BỔN-THÂN
NGÀI PHỔ-HIỀN BỒ-TÁT
77. 南nam 無mô 阿a 利rị 耶da
______________________________
化hóa 身thân 普phổ 賢hiền 徧biến 三tam 千thiên
Transforming and appearing as Universal Worthy who pervades all worlds.
跏già 趺phu 座tòa 上thượng 法pháp 無vô 邊biên
He is seated in full lotus and ready with boundless Dharmas.
百bách 寶bảo 輪luân 掌chưởng 破phá 地địa 獄ngục
His hundred-jeweled, wheeled palm smashes the hells.
阿a 彌di 陀đà 佛Phật 住trụ 西tây 天thiên
Amitabha Buddha is the Venerable Host of the Western Paradise.
PHỔ HIỀN BỒ TÁT
(Theo kinh Bi Hoa, Bồ Tát khi xưa là Thái Tử Vẫn Đồ, con thứ tám của Vua Luân Vương, thời đức Phật Bảo Tạng. Sau Khi Thái Tử đối trước Phật phát đại nguyện, liền được đổi tên là Phổ Hiền và được thọ ký về sau thành Phật hiệu là Trí Cang Hầu Tự Tại Tướng Vương ở thế giới Trí Thủy Thiện Trụ Tịnh Công Đức nơi phương Bắc. Lại theo Kinh Hoa Nghiêm, Bồ Tát đã là vị tả phụ của Phật Tỳ Lô Giá
Na mà còn dùng mười đại nguyện vương khuyến dẫn hải chúng Bồ Tát trong cõi Hoa Tạng đồng về Cực Lạc. Chúng ta là kẻ hạ phàm há chẳng phát nguyện làm theo ư?)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Khi Phổ Hiền Bồ Tát khen ngợi công đức thù thắng của Như Lai rồi,
liền bảo các Bồ Tát và ngài Thiện Tài rằng: “Nếu muốn thành tựu công đức ấy, phải
tu mười điều hạnh nguyện rộng lớn.
1.- Kính lễ chư Phật
2.- Khen ngợi Như Lai
3.- Rộng tu sự cúng dường
4.- Sám hối nghiệp chướng
5.- Tùy hỷ các công đức
6.- Thỉnh Phật chuyển pháp luân
7.- Thỉnh Phật trụ ở đời
8.- Thường theo Phật tu học
9.- Hằng thuận các chúng sanh
10.- Hồi hướng khắp tất cả.
Nếu có người nào dùng lòng tin sâu, thọ trì đọc tụng đại nguyện này, cho
đến biên chép bốn câu kệ, sẽ được mau tiêu trừ tội ngũ vô gián. Khi người ấy
lâm chung, trong khoảng sát na rốt sau, tất cả các căn thảy đều tan hoại, chỉ
có đại nguyện này không rời bỏ nhau, liền được sanh về thế giới Cực Lạc”.
Kinh Như Lai Bất Tư Nghì Cảnh Giới nói: “Nếu có người vì cầu đạo vô thượng Bồ Ðề, ở trong một việc chuyên
tâm tu tập, tất sẽ được thành tựu. Ví như có người uống một bụm nước ở biển cả,
tức là đã uống tất cả nước sông trong cõi Diêm Phù Đề. Nếu Bồ Tát có thể tu tập môn Niệm Phật Bồ
Ðề hải này, tức là đã tu tập tất cả tam muội, các nhẫn, các địa, các đà la ni”.
ĐẠI HẠNH PHỔ HIỀN BỒ TÁT
Giữa pháp hội Hoa Nghiêm, trước vi trần
số đại Bồ Tát cùng chúng đại Thanh Văn và vô lượng nhơn,
thiên, bát bộ, dưới sự chủ tọa chứng minh của Đức Bổn Sư Thế
Tôn. Phổ Hiền Bồ Tát khi ca tụng công đức của Phật
xong, ngài nói với đại chúng và Thiện Tài đồng tử rằng :
“Này các Ngài ! Nếu người nào muốn thành tựu công đức của Phật, phải
tu mười môn hạnh nguyện rộng lớn : một là “lễ kính chư Phật”, hai là
“xưng tán Như Lai”, ba là “quảng tu cúng dường”, bốn là “sám hