích tập tất cả phật-sát vi-trần-số nhất-thiết-trí trợ-đạo, sanh đủ tất cả phật-sát vi-trần-số nhất-thiết-trí thượng-diệu-pháp, phát tất cả phật-sát vi-trần-số nhất-thiết-trí đại-thệ-nguyện, nhập tất cả phật-sát vi-trần-số đại-nguyện-hải, trụ tất cả phật-sát vi-trần-số nhất-thiết-trí xuất-yếu-đạo, tu tất cả phật-sát vi-trần-số bồ-tát-hạnh, khởi tất cả phật-sát vi-trần-số nhất-thiết-trí đại-tinh-tấn, được tất cả phật-sát vi-trần-số nhất-thiết-trí tịnh-quang-minh.

Như ở Ta-Bà thế-giới chỗ của Tỳ-Lô-Giá-Na Phật nầy, Phổ-Hiền Bồ-Tát xoa đầu Thiện-Tài Ðồng-Tử, khắp mười phương thế-giới, trong mỗi vi-trần nơi những thế-giới ấy, tất cả thế-giới, tất cả chỗ Phật, Phổ-Hiền Bồ-Tát cũng xoa đầu Thiện-Tài như vậy, những pháp-môn tam-muội chứng được cũng đồng.

Bấy giờ Phổ-Hiền Bồ-Tát bảo Thiện-Tài rằng:

Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi thấy thần-lực của ta chăng?

Thiện-Tài thưa:

Bạch vâng! Những sự thần thông quảng đại bất-tư-nghì nầy chỉ đức Như-Lai mới biết được.

Phổ-Hiền Bồ-Tát nói.

Nầy Thiện-nam-tử! Thuở quá-khứ bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số kiếp, ta thật hành bồ-tát-hạnh cầu nhất-thiết-trí. Trong mỗi mỗi kiếp vì muốn thanh-tịnh bồ-đề-tâm, nên kính thờ bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số Phật.

Trong mỗi mỗi kiếp vì tích tập nhất-thiết-trí phước đức nên thiết lập bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số thí-hội quảng đại, khiến tất cả thế-gian đều nghe biết, phàm ai đến cầu xin thời đều làm cho họ đầy đủ cả.

Trong mỗi mỗi kiếp vì cầu pháp nhất-thiết-trí nên ta đem bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số tài vật bố-thí.

Trong mỗi mỗi kiếp vì cầu phật-trí, nên ta đem bất-kha-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số thành ấp, tụ lạc, quốc độ, vương vị, thê tử, quyến thuộc, mắt tai mũi lưỡi, thân thịt tay chân đến cả mạng sống để bố thí.

Trong mỗi mỗi kiếp vì cầu nhất-thiết-trí-thủ, nên ta đem bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số đầu để bố-thí.

Trong mỗi mỗi kiếp vì cầu nhất-thiết-trí, nên ở chỗ bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số Như-Lai, ta cung kính tôn trọng, kính thờ cúng-dường, rồi xuất-gia học đạo, trong phật-pháp tu hành hộ giáo.

Nầy Thiện-nam-từ! Ta ở trong những số kiếp như vậy, tự nhớ chưa từng có một niệm chẳng thuận phật-giáo, chưa từng có một niệm sanh lòng sân hại, cũng chưa từng có một niệm sanh tâm ngã ngã-sở, tâm mình người sai biệt, tâm xa rời bồ-đề, tâm nhàm mỏi sanh tử, tâm lười biếng, tâm chướng ngại, tâm mê hoặc. Mà ta chỉ an trụ tâm đại bồ-đề vô-thượng chẳng thể trở hoại tích tập pháp trợ-đạo nhất-thiết-trí.

Nầy Thiện-nam-tử! Ta trang-nghiêm phật-độ, dùng tâm đại-bi cứu hộ chúng-sanh, giáo-hóa thành-tựu, cúng-dường chư Phật, thờ thiện-tri-thức, vì cầu chánh-pháp nên hoằng tuyên hộ-trì, trong thân ngoài vật đều có thể xả tất cả, đến mạng sống cũng không tiếc.

Nếu dùng thời-gian kiếp-hải để nói nhơn-duyên đó, kiếp-hải còn có thể hết chớ nhơn duyên đó không cùng tận.

Nầy Thiện-nam-tử! Trong pháp-hải của ta, không có một chữ không có một câu, Chẳng phải thí xả ngôi Chuyển-Luân-Vương mà cầu được. Chẳng phải thí xả tất cả sở-hữu mà cầu được.

Nầy Thiện-nam-tử! Pháp của ta cầu đều vì cứu hộ tất cả chúng-sanh. Một lòng suy nghĩ mong cho chúng-sanh đưọc nghe pháp nầy. Nguyện dùng trí-quang chiếu khắp thế-gian. Nguyện vì chúng-sanh mà khai thị trí xuất-thế-gian. Nguyện cho chúng-sanh đều được an lạc. Nguyện khắp tán dương những công-đức của chư Phật.

Thuở xưa, nhơn-duyên của ta như vậy, trong bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số kiếp-hải nói không hết được.

Nầy Thiện-nam-tử! Vì thế nên ta dùng sức trợ đạo pháp như vậy, những sức thiện-căn, sức đại chí-nguyện, sức tu công-đức, sức như thiệt tư-duy tất cả pháp, sức trí-huệ-nhãn, sức phật-oai-thần, sức đại-từ-bi, sức tịnh-thần-thông, sức thiện-tri-thức như vậy nên ta được pháp-thân thanh-tịnh tam thế bình-đẳng rốt ráo nầy. Ta lại được sắc-thân thanh-tịnh vô-thượng siêu các thế-gian, tùy sở thích của tâm chúng-sanh mà hiện hình vào tất cả cõi khắp tất cả xứ, nơi các thế-giới rộng hiện thần-thông, làm cho người thấy đều vui mừng.

Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi quan-sát sắc-thân của ta như vậy.

Sắc-thân của ta đây đã thành-tựu từ vô-biên kiếp hải. Vô-lượng ngàn ức na-do-tha kiếp khó thấy khó nghe.

Nầy Thiện-nam-tử! Nếu có chúng-sanh chưa gieo thiện-căn và gieo ít thiện-căn, Thanh-Văn, Bồ-Tát thời còn chẳng được nghe danh hiệu của ta huống là thấy được thân ta.

Nầy Thiện-nam-tử! Nếu có chúng-sanh được nghe danh hiệu của ta thời không còn thối chuyển nơi vô-thượng bồ-đề.

Nếu ai hoặc thấy, hoặc chạm, hoặc rước, hoặc đưa, hoặc tạm theo dõi, nhẫn đến trong mộng được thấy nghe ta, thời đều cũng được bất thối chuyển cả.

Hoặc có chúng-sanh một ngày một đêm nhớ nghĩ đến ta thời liền được  thành-thục.

Hoặc bảy ngày bảy đêm, nửa tháng, một tháng, nửa năm, một năm, trăm năm, ngàn năm, một kiếp, trăm kiếp, nhẫn đến bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số kiếp nghĩ nhớ đến ta mà được thành-thục.

Hoặc một đời, hoặc trăm đời, nhẫn đến bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số đời nghĩ nhớ đến ta mà thành-thục.

Hoặc thấy ta phóng đại quang-minh, hoặc thấy ta chấn động cõi Phật, hoặc sanh e sợ, hoặc sanh hoan-hỉ thảy đều thanh-thục.

Nầy Thiện-nam-tử! Ta dùng phật-sát vi-trần-số môn phương-tiện như vậy, làm cho các chúng-sanh chẳng thối chuyển nơi vô-thượng bồ-đề.

Nếu có chúng-sanh nào thấy nghe cõi thanh-tịnh của ta thời tất được sanh trong cõi thanh-tịnh nầy.

Nếu có chúng-sanh nào thấy nghe thân thanh-tịnh của ta thời tất được sanh trong thân thanh-tịnh của ta.

Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi nên quan-sát thân thanh-tịnh của ta đây.

Thiện-Tài quán-sát tướng-hảo chi tiết nơi thân Phổ-Hiền Bồ-Tát. Trong mỗi mỗi lỗ lông đều có bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát-hải. Mội mỗi sát-hải đều có chư Phật xuất thế và chúng-hội Bồ-Tát.

Và lại thấy tất cả sát-hải đó: những kiến lập, những hình trạng, những trang-nghiêm, những đại-sơn bao quanh, những sắc mây che trùm hư-không, những Phật Như-Lai xuất thế thuyết những pháp-luân.

Lại thấy ở trong mỗi mỗi thế-giới hải, Phổ-Hiền xuất hiện tất cả phật-sát vi-trần-số phật-hóa thân-vân, cùng khắp thập phương tất cả thế-giới giáo hóa chúng-sanh khiến hướng về vô-thượng bồ-đề.

Bấy giờ Thiện-Tài lại thấy tự thân ở trong thân Phổ-Hiền giáo-hóa chúng-sanh trong mười phương tất cả thế-giới.

Bao nhiêu thiện-căn trí-huệ quang-minh của Thiện-Tài đã được, khi thân cận phật-sát vi-trần-số chư thiện-tri-thức, sánh với thiện-căn khi thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát mà được, thời không bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn, một phần trăm ngàn ức, nhẫn đến không bằng một phần toán-số thí-dụ.

Trong một niệm mà hiện nay Thiện-Tài nhập sát-hải của chư Phật ở trong một lỗ lông của Phổ-Hiền, sánh với thời-gian từ sơ phát tâm đến nay đã nhập sát-hải, thời nhiều hơn đến số bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần. Như nơi một lỗ lông, tất cả lỗ lông cũng đều như vậy.

Trong lỗ lông của Phổ-Hiền Bồ-Tát, Thiện-Tài bước một bước qua khỏi bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số thế-giới, đi mãi như vậy tột thuở vi-lai vẫn còn chẳng biết được thứ đệ sát-hải của trong một lỗ lông, cũng chẳng biết ngằn mé của sát-hải-tạng, sát-hải sai-biệt, sát-hải phổ-nhập, sát-hải-thành, sát-hải-hoại, sát-hải trang-nghiêm. Cũng chẳng biết được ngằn mé của phật-hải thứ đệ, phật-hải tạng, phật-hải sai-biệt, phật-hải phổ nhập, phật-hải sanh, phật-hải-diệt. Cũng chẳng biết được ngằn mé của bồ-tát-chúng-hải thứ đệ, bồ-tát-chúng-hải tạng, bồ-tát chúng-hải sai-biệt, bồ-tát chúng-hải phổ nhập, bồ-tát chúng-hải tập, bồ-tát chúng-hai tán. Cũng chẳng thể biết ngằn mé của trí nhập chúng-sanh-giới, biết căn chúng sanh, giáo-hóa điều-phục chúng-sanh, chỗ trụ thậm-thâm tự-tại của Bồ-Tát những địa những đạo của Bồ-Tát nhập.

Nơi sát hải trong lỗ lông của Phổ-Hiền Bồ-Tát, Thiện-Tài đi như vậy hoặc nơi một cõi trải qua một kiếp, nhẫn đến hoặc trải qua bất-khả-thuyết bất-khả-thuyệt phật-sát vi-trần-số kiếp mà đi như vậy.

Cũng chẳng mất nơi đây mà hiện nơi kia. Mỗi niệm Thiện-Tài cùng khắp vô-biên sát-hải giáo-hóa chúng-sanh khiến họ hướng về vô-thượng bồ-đề.

Ðương lúc đó, Thiện-Tài thứ đệ được những hạnh-nguyện-hải của Phổ-Hiền Bồ-Tát, đồng với Phổ-Hiền, đồng với chư Phật một thân sung-mãn tất cả thế-giới, đồng quốc-độ, đồng hạnh, đồng chánh-giác, đồng thần-thông, đồng pháp-luân, đồng biện-tài, đồng ngôn từ, đồng âm thanh, đồng lực vô-úy, đồng phật-sở-trụ, đồng đại từ-bi, bất-tư-nghì giải-thoát tự-tại đều đồng.

Lúc đó Phổ-Hiền đại Bồ-Tát liền nói kệ rằng:

 

Các ngài phải trừ những phiền-não
Nhất tâm bất loạn mà lắng nghe
Tôi nói Như-Lai đủ các độ
Tất cả đạo chân-thiệt giải-thoát.
Xuất thế điều nhu Thắng-Trượng-Phu
Trong lòng thanh-tịnh như hư-không
Hằng phóng trí-nhật đại quang-minh 
Khiến khắp quần-sanh diệt si ám.
Như-Lai rất khó được thấy nghe
Vô-lượng ức kiếp nay mới gặp
Như hoa ưu-đàm một lần hiện
Vì thế nên nghe Phật công-đức.
Tùy thuận việc làm của thế-gian
Ví như thuật-sĩ hiện những sự
Chỉ để làm vui lòng chúng-sanh
Chưa từng phân-biệt khởi tưởng niệm.

 

Chư Bồ-Tát nghe lời kệ trên đây, tất cả đều khát ngưỡng mong được nghe công-đức chơn-thiệt của đức Thế-Tôn, đều nghĩ rằng:

Phổ-Hiền Bồ-Tát tu đủ các hạnh, thể tánh thanh-tịnh, những lời nói ra đều chẳng hư luống, tất cả Như-Lai đều khen ngợi ngài.

Phổ-Hiền Bồ-Tát công-đức trí-huệ trang-nghiêm đầy đủ, như hoa sen chẳng dính trần, cấu tam-giới. Ngài bảo chúng Bồ-Tát rằng:

Các ngài lắng nghe! Nay tôi muốn nói tướng một giọt trong biển công-đức của Phật.

Phổ-Hiền Bồ-Tát liền nói kệ rằng:

 

Phật-trí rộng lớn đồng hư-không
Khắp cùng tất cả tâm chúng-sanh
Ðều rõ thế-gian những vọng-tưởng
Chẳng khởi những phân-biệt sai khác.
Một niệm đều biết pháp tam thế
Cũng rõ tất cả căn chúng-sanh
Ví như nhà ảo-thuật thiện-xảo
Mỗi niệm thị-hiện vô-biên sự.
Tùy tâm chúng-sanh hiện những hạnh
Thuở xưa các nghiệp, sức thệ nguyện
Khiến họ thấy biết đều chẳng đồng
Mà Phật bổn-lai không động niệm.
Hoặc có xứ xứ thấy Phật ngồi
Sung mãn thập phương các thế-giới,
Hoặc có chúng-sanh tâm bất tịnh
Trong vô lượng kiếp chẳng thấy Phật.
Hoặc có tín giải rời kiêu mạn
Phát ý liền được thấy Như Lai,
Hoặc kẻ siểm cuống tâm bất-tịnh
Ức kiếp tìm cầu chẳng thấy Phật.
Hoặc người mọi xứ nghe tiếng Phật
Âm thanh mỹ Diệu làm tâm vui,
Hoặc kẻ trăm ngàn muôn ức kiếp
Vì tâm bất tịnh chẳng được nghe.
Hoặc thấy thanh-tịnh Ðại Bồ-Tát
Ðầy khắp Tam-thiên đại-thiên giới
Ðều đã đầy đủ hạnh Phổ-Hiền
Trong đó Như-Lai nghiễm nhiên tọa.
Hoặc thấy cõi nầy diệu vô-tỷ
Phật vô-lượng kiếp đã nghiêm tịnh
Tỳ-Lô-Giá-Na Tối-Thắng-Tôn
Trong đây đại ngộ thành Chánh-Giác.
Hoặc-thấy Liên-Hoa cõi thắng-diệu
Hiền-Thủ Như-Lai ở trong đó
Vô-lượng Bồ Tát chúng vi-nhiễu
Thảy đều siêng tu hạnh Phổ-Hiền.
Hoặc có thấy Phật Vô-lượng-thọ
Quan Âm Thế-Chí hầu hai bên
Ðều bậc quán-Ðảnh Bổ-xứ cả
Sung mãn mười phương các quốc độ.
Hoặc có thấy cõi Ðại-Thiên nầy
Thanh-tịnh trang-nghiêm như Diệu-Hỉ
A-Súc Như-Lai ngự tại đây
Chúng đại Bồ-Tát bao quanh Phật.
Hoặc thấy Nguyệt-Giác Danh-Xưng Phật
Cùng Kim-Cang-Tràng chư Bồ-Tát
Ở cõi Viên-Cảnh Diệu-Trang-Nghiêm
Khắp đến mười phương các quốc-độ.
Hoặc thấy Nhựt-Tạng Phật Thế-Tôn
Ở cõi thanh-tịnh Thiện-Quang-Minh
Cùng với quán-đảnh chư Bồ-Tát
Sung mãn mười phương mà thuyết pháp.
Hoặc thấy Kim-Cang-Ðại-Diệm Phật
Câu hội với Trí-Tràng Bồ-Tát
Châu hành tất cả cõi quảng đại
Thuyết pháp diệt trừ chúng-sanh-mê.
Mỗi mỗi đầu lông bất-khả-thuyết
Chư Phật tướng hảo ba mươi hai
Bồ-Tát quyến-thuộc đồng vây quanh
Vì độ chúng-sanh luôn thuyết pháp.
Hoặc có xem thấy một lỗ lông
Ðầy đủ cõi trang-nghiêm quảng đại
Vô-luợng Như-Lai đều ở trong
Thanh-tịnh phật-tử đều sung-mãn.
Hoặc có thấy trong một vi-trần
Có đủ hằng-sa Phật quốc-độ
Vô-lượng Bồ-Tát đều sung-mãn
Bất-khả-thuyết kiếp tu các hạnh.
Hoặc có thấy chỗ một đầu lông
Vô-lượng trần-sa những sát-hải
Bao nhiêu nghiệp khởi đều sai khác
Tỳ-Lô-Giá-Na chuyển pháp-luân.
Hoặc thấy thế-giới chẳng thanh-tịnh
Hoặc thấy thanh-tịnh báu làm thành
Như-Lai trụ thọ lâu vô-lượng
Nhẫn đến niết-bàn đều hiện đủ.
Cùng khắp mười phương các thế-giới
Thị hiện nhiều thứ bất-tư-nghì
Tùy các chúng-sanh tâm trí nghiệp
Thảy đều hóa độ khiến thanh-tịnh.
Vô-Thượng Ðạo-Sư như vậy thảy
Sung-mãn thập phương các quốc-độ
Thị-hiện nhiều loại thần-thông-lực
Tôi nói một ít ngài nên nghe.
Hoặc thấy Thích-Ca thành phật-đạo
Ðã trải kiếp số bất-tư-nghì,
Hoặc thấy nay mới làm Bồ-Tát
Mười phương lợi ích các chúng-sanh.
Hoặc người lại thấy Thích Sư-Tử
Cúng-dường chư Phật tu đạo hạnh,
Hoặc thấy Thế-Tôn đủ phước trí
Hiển hiện những sự đại thần-thông.
Hoặc thấy bố-thí, hoặc trì giới,
Hoặc nhẫn, tinh-tấn, hoặc thiền định,
Bát-nhã, phương-tiện, nguyện, lực, trí
Tùy tâm chúng-sanh đều thị-hiện.
Hoặc thấy rốt ráo ba-la-mật
Hoặc thấy an trụ ở các địa
Tổng-trì, tam-muội, thần-thông trí
Như vậy đều hiện đầy đủ cả.
Hoặc hiện tu hành vô-lượng kiếp
Trụ nơi bồ-tát, bậc kham-nhẫn
Hoặc hiện trụ nơi bực bất-thối
Hoặc hiện pháp-thủy rưới trên đầu.
Hoặc hiện thân Phạm, Thích Tứ Vương
Hoặc hiện Sát-Lợi, Bà-La-Môn,
Nhiều loại sắc tướng thân trang-nghiêm
Dường như thuật-sĩ hiện hình tượng.
Hoặc hiện Ðâu-Suất mới giáng thần
Hoặc thấy trong cung thọ dục lạc
Hoặc thấy rời bỏ những vinh hoa
Xuất gia lìa tục đi học đạo.
Hoặc thấy mới sanh, hoặc thấy chết,
Hoặc thấy xuất gia học dị-hạnh
Hoặc thấy ngồi dưới cội Bồ-Ðề
Hàng phục ma-quân thành Chánh-Giác.
Hoặc lại thấy Phật mới niết-bàn
Hoặc thấy dựng tháp khắp thế-gian
Hoặc thấy trong tháp thờ tượng Phật
Vì biết thời cơ hiện như vậy.
Hoặc thấy Như-Lai Vô-Lượng-Thọ
Thọ Phật ký cho chư Bồ-Tát
Mà thành vô-thượng Ðại-Ðạo-Sư
Kế bổ nhậm ở cõi An-Lạc.
Hoặc thấy vô-lượng ngàn ức kiếp
Phật-sự đã xong nhập niết-bàn
Hoặc thấy nay mới thành bồ-đề
Hoặc thấy chánh tu những diệu-hạnh.
Hoặc thấy Như-Lai Thanh-Tịnh Nguyệt
Ở tại Phạm-Thế và Ma-Cung,
Tư-Tại Thiên-Cung, Hóa-Lạc-Cung,
Thị-hiện thần-thông những biến-hóa.
Hoặc thấy ở tại cung Ðâu-Suất
Vô-lượng chư Thiên-đồng vây quanh
Vì họ thuyết pháp cho hoan-hỉ
Chư Thiên phát tâm cúng-dường Phật.
Hoặc thấy ở tại Dạ-Ma Thiên
Ðao-Lợi, Tứ-Thiên, cung Long Thần,
Nơi cung-điện Thiên, Long, Bát-Bộ
Không chỗ nào Phật chẳng hiện thân.
Ở chỗ Nhiên-Ðăng Phật Thế-Tôn
Rải hoa, trải tóc để cúng-dường 
Từ đây biết rõ pháp thâm diệu
Hằng dùng đạo nầy độ quần-sanh.
Hoặc người thấy Phật lâu niết-bàn,
Hoặc thấy Phật mới thành bồ-đề,
Hoặc thấy Phật trụ vô-lượng kiếp
Hoặc thấy giây lát liền nhập diệt.
Thân-tướng quang-minh cùng thọ-mạng
Trí-huệ bồ-đề và niết-bàn
Chúng-hội được độ, tiếng oai-nghi
Mỗi mỗi như vậy đều vô-số.
Hoặc hiện thân mình rất rộng lớn
Như núi Tu-Di, Ðại-Bửu Sơn,
Hoặc thấy Phật ngồi chẳng động lay
Sung-mãn vô-biên những thế-giới.
Hoặc thấy viên-quang lượng một tầm
Hoặc thấy ngàn vạn ức do-tuần
Hoặc thấy chiếu khắp vô-lượng cõi
Hoặc thấy sung mãn tất cả cõi.
Hoặc thấy Phật thọ tám mươi năm
Hoặc thấy thọ ngàn muôn ức tuổi
Hoặc thọ bất-khả-tư-nghì kiếp
Như vậy lần lượt bội hơn đây.
Phật-trí thông đạt tịnh vô-ngại
Một niệm biết khắp pháp tam-thế
Ðều từ tâm thức nhơn duyên sanh
Sanh diệt vô-thường không tự-tánh.
Ở trong một cõi thành Chánh-Giác
Ở tất cả cõi cũng đều thành
Tất cả vào một, một vào khắp
Tùy tâm chúng-sanh đều thị-hiện.
Như-Lai trụ nơi đạo vô thượng
Thành-tựu thập-lực, tứ vô-úy
Ðầy đủ trí-huệ không chướng-ngại
Chuyển thập nhị hành chánh pháp-luận.
Biết rõ khổ, tập và diệt, đạo
Phân biệt mười hai pháp nhơn duyên
Pháp, nghĩa, từ, nhạo-thuyết vô-ngại
Dùng biện-tài đây khai diễn rộng.
Các pháp không ngã, không có tướng
Nghiệp tánh chẳng sanh cũng chẳng mật
Tất cả xa lìa như hư-không
Phật dùng phương-tiện để phân biệt.
Như-Lai như vậy chuyển pháp-luân
Chấn khắp mười phương các quốc-độ
Cung-điện núi sông đều động lay
Chúng-sanh hoan-hỉ chẳng kinh sợ.
Phật diễn pháp-âm khắp rộng lớn
Tùy căn chúng-sanh đều khiến hiểu
Ðều khiến phát tâm trừ hoặc cấu
Nhưng Phật chưa từng sanh tâm niệm.
Hoặc nghe Phật diễn thí, giới, nhẫn,
Tấn, định, bát-nhã, phương-tiện, trí,
Hoặc nghe từ, bi và hỉ, xả,
Ngôn từ thuyết pháp đều sai khác.
Hoặc nghe tứ niệm, tứ chánh-cần,
Thần-túc, căn, lực và giác đạo,
Niệm, huệ, thần-thông và chỉ, quán
Vô-lượng phương-tiện những pháp-môn.
Long, Thần, Bát-Bộ, Nhơn, Phi-Nhơn,
Phạm, Thích, Hộ-Thế, các Thiên-Chúng, 
Phật dùng nhất âm để thuyết pháp
Chúng-sanh tùy loại đều được hiểu.
Nếu có tham dục, sân và si
Phẩn, phú, xan, tật và kiêu, siểm
Tám muôn bốn ngàn phiền não chướng
Ðều nghe Phật dạy pháp chữa trị.
Nếu chưa tu đủ pháp bạch-tịnh
Khiến họ nghe nói mười giới-hạnh,
Ðã hay bố-thí điều-phục người
Cho nghe tiếng niết-bàn tịch-diệt.
Nếu người chí kém, không từ mẫn
Nhàm ghét sanh-tử, tụ cầu lìa
Khiến họ nghe nói tam thoát-môn
Cho họ thoát khổ, hưởng tịch-diệt.
Nếu người tự-tánh ít tham dục
Nhàm bỏ ba cõi cầu tịch tịnh
Khiến họ nghe nói các duyên-khởi
Theo độc-giác-thừa để xuất ly.
Nếu người thanh-tịnh tâm quảng-đại
Ðầy đủ thí giới các công-đức
Thân-cận Như-Lai đủ từ bi
Khiến họ nghe tiếng đại-thừa-đạo.
Hoặc có quốc-độ nghe nhất-thừa
Hoặc nhị, hoặc tam, hoặc tứ, ngũ
Như vậy nhẫn đến vô-lượng thừa
Ðều là Như-Lai phương-tiện-lực.
Niết-bàn tịch-tịnh chưa tùng khác, 
Trí hạnh thắng liệt có sai khác,
Như hư-không thể tánh là một
Chim bay gần xa tự sai khác.
Phật thể âm-thanh cũng duy nhứt
Phổ biến tất cả cõi hư-không,
Tùy tâm chúng-sanh sai khác nhau
Nên nghe và thấy cũng tự khác.
Do Phật quá-khứ tu công hạnh
Hay theo sở-thích diễn diệu-âm
Không lòng tính nghĩ đây và kia
Ai là đáng nói, ai thời không.
Nơi mặt Như-Lai phóng đại quang
Ðủ số tám muôn bốn ngàn sáng
Pháp-môn Phật nói cũng như vậy
Chiếu khắp thế-giới trừ phiền-não.
Ðầy đủ thanh-tịnh công-đức trí
Mà thường tùy thuận tam thế Phật
Ví như hư-không chẳng nhiễm trước
Vì chúng-sanh nên Phật xuất hiện.
Hiện có sanh lão bệnh tử khổ
Cũng hiện trụ thọ ở thế-gian
Dầu thuận thế-gian hiện như vậy
Thể tánh thanh-tịnh đồng hư-không.
Tất cả quốc-độ vô-lượng biên
Chúng-sanh căn dục cũng vô-lượng
Trí-nhãn Như-Lai đều thấy rõ
Tùy theo cơ nghi dạy phật-đạo.
Cùng khắp hư-không mười phương cõi
Bao nhiêu Trời, Người, trong đại chúng
Theo thân hình họ đều chẳng đồng
Phật hiện thân hình cũng như vậy.
Nếu ở trong đại hội Sa-Môn
Cạo bỏ tóc râu mặc ca-sa
Ðắp y, cầm bát nhiếp các căn
Cho họ hoan-hỷ trừ phiền-não.
Có lúc thân-cận Ba-La-Môn
Vì họ Phật hiện thân gầy ốm
Chống gậy mang bình hằng trong sạch
Ðầy đủ trí-huệ giảng nói giỏi.
Nhả cũ nuốt mới tự no đủ
Hớp gió uống sương không ăn nuốt
Hoặc ngồi hoặc đứng chẳng động lay
Hiện tu khổ-hạnh dẹp ngoại-đạo.
Hoặc trì giới cấm làm thế-sư
Khéo thông phương thuốc các môn luận
Toán số, thiên-văn, địa-lý, tướng
Những điều lành dữ đều biết rõ.
Thâm nhập các thiền và giải-thoát
Tam-muội, thần-thông, trí-huệ, hạnh
Luận bàn, ngâm vịnh và đùa vui
Phương-tiện dẫn họ vào phật-đạo.
Hoặc hiện thượng-phục để nghiêm thân
Ðầu đội mão xinh, che lọng tốt
Binh-chủng trước sau theo hộ vệ
Ra oai hùng mãnh phục Tiểu-Vương.
Hoặc làm quan tòa đoán kiện tụng
Giải quyết thế-pháp đều hay giỏi
Hoặc thưởng hoặc phạt đều công minh
Cho họ tất cả đều vui phục.
Hoặc làm Ðại-Thần chuyên phụ bật
Giỏi dùng chánh-trị an lê-dân
Lợi ích mười phương đều cùng khắp
Tất cả chúng-sanh chẳng rõ biết.
Hoặc làm Túc-Tán Tiểu-quốc-Vương
Hoặc làm Ðại-Ðế Chuyển-Luân-Vương
Khiến các Vương-Tử cùng thể-nữ
Ðều theo chánh-pháp, không ai biết.
Hoặc làm Hộ-Thế Tứ-Thiên-Vương
Thống lãnh Dạ-Xoa, Long-Thần thảy
Vì chúng hội đó mà thuyết pháp
Ðều khiến tất cả đồng vui thích.
Hoặc làm Ðạo-Lợi Ðại-Thiên-Vương
Ở Thiện-Pháp-Ðường, vườn Hoan-Hỉ
Ðầu đội thiên-quan diễn pháp mầu
Chư Thiên ngưỡng mộ chẳng lường được.
Hoặc trụ Dạ-Ma, Ðâu-Suất thiên
Hóa-Lạc, Tự-Tại, cung Ma-Vương
Ngự cung Ma-Ni, điện trân-bửu
Giảng pháp chơn thiệt khiến điều-phục.
Hoặc đến trong chúng hội Phạm-Thiên
Nói tứ-vô-lượng, các thiền định
Cho họ hoan-hỉ, bèn bỏ đi
Không ai biết được tướng qua lại.
Hoặc đến Sắc-Cứu-Cánh thiên-cung
Ðể giảng giác-phần những bửu-hoa
Cùng những vô-lượng thánh-công-đức
Sau đó bỏ đi chẳng ai biết.
Phật-trí vô-ngại thấy khắp nơi
Trong đó tất cả những hàm-thức
Ðều dùng vô-biên phương-tiện môn
Nhiều cách giáo-hóa khiến thành-tựu.
Ví như thuật-sĩ giỏi ảo thuật
Hiện ra các thứ hình tượng huyễn,
Phật hóa chúng-sanh cũng như vậy
Vì họ mà hiện nhiều thân hình.
Ví như trăng sáng giữa hư-không
Thế-gian chúng-sanh thấy tròn khuyết
Tất cả sông ao hiện bóng trăng
Tất cả tinh tú bị khuất sáng.
Như-Lai trí-nguyện hiện thế-gian
Cũng dùng phương-tiện hiện tăng giảm
Tâm-thủy Bồ-Tát hiện bóng Phật
Thanh-Văn, Duyên-Giác khuất quang sắc.
Như trong đại-hải đầy châu báu
Trong sạch không nhơ không hạn lượng
Bao nhiêu chúng-sanh ở bốn châu
Tất cả hiện bóng ở trong biển.
Phật-thân công-đức cũng như vậy
Không nhơ không đục không ngằn mé
Nhẫn đến pháp-giới các chúng-sanh
Không ai chẳng hiện trong thân Phật.
Ví Như mặt nhật phóng quang-minh
Chẳng rời bổn-xứ chiếu mười phương,
Phật-quang chiếu khắp cũng như vậy
Không khứ không lai trừ si tối.
Ví như Long-Vương tuôn mưa lớn
Chẳng từ thân ra, chẳng từ tâm
Mà mưa cùng khắp đều nhuần thấm
Trừ hết viêm nhiệt được thanh-lương.
Như-Lai pháp-vũ cũng như vậy
Chẳng từ thân tâm Phật phát ra
Mà hay khai ngộ tất cả chúng
Khiến khắp diệt trừ lửa tam độc.
Như-Lai thanh-tịnh diệu-pháp-thân
Tất cả ba cõi không gì sánh
Vì ngoài đường ngôn ngữ thế-gian
Bởi tánh phi-hữu phi-vô vậy.
Dầu không sở-y mà ở khắp,
Dầu đến tất cả mà không đi,
Như vẽ không trung, cảnh trong mộng,
Phải quán thân Phật là như vậy.
Những pháp có, không, trong ba cõi
Chẳng thể ví-dụ cùng Phật được,
Ví như chim muông trong núi rừng
Không nương không-gian mà ở được.
Ðại hải ma-ni vô-lượng màu,
Thân Phật sai khác cũng như vậy,
Như-Lai phi-sắc phi-phi-sắc
Tùy nghi mà hiện, không sở-trụ.
Hư-không, chơn-như và thiệt-tế,
Niết-bàn, pháp-tánh, tịch-diệt thảy
Chỉ có những pháp chơn thiệt nầy
Khả dĩ hiển thị được Như-Lai.
Sát-trần tâm niệm đếm biết được,
Nước trong đại-hải uống hết được,
Hư-không lường được, gió buộc được,
Không thể nói hết công-đức Phật.
Nếu ai nghe biển công-đức nầy
Mà sanh lòng vui mừng xin tin hiểu
Tất sẽ được những công-đức nầy
Thận trọng chớ sanh lòng ngờ vực.


 


LƯỢC LUẬN

về Ý-NGHĨA và LUẬN-QUÁN

của Phẩm PHỔ-HIỀN HẠNH -NGUYỆN

 

I

Ý-NGHĨA




Trong pháp hội Hoa Nghiêm, đức Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na với vô lượng pháp thân bồ tát ở Hoa Tạng giới hải cùng nhau giảng luận cũng như hiển bày về cảnh giới bất tư nghị giải thoát của mình tự chứng.

Thiện Tài Đồng Tử, một bậc đại cơ đại trí, nhờ đức Văn Thù bồ tát điểm hóa nên chứng được Căn bổn trí (cũng gọi là Chân thiệt trí, Luận Khởi tín nói: “Thỉ giác hiệp bổn giác”, Luận Duy thức nói: “Chứng chơn duy thức tánh”, chính là trí này vậy. Người chứng được trí này thời là bậc Sơ trụ bồ tát theo Viên giáo, và là bậc Sơ địa bồ tát của Thỉ giáo. Trí lực và thần thông của bậc bồ tát này có thể phân thân hóa hiện làm một trăm thiên bá ức vị Phật ngự trong một trăm thế giới không Phật để giáo hóa chúng sinh).

Sau đó đức Văn Thù bồ tát bảo ngài Thiện Tài đi tham học với các bậc đại thiện trí thức khác để được viên mãn phước trí. Học với Đức Vân trước nhất, nhẫn đến Quán Thế Âm, Di Lặc, cuối cùng ngài cầu học với đức Phổ Hiền bồ tát. Đến đây, quả vị của ngài Thiện Tài đã chứng kề bậc Đẳng giác.

Bấy giờ, đức Phổ Hiền bồ tát đứng trước Phật, xưng dương tán thán công đức vô lượng của Phật xong, ngài liền đem mười điều đại nguyện giảng cho Thiện Tài và hải hội bồ tát cùng nghe. Ngài bảo muốn trọn nên công đức của Phật, nghĩa là muốn thành Phật, chư bồ tát đều phải tu mười nguyện vương ấy.

Mười nguyện vương ấy cũng gọi là Phổ Hiền hạnh nguyện. Danh từ này có hai nghĩa chung và riêng:

A.-Mười điều đây là hạnh nguyện của bậc Đẳng giác, của bậc bồ tát gần kề quả Phật cùng tu để được thành Phật, nên gọi là Phổ Hiền hạnh nguyện, đây là nghĩa chung.

B.-Mười nguyện đây chính là của đức Phổ Hiền bồ tát, và là của đức Phổ Hiền đem giảng lại cho đại chúng, nên gọi là Phổ Hiền hạnh nguyện, đây là nghĩa riêng.

Như trên đã nói, trong đại hội Hoa Nghiêm, đức Phật và chư bồ tát cùng nhau giảng luận cũng như hiển bày vẻ cảnh giới bất tư nghị giải thoát của mình tự chứng, nên tất cả những lời trong phẩm hạnh nguyện này, đức Phổ Hiền bồ tát cũng y cứ nơi cảnh giới bất tư nghị giải thoát của ngài đã tự chứng mà giảng thuật, vì thế nên danh đề của phần này là: Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh, Nhập bất tư nghị giải thoát cảnh giới Phổ Hiền hạnh nguyện phẩm.

Mười hạnh nguyện đây đã đứng trên cảnh giới bất tư nghị giải thoát mà thành lập, vậy thời muốn hiểu thấu đáo diệu lý của mười hạnh nguyện này, trước tiên cần phải rõ thế nào là bất tư nghị giải thoát cảnh giới?

Chỗ sở ngộ và sở chứng của hàng Đại thừa bồ tát chia ra làm bốn tầng cấp. Bốn tầng cấp này đều lấy toàn thể pháp giới tánh làm lượng, thể tánh bổn lai vốn dung thông tự tại vô ngại:

1.-Lý vô ngại pháp giới
2.-Sự vô ngại pháp giới
2.-Lý sự vô ngại pháp giới
4.-Sự sự vô ngại pháp giới


“Lý” tức là chân lý thật tánh, là thể tánh chân thật của tất cả pháp, nên cũng gọi là pháp tánh, hay pháp giới tánh, chơn như tánh. Tất cả pháp trong vũ trụ đều đồng một thể tánh chân thật ấy. Thể tánh ấy dung thông vô ngại, nên gọi là “Lý vô ngại pháp giới”. Người chứng được lý vô ngại này chính là bậc thành tựu Căn bổn trí, mà bắt đầu dự vào hàng pháp thân bồ tát.

Tất cả pháp 
“sự” đều đồng một thể tánh chân thật tức là đồng lấy pháp tánh làm thể. Toàn thể “sự” là pháp tánh, mà pháp tánh đã viên dung vô ngại, thời toàn sự cũng vô ngại, nên gọi là “Sự vô ngại pháp giới”.

Người chứng được sự pháp giới này chính là bậc pháp thân bồ tát thành tựu Sai biệt trí (cũng gọi là Quyền trí, Tục trí, Hậu đắc trí).

“Lý” là thể tánh của “sự” (tất cả pháp), “sự” là hiện tượng của “lý tánh”. Vậy thời lý tánh tức là lý tánh của sự, còn sự là sự tướng của lý tánh. Chính lý tánh là toàn sự, mà tất cả sự toàn là lý tánh, nên gọi là 
“lý sự vô ngại pháp giới”. Người chứng được lý sự pháp giới này thời là bậc pháp thân bồ tát đồng thời hiển phát cả hai trí (Căn bổn trí và Sai biệt trí).

Tất cả sự đều toàn đồng một tánh thể, mà tánh thể thời dung thông không phân chia riêng khác, nên bất luận là một sự nào cũng đều dung nhiếp tất cả sự, và cũng đều tức tất cả sự. Một sự nhiếp và tức tất cả sự, tất cả sự nhiếp và tức một sự. Thế là sự sự vô ngại tự tại, nên gọi là 
“Sự sự vô ngại pháp giới”. Người chứng được sự sự pháp giới này là bậc pháp thân bồ tát thành tựu nhất thiết chủng trí.

Xét theo văn nghĩa, phẩm này y cứ nơi sự sự vô ngại pháp giới mà lập hạnh nguyện. Sự sự vô ngại pháp giới dung thông tự tại nên gọi là “giải thoát”. Cảnh giới đây là thánh trí chỗ chứng, chẳng phải phàm tình lường biết được nên gọi là “bất tư nghị cảnh giới”. Đã chứng được, đã trụ trong cảnh giới vô ngại ấy nên gọi là “nhập”.

Sao lại biết rằng phẩm này y cứ nơi sự sự vô ngại pháp giới mà thành lập hạnh nguyện?

Trong phẩm, đức Phổ Hiền giảng giải về mười điều đại nguyện, nơi nguyện nào cũng đều quán nhiếp cả không gian lẫn thời gian.

Về không gian, nguyện luôn luôn nói:

Trong vô lượng cõi có vô lượng vi trần, trong mỗi vi trần đều có vô lượng cõi, trong mỗi cõi đều có vô lượng Phật, nơi mỗi đức Phật đều có vô lượng bồ tát, vô lượng đại chúng v.v… Nơi trước mỗi đức Phật, tôi đều hóa hiện thân nhiều như số vi trần, mỗi thân đều khắp lễ kính vô lượng Phật v.v… Trong số hư trần khắp hư không pháp giới mười phương ba đời, mỗi vi trần đều có vô lượng cõi Phật rộng lớn, nơi mỗi cõi, trong một niệm đều có vô lượng chư Phật thành Đẳng chánh giác, tất cả chúng bồ tát nhóm họp vây quanh v.v…

Cho đến nơi văn kệ cũng luôn nói như thế:


Trong một trần có vô số cõi,
Mỗi mỗi cõi có nan tư Phật,
Mỗi mỗi Phật ở giữa chúng hội.
Tôi thấy hằng giảng hạnh bồ đề.




Thế là tất cả pháp, về không gian, thời nhỏ nhiếp lớn, ít dung nhiều, nhỏ lớn nhiều ít đều viên dung vô ngại.

Về thời gian, đại nguyện nào cũng là mãi mãi vô tận, cho đến một niệm nhiếp tất cả kiếp, rồi tất cả kiếp chung nơi một niệm, ngắn dài, dài ngắn đều viên dung vô ngại. Như nguyên văn nói:

Tôi hay thâm nhập đời vị lai
Tất cả nhiếp thâu làm một niệm
Hết thảy những kiếp trong ba đời
Làm khoảng một niệm tôi đều nhập



Và cả không gian lẫn thời gian cùng dung thông nhiếp nhận lẫn nhau, như trên nguyên văn nói:

Khắp hết mười phương các cõi nước (không gian)
Mỗi đầu lông đủ có ba đời (thời gian)
Phật cùng quốc độ số vô lượng (không gian)
Tôi khắp tu hành trải trần kiếp (thời gian)



Trong một niệm tôi thấy ba đời (thời gian)
Tất cả các đấng Nhân Sư Tử (không gian)
Cũng thường vào trong cảnh giới Phật
Như huyễn, giải thoát và oai lực



Trong các cực vi đầu sợi lông
(không gian)
Xuất hiện cõi trang nghiêm ba thuở
Mười phương trần sát các đầu lông
Tôi đều thâm nhập để nghiêm tịnh.


Tất cả Sự pháp không ngoài không gian và thời gian. Không gian dung nhiếp không gian, thời gian dung nhiếp thời gian, không gian dung nhiếp thời gian, thời gian dung nhiếp không gian, đó là “sự sự vô ngại pháp giới”, mà cũng chính là “cảnh giới giải thoát tự tại bất tư nghị” vậy.

 

(Muốn rõ diệu lý của sự sự vô ngại pháp giới, nên tham cứu Thập huyền môn của Hoa Nghiêm tông và nên xem phẩm “Bất tư nghị” trong kinh Duy Ma Cật để rõ thêm về cảnh giới bất tư nghị của bồ tát).

Và cảnh giới dung thông bất tư nghị đây là những sự vật thường ở khắp trong cõi thế giới Cực Lạc. Nơi Cực Lạc, trên cây báu, trong đền đài, trong quang minh, ở mặt đất, giữa hư không v.v… tất cả sự vật đều dung nhiếp lẫn nhau, trùng trùng vô tận vô ngại, cho đến nơi lọng báu hiển hiện tất cả Phật sự ở mười phương v.v… Như trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã tường thuật.

Người thọ trì đọc tụng phẩm này, tức là huân tập cảnh giới bất tư nghị giải thoát. Vì thế nên về đoạn cuối phẩm nguyên văn nói người thọ trì đọc tụng phẩm “Phổ Hiền hạnh nguyện” này, nhờ oai lực của hạnh nguyện lúc lâm chung sẽ sanh về cõi Cực Lạc và sẽ được mau thành Phật. Vì cõi Cực Lạc là hiện tượng của cảnh giới bất tư nghị giải thoát. Dưới đây là nguyên văn nói về việc ấy:



Lại người trì tụng này, lúc lâm chung, phút cuối cùng, tất cả căn thân đều hư hoại, tất cả thân thuộc đều phải bỏ lìa, tất cả oai thế đều thối thất, cho đến các phụ tướng đại thần, cung thành trong ngoài, voi ngựa xe cộ, trân bảo, kho đụn v.v… tất cả đều không đem một món nào theo được. Chỉ có mười nguyện vương này chẳng rời người mà thôi, trong tất cả thời gian nó thường ở trước dẫn đường, trong khoảnh khắc liền được sanh về cõi Cực Lạc. Đến Cực Lạc rồi liền thấy đức A Di Đà Phật cùng các ngài Văn Thù Sư Lợi bồ tát, Phổ Hiền bồ tát, Quán Tự Tại bồ tát v.v… các vị bồ tát này sắc tướng đoan nghiêm, công đức đầy đủ, chung cùng vây quanh. Lúc bấy giờ người ấy tự thấy mình gá sanh nơi hoa sen báu, được đức Phật xoa đầu thọ ký. Sau khi được thọ ký rồi, trải qua vô số trăm ngàn muôn ức na do tha kiếp, khắp cả mười phương bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới, dùng sức trí huệ tùy theo tâm của chúng sinh mà làm cho đều được lợi ích. Chẳng bao lâu sẽ ngồi nơi Bồ đề đạo tràng hàng phục quân ma, thành bậc Đẳng chánh giác giảng nói pháp mầu vi diệu.

Và muốn cho mọi người, cho tất cả chúng sinh đều được chứng nhập cảnh giới bất tư nghị giải thoát, đức Phổ Hiền bồ tát lại ân cần khuyên:



Vì thế nên những người được nghe mười nguyện vương này chớ sanh lòng nghi ngờ, nên phải lãnh thọ, thọ rồi nên đọc, đọc rồi có thể tụng thuộc, tụng thuộc rồi nên ghi nhớ, nhẫn đến biên chép vì người mà giảng nói, những người như vậy trong một niệm đều được thành tựu tất cả hạnh nguyện, được phước vô lượng vô biên, có thể ở trong biển khổ phiền não cứu vớt chúng sinh, khiến chúng được giải thoát, đều được vãng sanh về thế giới Cực Lạc của đức Phật A Di Đà.

Thiết thật hơn, đức Phổ Hiền lại khuyên tất cả bồ tát, tất cả đại chúng hiện tại trong pháp hội Hoa Nghiêm, dưới sự chứng kiến của đức Phật cùng nhau đồng phát nguyện vãng sanh Cực Lạc, để được chóng viên thành Phật quả.

Dưới đây là nguyên văn phát nguyện của các ngài:

Nguyện tôi lúc mạng sắp lâm chung
Trừ hết tất cả các chướng ngại
Tận mặt gặp Phật A Di Đà
Liền được vãng sanh cõi Cực Lạc
Tôi đã vãng sanh cõi kia rồi
Hiện tiền thành tựu nguyện lớn này
Cả thảy tròn đủ không thừa thiếu
Lợi lạc khắp tất cả chúng sinh
Chúng hội Di Đà đều thanh tịnh
Tôi từ hoa sen nở sanh ra
Thân thấy đức Phật Vô Lượng Quang
Liền thọ ký tôi đạo bồ đề
Nhờ đức Phật kia thọ ký rồi
Tôi hóa vô số vạn ức thân
Trí huệ rộng lớn khắp mười phương
Khắp lợi tất cả chúng sinh giới.


Trước khi dứt lời, đức Phổ Hiền lại đem tất cả công đức hồi hướng cho pháp giới chúng sinh đồng vãng sanh Cực Lạc, để chúng sinh cũng đồng được chứng nhập cảnh giới bất tư nghị giải thoát như ngài.

Đây là lời hồi hướng:

Hạnh Phổ Hiền thù thắng của tôi
Phước lớn vô biên đều hồi hướng
Khắp nguyện chúng sinh đang chìm đắm
Mau sanh cõi Phật Vô Lượng Quang

(tức là cõi Cực Lạc của đức Phật A Di Đà)




II

LUN-QUÁN



Đã lược biết ý nghĩa về phần y cứ cũng như về mục đích của phẩm này, giờ đây cũng nên lược luận về tuần thứ luận của mười điều đại nguyện:



Một là lễ kính các đức Phật
Hai là khen ngợi đức Như Lai
Ba là rộng sắm đồ cúng dường
Bốn là sám hối các nghiệp chướng
Năm là tùy hỷ các công đức
Sáu là thỉnh đức Phật thuyết pháp
Bảy là thỉnh đức Phật ở lại đời
Tám là thường học đòi theo Phật
Chín là hằng thuận lợi chúng sinh
Mười là hồi hướng khắp tất cả


Chúng sinh lưu lãng trong vòng sanh tử luân hồi, nguyên nhân là vì trái quên giác tánh mà theo trần lao. Trần lao là thứ vô thường, nên đã theo nó tức là lưu chuyển như nó. Nếu chúng sinh thức tỉnh biết xét trở lại: rời trần lao mà xoay về giác tánh thời khỏi hẳn luân hồi, vì giác tánh là bổn thể chơn như thường trụ. Bậc chứng cùng giác tánh là đức Phật, nên điều nguyện thứ nhất “lễ Phật” đây, là biểu tượng trái trần lao mà hiệp với giác tánh vậy.

... Đã kính lễ Phật, tất nhiên phải biết hạnh đức thần thông trí huệ vô thượng của Phật. Việc “tán thán công đức”, chính là biểu hiện của sự rõ biết rồi quá khâm phục mà thốt ra lời, làm thành điều nguyện thứ hai trong mười nguyện.

... Muốn thỏa mãn tấm lòng khâm phục, kính ngưỡng ân đức sâu dày của Phật, lễ lạy và tán thán vẫn chưa đủ, bồ tát lại lấy sự “cúng dường Phật” làm điều nguyện thứ ba. Hạnh cúng dường có hai cách:

1.- Tài cúng dường (dâng hoa, hương đèn v.v… để dâng cúng).

2.- Pháp cúng dường (y theo lời Phật mà tu hành, cho đến chẳng rời tâm bồ đề để cúng dường v.v…).


Về tương đối, công đức của pháp cúng dường lớn hơn công đức của tài cúng dường. Nhưng ở nơi tài cúng dường mà tam luân không tịch, thời tài cúng dường trở thành pháp cúng dường công đức vô lượng vô biên, như trong kinh Kim cang nói bố thí không trụ trước nơi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, công đức rộng lớn như hư không. Và như kinh Pháp hoa, phẩm “Dược Vương”, nhắc việc cúng dường của ngài Nhất Thiết Chúng sinh Hỷ Kiến bồ tát.



Nơi Phật thời đầy đủ vô lượng công đức trang nghiêm. Nơi ta thời từ vô thỉ đến nay kết cấu vô biên nghiệp hoặc. Muốn thành tựu công đức, trước phải trừ sạch nghiệp chướng đã gây tạo từ quá khứ, cũng không tái phạm ở hiện tại và tương lai. Đây là ý nghĩa của lời nguyện thứ tư “Sám hối các nghiệp chướng”.



Ở nơi công đức của người mà mình có quan niệm tán thành kính mộ thời mới có sự phát tâm làm theo, tu tập theo nên “Tùy hỷ công đức” là điều nguyện thứ năm của bồ tát.



Đã có quan niệm tán thành ngưỡng mộ công đức vô thượng, tất cần phải biết do phương tiện gì, do pháp môn nào mà được thành tựu. Vì thế nên bồ tát gấp “Thỉnh đức Phật chuyển pháp luân”, đồng thời để chúng sinh gội nhuần ơn pháp nhũ, thành điều nguyện thứ sáu.

Chư Phật thành Phật là vì chúng sinh mà thành Phật, đã vì chúng sinh tất phải nói pháp, bồ tát cần gì phải cầu thỉnh? Sự thỉnh pháp đây có hai nghĩa:

1.- Vì muốn cho chánh pháp có phần quý trọng, có quý trọng mọi người mới sanh lòng khao khát ngưỡng vọng, có khao khát ngưỡng vọng mới có lợi ích.

2.-Lòng của bồ tát lúc nào cũng tha thiết đối với sự lợi người lợi mình. Người cùng mình được lợi ích, không gì bằng nghe Phật thuyết pháp, nên đức Phật chưa nói mà bồ tát đã vội cầu thỉnh trước.




Mình và chúng hội hiện tại được thấy Phật, được nghe pháp âm, nhưng còn lo tương lai thiếu huệ nhật nếu đức Phật nhập diệt. Phật ở nơi đời là phước hội tối thắng cho quần sanh, nên bồ tát chí thành “Thỉnh Phật trụ thế mãi mãi”. Đây là điều nguyện thứ bảy.



Đã thỉnh Phật diễn nói phép mầu, tất đã thông hiểu. Nhưng nghe pháp mà thiếu tư duy tu tập, thời đâu có thể đạt đến kết quả giải thoát thành Phật. Muốn thành Phật, phải đi đúng theo con đường của Phật đã đi. Nghĩa là phải thực hành những công hạnh như Phật đã làm trước khi thành Phật và sau khi thành Phật. Nên điều nguyện thứ tám “Thường học đòi theo Phật” nối liền với điều nguyện “khuyến thỉnh”. (Chữ học trong đây có nghĩa là học tập thực hành).



Pháp thân do phước đức và trí huệ mà trang nghiêm. Trí huệ cùng phước đức được viên mãn, tức là thành Phật hoàn toàn. Tư duy tu tập chính để rèn luyện trí huệ, còn từ bi lợi sanh chính là vun trồng phước đức, mà đồng thời cũng là bổ túc cho trí huệ do sự kinh nghiệm. Vì thế nên công hạnh độ sanh lợi tha do từ bi tâm là phận sự khẩn thiết của các bậc bồ tát đắc nhẫn (Đắc nhẫn nói đủ là Đắc Vô sanh nhẫn, nghĩa là bậc bồ tát đã chứng Vô sanh giải thoát) mà thành điều nguyện thứ chín “Hằng tùy thuận chúng sinh” (Hai chữ tùy thuận ở nơi đây chính ý là thiết tha lân mẫn chúng sinh, chiều theo chỗ hạp nghi nguyện vọng trong sạch của chúng sinh, mà thi hành những phương pháp gì để chúng sinh được lợi ích trên đường giải thoát khỏi khổ…).



Bồ tát đã lấy từ bi làm lòng, nên chúng sinh khổ là mình khổ, chúng sinh vui là mình vui, tất cả công hạnh tu tập chính là vì chúng sinh mà tu tập, nên bồ tát có bao nhiêu công đức đều hồi hướng cho cả pháp giới chúng sinh, mong cho muôn loài chóng thoát khổ sanh tử, đồng sớm được thành Phật. Đây là điều nguyện thứ mười “Phổ giai hồi hướng” của bồ tát.

Mười nguyện vương đã thuộc cảnh giới bất tư nghị, thời đâu còn phải ở trong phạm vi ngữ ngôn văn tự, chỉ tùy chỗ sở đắc thánh trí của hành giả tự chứng tỏ lấy. Nhưng vì muốn cho các hàng sơ cơ hiểu được phần nào nơi ý nghĩa trong phẩm này, nên tôi mới trắc đạc viết ra những lời lược luận trên đây. Đồng thời cũng mong mọi người, do sự hiểu biết phần nào ấy, mà phát tâm tín thọ, trì tụng phẩm này, để được vô lượng công đức, như nguyên văn trong phẩm nói:



Này thiện nam tử! Các chúng sinh kia hoặc nghe hoặc tin nơi nguyện vương rộng lớn này, rồi thọ trì đọc tụng và giảng nói cho người nghe, công đức của chúng sinh kia chỉ có đức Phật Thế Tôn biết, ngoài ra không ai hiểu thấu.

Hoặc có người dùng lòng tin sâu chắc ở nơi mười điều nguyện rộng lớn này thọ trì, đọc tụng, cho đến biên chép một bài kệ bốn câu, thì sớm có thể dứt trừ được năm nghiệp vô gián, cả thảy thân bệnh, tâm bệnh, khổ não trong thế gian, cho đến tất cả các ác nghiệp nhiều như số cực vi trong cõi Phật đều được tiêu trừ, tất cả các quân ma, quỷ Dạ Xoa, quỷ La Sát, hoặc quỷ Cưu Bàn Trà, Tỳ Xá Xà, Bộ Đa v.v… các quỷ thần hung ác uống máu ăn thịt thảy đều lánh xa, hoặc nếu có gần gũi thời là hạng phát tâm theo hộ trì.

Vì thế nên người trì tụng nguyện này, thời đi trong thế gian không bị chướng ngại, như mặt trăng giữa lừng ra khỏi mây mù, các đức Phật, bồ tát đều khen ngợi, tất cả hàng nhơn thiên đều nên lễ kính, tất cả chúng sinh đều nên cúng dường. Người thiện nam tử này trọn được thân người đầy đủ bao nhiêu công đức của ngài Phổ Hiền, chẳng bao lâu sẽ như Phổ Hiền bồ tát mau được thành tựu sắc thân vi diệu, đủ ba mươi hai tướng tốt đại trượng phu… trọn có thể phá hoại tất cả đường ác, trọn có thể xa lìa tất cả bạn dữ, trọn có thể chế phục tất cả ngoại đạo, trọn có thể giải thoát tất cả phiền não… Lại người này lúc lâm chung, trong khoảnh khắc liền được vãng sanh về cõi Cực Lạc. Lúc bấy giờ người ấy tự thấy mình gá sanh nơi hoa sen báu, được đức Phật A Di Đà thọ ký. Sau khi được thọ ký rồi, trải qua vô số trăm ngàn ức na do tha kiếp, khắp cả mười phương tất cả thế giới, dùng sức trí huệ tùy theo tâm của chúng sinh mà làm lợi ích. Chẳng bao lâu sẽ ngồi nơi Bồ đề đạo tràng, hàng phục quân ma, thành bậc Đẳng chánh giác giảng nói pháp mầu vi diệu…


Tháng đầu xuân năm Đinh-Dậu (1957)
Phật lịch Quốc-Tế 2501


HÂN TỊNH TỲ-KHEO THÍCH TRÍ-TỊNH

 


ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

HOA NGHIÊM KINH

 

Nhập Bất--Nghị Giải-Thoát Cảnh-Giới

Phổ-Hiền Hạnh-Nguyện Phẩm

 

Thứ Bốn Mươi


ời Đường, người nước Kế-Tân, 

Tam-tạng SA-MÔN BÁT-NHÃ vưng chiếu dịch ra văn Hán)


Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH



Lúc bấy giờ ngài Phổ Hiền đại Bồ Tát khen ngợi công đức thù thắng của đức Như Lai rồi, bèn bảo các vị Bồ Tát và Thiện Tài rằng: "Này Thiện Nam Tử! Công đức của Như Lai, giả sử cho tất cả các đức Phật ở mười phương, trải qua số kiếp nhiều như cực vi trần trong bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật diễn nói không ngừng, cũng không thể trọn hết được.

Nếu ai muốn trọn nên công đức của Phật, thời phải tu mười điều hạnh nguyện rộng lớn. Những gì là mười điều?



Một là kính lễ các đức Phật.
Hai là khen ngợi đức Như Lai.
Ba là rộng sắm đồ cúng dường.
Bốn là sám hối các nghiệp chướng.
Năm là tùy hỉ các công đức.
Sáu là thỉnh đức Phật thuyết pháp.
Bảy là thỉnh đức Phật ở lại đời.
Tám là thường học tập theo Phật.
Chín là hằng thuận lợi chúng sanh.
Mười là hồi hướng khắp tất cả.



Thiện Tài bạch rằng: "Ðại Thánh! Lễ kính như thế nào? cho đến hồi hướng như thế nào?".
Phổ Hiền Bồ Tát bảo Thiện Tài rằng: "Này thiện nam tử ! Nói "Lễ kính các đức Phật" là như vầy:
Bao nhiêu các đức Phật Thế Tôn nhiều như số cực vi trần trong cõi Phật khắp pháp giới hư không giới mười phương ba đời, tôi do nơi hạnh nguyện của Phổ Hiền thâm tâm tín giải như đối trước mắt, đều dùng thân, khẩu, ý ba nghiệp thanh tịnh thường tu hạnh lễ kính. Nơi mỗi đức Phật đều hóa hiện thân nhiều như số cực vi trần trong bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi thân đều khắp lễ kính các đức Phật nhiều như số cực vi trần trong bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Cõi hư không kia hết, sự lễ kính của tôi mới hết. Nhưng cõi hư không chẳng cùng tận nên sự lễ kính của tôi cũng không cùng tận. Nhẫn đến cõi chúng sanh hết, nghiệp chúng sanh hết, phiền não chúng sanh hết, sự lễ kính của tôi mới dứt. Nhưng cõi chúng sanh cho đến phiền não chẳng hết, nên sự lễ kính của tôi cũng không cùng tận, niệm niệm nối luôn không hở, ba nghiệp thân, khẩu, ý không hề nhàm mỏi.

Lại này thiện nam tử! "Nói "Khen ngợi đức Như Lai" là như vầy:

Bao nhiêu số cực vi trần trong cõi nước khắp cùng hư không pháp giới mười phương ba đời, trong mỗi cực vi đều có các đức Phật nhiều như số cực vi trong tất cả thế gian.  Nơi mỗi đức Phật, đều có rất đông Bồ Tát vây quanh nhóm họp. Tôi phải trọn dùng sức thậm thâm thắng giải tri kiến hiện tiền, đều dùng lưỡi vi diệu hơn Biện Tài Thiên Nữ. Mỗi lưỡi phát xuất vô tận âm thinh hải. Mỗi âm thinh phát xuất tất cả ngôn từ hải,  khen ngợi các công đức hải của tất cả đức Như Lai, ca ngợi đến tột đời vị lai nối luôn không dứt, khắp cả pháp giới, không sót chỗ nào. Như vậy hư không giới, chúng sanh giới, chúng sanh nghiệp, chúng sanh phiền não đều hết, thời sự khen ngợi công đức chư Phật của tôi đây mới cùng tận. Nhưng cõi hư không kia cho đến phiền não của chúng sanh chẳng cùng tận, nên sự khen ngợi của tôi cũng không cùng tận, nên sự khen ngợi của tôi cũng không cùng tận, niệm niệm nối luôn không hở, ba nghiệp thân, khẩu, ý không hề nhàm mỏi.

Lại này thiện nam tử! "Nói "Rộng sắm đồ cúng dường" là như vầy:

Bao nhiêu số vi trần trong khắp cõi Phật cùng hư không pháp giới mười phương ba đời, trong mỗi cực vi trần đều có chư Phật như số cực vi trong tất cả thế giới, nơi mỗi đức Phật có vô số Bồ Tát vây quanh nhóm họp. Tôi dùng sức hạnh nguyện của Ngài Phổ Hiền mà khởi lòng tín giải rất sâu và hiện tiền tri kiến, đều đem đồ cúng dường thượng diệu mà cúng dường pháp hội của Phật. Như là mây hoa, mây tràng hoa, mây âm nhạc cõi trời, mây tàn lọng cõi trời, mây y phục cõi trời, các thứ hương trời: hương xoa, hương đốt, hương bột. Các thứ mây trên đây thảy đều nhiều lớn như núi Tu Di. Lại thắp các thứ đèn, đèn tô lạc, đèn dầu, các thứ đèn dầu thơm mỗi tim đèn lớn như núi Tu Di, dầu trong đèn như nước bể cả. Ðem các thứ đồ cúng dường như trên để thường cúng dường.

Thiện nam tử ! Trong các thứ cúng dường, pháp cúng dường là hơn hết. Pháp cúng dường là: Tu hành đúng theo lời Phật dạy để cúng dường, làm lợi ích cho chúng sanh để cúng dường, chịu khổ thế cho chúng sanh để cúng dường, nhiếp thọ chúng sanh để cúng dường, siêng năng tu tập căn lành để cúng dường, không bỏ hạnh Bồ Tát để cúng dường, chẳng rời tâm Bồ Ðề để cúng dường.

Thiện nam tử ! Như vô lượng công đức của sự cúng dường trước kia sánh với một niệm công đức của pháp cúng dường, thời không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, không bằng một phần trăm ngàn, cu chi na do tha, một phần ca la, một phần toán, một phần số, một phần dụ, cũng chẳng bằng một phần ưu ba ni sa đà. Vì sao? Vì các đức Như Lai tôn trọng chánh Pháp. Vì theo đúng như lời Phật dạy mà tu hành thì sanh ra các đức Phật. Nếu các Bồ Tát thật hành pháp cúng dường, thì trọn nên sự cúng dường Phật. Tu hành như vậy mới thật là sự cúng dường. Nên Pháp cúng dường là sự cúng dường rộng lớn hơn tất cả. Cõi hư không cùng tận cõi chúng sanh cùng tận, nghiệp chúng sanh cùng tận, phiền não chúng sanh cùng tận, sự cúng dường của tôi mới cùng tận, nhưng cõi hư không cho đến phiền não chẳng cùng tận nên sự cúng dường của tôi cũng không cùng tận, niệm niệm nối luôn không hở, thân, khẩu, ý nghiệp không hề nhàm mỏi.

Lại này thiện nam tử! Nói "Sám hối nghiệp chướng" là như vầy:

Bồ Tát tự nghĩ rằng: Tôi từ vô thỉ kiếp về qúa khứ, do lòng tham lam, giận dữ, ngu si khiến thân, khẩu, ý tạo vô lượng vô biên nghiệp ác. Nếu các nghiệp ác này mà có hình tướng, thì khắp cõi hư không cũng chẳng thể đựng chứa hết được. Nay tôi đem trọn cả ba nghiệp trong sạch đối trước các đức Phật và chúng Bồ Tát khắp cực vi trần cõi nước trong Pháp giới, thành tâm sám hối, về sau không tái phạm nữa, thường an trụ nơi giới pháp trong sạch đầy đủ công đức lành. Như vậy hư không giới cùng tận, chúng sanh giới cùng tận, chúng sanh nghiệp cùng tận, chúng sanh phiền não cùng tận, thì sự sám hối của tôi mới cùng tận, nhưng hư không giới cho đến chúng sanh phiền não chẳng cùng tận, nên sự sám hối của tôi đây cũng không cùng tận, niệm niệm nối luôn không hở thân, khẩu, ý ba nghiệp không hề nhàm mỏi.

Lại này thiện nam tử! "Nói "Tùy hỉ công đức" là như vầy:

Bao nhiêu đức Phật như số vi trần trong tất cả cõi Phật khắp hư không pháp giới mười phương ba đời, từ khi mới phát tâm vì muốn chúng sanh Nhứt thiết trí mà siêng tu cội phước chẳng tiếc thân mạng, trải qua số kiếp như số cực vi trần trong bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi kiếp đều thí xả đầu, mắt, tay, chân v.v...nhiều như số cực vi trong bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, làm tất cả những hạnh khó làm như vậy, đầy đủ các món ba la mật, chứng nhập các trí địa của Bồ Tát, trọn nên qủa Vô Thượng Bồ Ðề của chư Phật, cho đến nhập Niết Bàn phân chia xá lợi. Bao nhiêu căn lành ấy tôi đều tùy hỷ cả.

Ðến các loài lục thú, tứ sanh trong tất cả mười phương thế giới kia có bao nhiều công đức, dầu nhỏ như mảy trần, tôi đều tùy hỷ.

Mười phương ba đời tất cả các vị Thanh Văn, Bích Chi Phật, hữu học và vô học có bao nhiêu công đức tôi đều tùy hỷ.

Tất cả chư Bồ Tát tu hạnh cần khổ khó làm, chí cầu qủa Vô Thượng Chánh Ðẳng Bồ Ðề công đức rộng lớn, tôi đều tùy hỷ. Như vậy, hư không giới cùng tận, chúng sanh giới cùng tận, chúng sanh nghiệp cùng tận, chúng sanh phiền não cùng tận, sự tùy hỷ của tôi đây không có cùng tận, niệm niệm nối luôn không hở, ba nghiệp thân, khẩu, ý không hề nhàm mỏi.

Lại này thiện nam tử ! Nói "Thỉnh đức Phật thuyết pháp" là thế này:

Trong số cực vi khắp hư không pháp giới mười phương ba đời tất cả cõi Phật. Mỗi cực vi đều có cõi Phật rộng lớn nhiều như số cực vi trong bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi cõi trong một niệm đều có tất cả chư Phật thành Chánh Ðẳng Chánh Giác số đông như số cực vi trong bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, tất cả chúng Bồ Tát nhóm họp vây quanh. Tôi đều đem thân, khẩu, ý ba nghiệp dùng những phương tiện ân cần khuyên mời tất cả Phật nói pháp nhiệm mầu. Như vậy, hư không giới cùng tận, chúng sanh nghiệp cùng tận, chúng sanh phiền não cùng tận, tôi luôn khuyên mời tất cả các đức Phật chuyển pháp luân chơn chánh không cùng tận, niệm niệm nối ý luôn không hở, ba nghiệp thân, khẩu, ý không hề nhàm mỏi.

Lại này thiện nam tử! "Nói "Thỉnh Phật ở lại đời" là như vầy:

Các đức Như Lai như số cực vi trong tất cả cõi Phật khắp hư không pháp giới mười phương ba đời toan muốn thị hiện nhập Niết Bàn, cùng các Bồ Tát, Thinh Văn, Duyên Giác, hữu học, vô học, cho đến tất cả các bậc thiện tri thức, tôi đều khuyên mời xin đừng nhập Niết Bàn, xin ở lại đời trải qua số kiếp như vi trần trong tất cả cõi Phật, vì muốn cho tất cả chúng sanh được lợi lạc. Như vậy, cõi hư không cùng tận, cõi chúng sanh cùng tận, nghiệp chúng sanh cùng tận, phiền não chúng sanh cùng tận, sự khuyên mời của tôi đây vẫn không cùng tận, niệm niệm nối luôn không hở, ba nghiệp thân, khẩu, ý không hề nhàm mỏi.

Lại này thiện nam tử! "Nói "Thường học tập theo Phật" là như vầy:

Như đấng Tỳ Lô Giá Na Phật ở cõi Ta Bà đây, từ khi mới phát tâm tinh tấn không trễ lui, đem bất khả thuyết bất khả thuyết thân mạng ra mà bố thí. Lột da làm giấy, chẻ xương làm viết, chích máu làm mực, dùng biên chép kinh điển chất cao như núi Tu Di, vì tôn trọng chánh pháp nên Phật không tiếc thân mạng, huống là ngôi vua, thành ấp, cung điện, vườn, rừng v.v..

Cùng thật hành bao nhiều hạnh khó làm khác, nhẫn đến ngồi dưới cây thành qủa đại Bồ Ðề, thị hiện các thứ thần thông, khởi các sự biến hóa, hiện các thân Phật ở trong những chúng hội: hoặc ở trong chúng hội đạo tràng của các vị đại Bồ Tát, hoặc ở trong đạo tràng của chúng hội Thinh Văn, Duyên Giác, hoặc ở trong đạo tràng của Chuyển Luân Vương, các vị Tiểu Vương cùng quyến thuộc, hoặc ở trong đạo tràng của chúng hội Cư Sĩ, Trưởng Giả, Bà La Môn cùng Sát Ðế Lợi, nhẫn đến hoặc ở trong đạo tràng của chúng hội Thiên, Long, Bát Bộ, Nhơn, Phi Nhơn v.v...ở trong các chúng hội như vậy, dùng tiếng viên mãn như đại lôi chấn, tùy theo căn tánh của mỗi loại mà giáo hóa cho chúng sanh đều được thành thục. Nhẫn đến thị hiện nhập Niết Bàn. Cả thảy hạnh đức như thế tôi đều học tập theo. Như đức Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na hiện nay, các đức Phật Như Lai như số vi trần trong tất cả cõi Phật khắp hư không pháp giới mười phương ba đời cũng như thế ấy, trong mỗi niệm tôi đều học tập theo. Như vậy, cõi hư không cùng tận, cõi chúng sanh cùng tận, nghiệp chúng sanh cùng tận, phiền não chúng sanh cùng tận, sự tùy học của tôi đây vẫn không cùng tận niệm niệm nối luôn không hở, ba nghiệp thân, khẩu, ý không hề nhàm mỏi.

Lại này thiện nam tử! "Nói "Hằng thuận lợi chúng sanh" là như vầy:

Bao nhiêu chúng sanh sai khác trong tất cả cõi ở mười phương pháp giới, hư không giới, chính là những loài noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, các loài nương nơi chất tứ đại mà sanh, có giống nương nơi hư không cùng cây cỏ mà sanh. Các giống sanh loại: các thứ sắc thân, các thứ hình trạng, các thứ tướng mạo, các thứ thọ lượng, các thứ tộc loại, các thứ danh hiệu, các thứ tâm tánh, các thứ tri kiến, các thứ dục lạc, các thứ ý hành, các thứ oai nghi, các thứ y phục, các thứ ăn uống, ở trong các thôn dinh, thành ấp, cung điện, nhẫn đến tất cả Thiên, Long, Bát Bộ, Nhơn, Phi Nhơn v.v...loài không không chân, loài hai chân, bốn chân, nhiều chân, loài có hình sắc, loài không có hình sắc, loài có tâm tưởng, loài không có tâm tưởng, loài chẳng phải có tâm tưởng chẳng phải không tâm tưởng. Các loài như vậy tôi đều tùy thuận tất cả mà thật hành các sự vâng thờ, cúng dường, như kính cha mẹ, như thờ bậc thầy, cùng A La Hán, nhẫn đến như đức Như Lai đồng nhau không khác. Trong các loài ấy, nếu là kẻ có bịnh thì tôi vì họ mà làm lương y, nếu ai bị lạc đường thì tôi vì họ mà chỉ cho con đường chánh, nơi đêm tối tôi vì họ mà làm ngọn đuốc sáng, người nghèo thiếu tôi làm cho được của báu. Bồ Tát bình đẳng lợi ích cho chúng sanh như vậy.

Vì sao thế? Vì Bồ Tát nếu có thể tùy thuận chúng sanh, thì chính là tùy thuận cúng dường các đức Phật. Còn tôn trọng và thừa sự chúng sanh thì chính là tôn trọng và thừa sự các đức Như Lai. Nếu làm cho chúng sanh vui mừng thì chính là làm cho tất cả đức Như Lai vui mừng. Vì sao thế? Vì các đức Như Lai dùng tâm đại bi mà làm thể. Nhơn nơi chúng sanh mà sanh lòng đại bi, nhơn lòng đại bi mà phát tâm bồ đề, nhơn vì nơi tâm bồ đề mà thành bậc Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Ví như giữa chốn sa mạc có cây thọ vương to lớn, nơi gốc cây ấy được nước rưới nhuần, thì cành lá hoa qủa thảy đều sum suê tươi tốt.

Cây thọ vương Bồ đề ở chốn sá mạc sanh tử rộng lớn cũng như vậy: tất cả chúng sanh là gốc rễ, Bồ Tát là hoa, Phật là qủa. Dùng nước đại bi đượm nhuần gốc rễ chúng sanh thì có thể trổ bông Bồ Tát trí huệ kết thành qủa Phật toàn giác.

Vì sao thế? Bởi các Bồ Tát dùng nước đại bi làm lợi ích chúng sanh, thì có thể thành tựu qủa Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Cho nên qủa Bồ Ðề thuộc về chúng sanh, vì nếu không chúng sanh, tất cả Bồ Tát trọn không thể thành đạo Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

Này thiện nam tử! Ông ở nơi nghĩa ấy nên hiểu như thế.

Bởi đối với chúng sanh mà tâm bình đẳng thì có thể sanh lòng đại bi đầy đủ hoàn toàn. Dùng tâm đại bi mà tùy thuận chúng sanh thì có thể thành tựu pháp cúng dường Như Lai. Bồ Tát tùy thuận chúng sanh như thế ấy.

Cõi hư không cùng tận, cõi chúng sanh cùng tận, nghiệp chúng sanh cùng tận, phiền não chúng sanh cùng tận, sự tùy thuận chúng sanh của tôi vẫn không cùng tận, niệm niệm nối luôn không hở, thân khẩu, ý ba nghiệp không hề nhàm mỏi.

Lại này thiện nam tử! "Nói "Hồi hướng khắp tất cả" là như vầy:

Từ sự lễ kính ban đầu nhẫn đến tùy thuận có bao nhiêu công đức, thảy đều đem hồi hướng cho tất cả chúng sanh khắp trong hư không pháp giới. Nguyện cho tất cả chúng sanh thường được an lạc, không các bịnh khổ, muốn thật hành pháp ác thảy đều không thành, còn tu nghiệp lành thì đều mau thành tựu. Ðóng chặt cửa của tất cả các ác thú, mở bày đường chánh Nhơn Thiên Niết Bàn. Nếu các chúng sanh nhơn vì trước kia chứa nhóm các nghiệp ác nên chiêu cảm tất cả qủa rất khổ, tôi đều chịu thế cho, khiến chúng sanh đều được giải thoát, rốt ráo thành tựu qủa Vô Thượng Bồ Ðề. Bồ Tát tu hạnh hồi hướng như vậy. Cõi hư không cùng tận, cõi chúng sanh cùng tận, nghiệp chúng sanh cùng tận, phiền não chúng sanh cùng tận, sự hồi hướng của tôi vẫn không cùng tận, niệm niệm nối luôn không hở, thân khẩu, ý ba nghiệp không hề nhàm mỏi.

Này thiện nam tử ! Ấy là mười điều nguyện lớn đầy đủ viên mãn của đại Bồ Tát. Nếu các vị Bồ Tát ở nơi mười điều nguyện lớn này mà tùy thuận tu hành, thì có thể thuần phục tất cả chúng sanh, thì có thể tùy thuận đạo Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, thì có thể trọn đủ các hạnh nguyện hải của ngài Phổ Hiền Bồ Tát. Này thiện nam tử! Do cớ ấy ở nơi các nghĩa trên đây ông nên hiểu biết như vậy.
Nếu có thiện nam tử, thiên nữ nhơn dùng bảy món báu thượng diệu và đồ an lạc tối thắng của Nhơn Thiên, rất nhiều đến nỗi dẫy đầy tất cả thế giới như số cực vi trong vô lượng vô biên bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật khắp mười phương, đem bố thí cả cho bao nhiêu chúng sanh trong ngần ấy thế giới, cúng dường cả cho các đức Phật cùng Bồ Tát trong ngần ấy thế giới trải qua vô số kiếp như số cực vi trong ngần ấy cõi Phật nối luôn không dứt, cúng dường bố thí như vậy được bao nhiêu công đức, đem sánh với công đức của người một phen nghe mười điều nguyện vương này, thì công đức trước không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, nhẫn đến cũng không bằng một phần ưu ba ni sa đà của công đức nghe kinh này.

Hoặc có người dùng lòng tin sâu chắc ở nơi mười điều nguyện rộng lớn này thọ trì đọc tụng, cho đến biên chép một bài kệ bốn câu, thì sớm có thể dứt trừ được năm nghiệp vô gián, cả thảy thân bệnh, tâm bệnh, khổ não trong thế gian, cho đến tất cả các ác nghiệp nhiều như số cực vi trong cõi Phật đều được tiêu trừ, tất cả các quân ma, qủi Dạ Xoa, Qủy La Sát, hoặc qủi Cưu Bàn Trà, Tỳ Xá Xà, Bộ Ða v.v.. các quỷ thần hung ác uống máu ăn thịt thảy đều lánh xa. Hoặc là có gần đến thì là hạng phát tâm theo hộ trì.

Vì thế nên nếu người trì tụng nguyện này, thì đi trong thế gian không bị chướng ngại, như mặt trăng giữa lừng ra khỏi mây mù, các đức Phật, Bồ Tát đều khen ngợi, tất cả hành Nhơn Thiên đều nên lễ kính, tất cả chúng sanh đều nên cúng dường. Người thiện nam tử này trọn được thân người, đầy đủ bao nhiêu công đức của ngài Phổ Hiền, chẳng bao lâu sẽ như Phổ Hiền Bồ Tát mau được thành tựu sắc thân vi diệu, đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, nếu sanh ở cõi người hay trời thì thường ở dòng cao qúy, trọn có thể phá hoại tất cả đường ác, trọn có thể xa lìa tất cả bạn dữ, trọn có thể chế phục tất cả ngoại đạo, trọn có thể giải thoát tất cả phiền não, như sư tử vương dẹp phục bầy thú. Kham lãnh thọ sự cúng dường của tất cả chúng sanh.

Lại người này lúc lâm chung, phút cuối cùng, tất cả căn thân đều hư hoại, tất cả thân thuộc đều phải bỏ lìa, tất cả oai thế đều bị thối thất, cho đến các quan phụ tướng đại thần, cung thành trong ngoài, voi ngựa xe cộ, trân bảo kho đụn v.v... tất cả đều không đem một món nào theo được. Chỉ có mười nguyện vương này chẳng rời người mà thôi. Trong tất cả thời gian nó thường ở trước dẫn đường, trong khoảnh khắc liền sanh về cõi Cực Lạc. Ðến Cực Lạc rồi liền thấy đức A Di Ðà Phật cùng các ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Quán Tự Tại Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, v.v... các vị Bồ Tát này sắc tướng đoan nghiêm, công đức đầy đủ chung cùng vây quanh. Lúc bấy giờ người ấy tự thấy mình gá sanh nơi hoa sen báu, được đức Phật xoa đầu thọ ký. Sau khi được thọ ký rồi, trải qua vô số trăm ngàn muôn ức na do tha kiếp, khắp cả mười phương bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới, dùng sức trí huệ tùy theo tâm của chúng sanh mà làm lợi ích. Chẳng bao lâu sẽ ngồi nơi Bồ Ðề đạo tràng hàng phục quân ma, thành bực Chánh Ðẳng Chánh Giác giảng nói pháp mầu vì diệu. Có thể làm cho chúng sanh trong những cõi Phật như số cực vi trần của chúng sanh mà dạy dỗ cho thành thục, nhẫn đến cùng tận kiếp hải, có thể làm lợi ích tất cả chúng sanh một cách rộng lớn.

Này thiện nam tử! Các chúng sanh kia hoặc nghe, hoặc tin nơi nguyện vương rộng lớn này, rồi thọ trì đọc tụng và giảng nói cho người nghe. Công đức của chúng sanh kia chỉ có đức Phật Thế Tôn biết, ngoài ra không ai hiểu thấu. Vì thế nên những người được nghe mười điều nguyện vương này chớ sanh lòng nghi ngờ, nên phải lãnh thọ, thọ rồi nên đọc, đọc rồi có thể tụng thuộc, tụng thuộc rồi nên gìn giữ luôn, cho đến biên chép vì người mà giảng nói. Những người như vậy, trong một niệm tất cả hạnh nguyện đều được thành tựu, được phước vô lượng vô biên. Có thể ở trong biển khổ phiền não cứu vớt chúng sanh, khiến chúng được giải thoát, đều được vãng sanh về thế giới Cực Lạc của đức Phật A Di Ðà.

Lúc bấy giờ, Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát muốn nói lại nghĩa ấy, Ngài quan sát khắp mười phương mà nói kệ rằng:



Tất cả chư Phật trong ba đời
Ở nơi thế giới khắp mười phương
Tôi đem thân ngữ ý trong sạch
Khắp lạy chư Phật không hề sót
Sức oai thần hạnh nguyện Phổ Hiền
Phân thân hiện khắp trước Như Lai
Một thân lại hiện sát trần thân
Mỗi thân lạy khắp sát trần Phật
Sát trần Phật ở trong một trần
Ðều ngồi giữa chúng hội Bồ Tát.
Vô tận pháp giới cũng như vậy
Sâu tin chư Phật đều đầy đủ,
Tôi đều dùng tất cả âm thinh.
Khắp thổ vô tận lời nói hay
Tột tất cả kiếp thưở vị lai
Khen công đức sâu dầy của Phật.
Sắm đồ rất đẹp: nào tràng hoa
Kỹ nhạc, hương, hoa cùng tàn lọng
Các thứ trang nghiêm đẹp như vậy
Tôi dùng cúng dường chư Như Lai.
Nào là y phục, các thứ hương:
Phấn hương, hương xông cùng đèn đuốc
Mỗi món đều như núi Tu Di
Tôi đem cúng dường các đức Phật.
Do nơi tâm thắng giải rộng lớn
Sâu tin tất cả Phật ba đời
Sức oai thần hạnh nguyện Phổ Hiền
Khắp đem cúng dường các đức Phật.
Từ xưa đã tạo nhiều nghiệp ác
Ðều do ba độc tham, sân si
Từ thân khẩu ý mà gây nên
Tất cả nay tôi đều sám hối.
Vô lương công đức của Chư Phật
Của Bồ Tát, Thinh Văn, Duyên Giác
Hữu học, vô học cùng chúng sanh
Tất cả nay tôi đều tùy hỷ.
Các đấng soi đời khắp mười phương
Vừa mới chứng nên đạo Chánh Giác
Tất cả nay tôi đều khuyến thỉnh
Chuyển xe chánh pháp diệu vô thượng.
Chư Phật nếu muốn nhập Niết Bàn
Tôi xin thành tâm đều mời thỉnh
Cúi mong ở lại lâu trong đời
Cho chúng sanh được nhờ lợi lạc.
Bao nhiêu phước đức bởi cúng dường
Ngợi khen, thỉnh pháp, mời trụ thế
Tuỳ hỷ, sám hối các căn lành
Hồi hướng, chúng sanh cùng Phật đạo.
Tôi nay theo học với Như Lai
Tu tập viên mãn hạnh Phổ Hiền
Cúng dường chư Phật về qúa khứ
Cùng với mười phương hiện tại Phật.
Vị lai tất cả Thiên Nhân Sư
Hết thảy tâm nguyện đều viên mãn
Nguyện theo học khắp ba đời Phật
Mau chứng nên qủa đại Bồ Ðề.
Cả thảy cõi cùng khắp mười phương
Rộng lớn thanh tịnh trang nghiêm đẹp
Chúng hội vây quanh các Như Lai
Ðều ở dưới cội Bồ Ðề thọ,
Bao nhiêu chúng sanh trong mười phương
Nguyện lìa lo khổ thường an lạc
Ðều được lợi ích chánh pháp mầu
Dứt hết phiền não không còn thừa.
Khi tôi vì Bồ Ðề mà tu
Trong các loài đều biết túc mạng
Thường được xuất gia tu tịnh giới
Không nhơ không lỗi cũng không hư.
Trời, Rồng, Dạ Xoa, Bàn Trà quỉ
Nhẫn đến loài Người cùng Phi Nhơn
Tất cả ngôn ngữ của chúng sanh
Ðều dùng các tiếng tăm nói pháp.
Siêng tu Ba La Mật trong sạch
Tâm Bồ Ðề hằng gìn không mất
Dứt trừ chướng nhơ không để thừa
Tất cả hạnh mầu đều thành tựu
Ở nơi các hoặc, nghiệp cảnh ma
Trong vòng thế gian được giải thoát
Cũng như hoa sen không dính nước
Nào khác Nhật, Nguyệt chẳng dừng không.
Dứt hết tất cả khổ ác đạo
Khắp đồng ban vui cho quần sanh
Như thế trải qua vô số kiếp
Lợi ích mười phương không cùng tận.
Tôi thường tùy thuận các chúng sanh
Cùng tận tất cả vị lai kiếp
Hằng tu hạnh lớn của Phổ Hiền
Viễn mãn qủa Bồ Ðề Vô Thượng.
Những người cùng tôi đồng một hạnh
Cầu tất cả chỗ chung nhóm họp
Thân khẩu ý nghiệp đều đồng nhau
Hết thảy hạnh nguyện cùng tu học
Các thiện tri thức lợi ích tôi
Vì tôi chỉ bày hạnh Phổ Hiền
Nguyện cùng tôi thường chung hội họp
Ðối với tôi lòng luôn hoan hỷ.
Nguyện thường diện kiến các Như Lai
Và hàng Phật tử vây quanh Phật
Tôi đều sửa sang cúng dường lớn
Tột thưở vị lai không nhàm mỏi.
Nguyện gìn pháp mầu của Như Lai
Rõ bày cả thảy hạnh Bồ Ðề
Rốt ráo thanh tịnh hạnh Phổ Hiền
Trọn kiếp vị lai thường tu tập.
Tôi ở trong tất cả các cõi
Tu phước vô tận, trí vô tận
Ðịnh, huệ, phương tiện và giải thoát
Ðược những tạng vô tận công đức.
Trong một trần có trần số cõi
Mỗi mỗi cõi có nan tư Phật
Mỗi mỗi Phật ở giữa chúng hội
Tôi thấy hằng giảng hạnh Bồ Ðề.
Khắp hết mười phương các cõi nước
Mỗi đầu lông đủ có ba đời
Phật cùng quốc độ số vô lượng
Tôi khắp tu hành trải trần kiếp.
Lời của Như Lai đều thanh tịnh
Một lời đủ cả các âm thinh
Theo tiếng chúng sanh lòng ưa thích
Biện tài của Phật đều ban khắp.
Tất cả chư Phật trong ba đời
Dùng những ngữ ngôn vô tận kia
Hằng chuyển pháp mầu rất lý thú
Nhờ trí sâu tôi đều lãnh thọ.
Tôi hay thâm nhập đời vị lai
Tất cả kiếp thâu làm một niệm
Hết thảy những kiếp trong ba đời
Làm khoảng một niệm tôi đều nhập,
Trong một niệm tôi thấy ba đời
Tất cả các đấng Nhơn Sư Tử
Cũng thường vào trong cảnh giới Phật
Như huyễn, giải thoát và oai lực.
Trong các cực vi đầu sợi lông
Xuất hiện cõi trang nghiêm ba thuở
Mười phương trần sát các đầu lông
Tôi đều thâm nhập để nghiêm tịnh.
Vị lai các đấng Chiếu Thể Ðăng
Thành đạo chuyển pháp độ chúng sanh
Phật sự xong xuôi hiện nhập diệt
Tôi đều đến gần để hầu hạ.
Sức thần thông rộng khắp chóng mau
Sức phổ môn khắp nhập Ðại Thừa
Sức trí hạnh khắp tu công đức
Sức oai thần từ bi khắp che
Sức phước trang nghiêm khắp thanh tịnh
Sức trị huệ không trước không trệ
Sức định, huệ, phương tiện, oai thần
Sức khắp hay chứa đạo Bồ Ðề
Sức thanh tịnh tất cả nghiệp lành
Sức xô dẹp tất cả phiền não
Sức hàng phục tất cả loài ma
Sức viễn mãn các hạnh Phổ Hiền.
Khắp hay nghiêm tịnh các cõi nước
Giải thoát cho hết thảy chúng sanh
Khéo hay phân biệt các pháp mầu
Có thể sâu vào biển trí huệ
Khắp tu thanh tịnh các công hạnh
Các chí nguyện thảy đều viên mãn
Gần gũi cúng dường các đức Phật
Tu hành vô lượng kiếp không mỏi
Tất cả Như Lai trong ba đời
Những hạnh nguyện bồ đề tối thắng
Tôi đều cúng dường tu tập đủ
Dùng hạnh Phổ Hiền ngộ Bồ Ðề.
Tất cả Như Lai có trưởng tử
Danh hiệu Ngài là đức Phổ Hiền
Tôi nay hồi hướng các căn lành
Nguyện các trí hạnh đều đồng đó.
Nguyện thân, khẩu, ý hằng thanh tịnh
Công hạnh cõi nước cùng sạch trong
Trí huệ ấy gọi rằng Phổ Hiền
Nguyện tôi cùng Ngài đề đồng đẳng.
Vì khắp thanh tịnh hạnh Phổ Hiền
Các nguyện lớn của Văn Thù Sư Lợi
Trọn sự nghiệp kia không thừa sót
Ðến kiếp vị lai hằng không mỏi,
Tôi tu các hạnh đều vô lượng
Ðược các công đức cũng không lường
An trụ trong những hạnh vô lượng
Suốt thấu tất cả sức thần thông,
Sức trí mạnh mẽ các Văn Thù
Huệ hạnh Phổ Hiền cũng dường ấy
Tôi nay hồi hướng các căn lành
Thường theo các Ngài mà tu học.
Chư Phật ba đời luôn khen ngợi
Những nguyện rộng lớn khó sánh bằng
Tôi nay hồi hướng các căn lành
Ðể được Phổ Hiền hạnh thù thắng.
Nguyện tôi lúc mạng sắp lâm chung
Trừ hết tất cả các chướng ngại
Tận mặt gặp Phật A Di Ðà
Liền được vãng sanh cõi Cực Lạc,
Tôi đã vãng sanh cõi kia rồi
Hiện tiền thành tựu nguyện lớn này
Cả thảy tròn đủ không thừa thiếu
Lợi lạc tất cả các chúng sanh.
Chúng hội Di Ðà đều thanh tịnh
Tôi từ hoa sen nở sinh ra
Thân thấy đức Phật Vô Lượng Quang
Liền thọ ký tôi đạo Bồ Ðề.
Nhờ đức Phật kia thọ ký rồi
Tôi hóa vô số vạn ức thân
Trí huệ rộng lớn khắp mười phương
Khắp lợi tất cả chúng sanh giới.
Nhẫn đến hư không thế giới tận
Chúng sanh, nghiệp và phiền não tận
Nhưng bốn pháp ấy không cùng tận
Nguyện tôi rốt ráo hằng vô tận
Cõi nước vô biên khắp mười phương
Trang nghiêm các báu cúng dường Phật
Sắm đồ an lạc thí trời người
Trải kiếp vi trần luôn cúng thí,
Nếu có người nơi nguyện vương này
Một phen nghe liền sanh tín kính
Mong cầu khát ngưỡng qủa Bồ Ðề
Ðược công đức nhiều hơn tài thí.
Nhờ đây thường xa các bạn ác
Thoát khỏi tất cả ba đường dữ
Mau thấy đức Phật Vô Lượng Quang.
Ðầy đủ nguyện Phổ Hiền tối thắng.
Người này được thọ mạng lâu dài
Trong loài người ở bậc tôn qúy
Người nay không lâu sẽ trọn nên
Công hạnh như Phổ Hiền Bồ Tát.
Ngày trước đó vì không trí huệ
Tạo ra năm nghiệp vô gián ác
Chuyên tụng nguyện vương Phổ Hiền này
Tất cả tội ác mau tiêu diệt.
Sanh ra dòng họ cùng dung sắc
Tướng tốt, trí huệ đều đầy đủ
Các ma, ngoại đạo không phá được
Kham làm phước điền cho ba cõi.
Mau đến cội Bồ Ðề thọ vương
Ngồi an hàng phục các chúng ma
Thành đạo Chánh Giác nói pháp mầu
Khắp lợi tất cả các hàm thức
Nếu người ở nơi mười nguyện này
Ðọc, tụng, thọ trì và diễn nói
Qủa báo chỉ Phật mới biết được
Quyết định sẽ được đạo Bồ Ðề.
Nếu người tụng nguyện Phổ Hiền này
Tôi nói chút ít phần căn lành:
Trong một niệm thảy đều viên mãn
Thành tựu chúng sanh nguyện thanh tịnh.
Hạnh Phổ Hiền thù thắng của tôi
Phước lớn vô biên đều hồi hướng
Khắp nguyện chúng sanh đang chìm đắm
Mau sanh cõi Phật Vô Lượng Quang.


Lúc ngài Phổ Hiền đại Bồ Tát ở trước đức Như Lai nói bài kệ hạnh nguyện thanh tịnh rộng lớn rồi. Thiện Tài đồng tử vui mừng vô lượng, các Bồ Tát cùng đều hoan hỷ, đức Như Lai khen rằng: "Lành thay! Lành thay!".

Bấy giờ, lúc đức Thế Tôn cùng hàng Thánh Chúng đại Bồ Tát diễn nói pháp môn thù thắng cảnh giới giải thoát bất khả tư nghì như vậy, ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát làm bậc thượng thủ trong các vị đại Bồ Tát và sáu ngàn thầy Tỳ Kheo của Ngài giáo hóa. Ðức Di Lặc Bồ Tát làm thượng thủ trong các vị đại Bồ Tát ở Hiền Kiếp. Ðức Vô Cấu Phổ Hiền Bồ Tát đứng đầu các bậc nhất sanh trụ quán đảnh vị Bồ Tát, cùng các vị Ðại Bồ Tát đông như số vi trần trong các thế giới ở mười phương khắp đồng đến nhóm hội. Trong hàng đại Thanh Văn thì có ngài Ðại Trí Xá Lợi Phất, ngài Ðại Mục Kiền Liên v.v...làm thượng thủ. Cùng những hàng Trời, Người, các bậc chúa tể trong đời, Bát Bộ, Thiên Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Dà, Nhơn, Phi Nhơn, v.v..tất cả đại chúng nghe Phật thuyết pháp đều rất vui mừng, đồng tín thọ phụng hành.

Comments

Popular posts from this blog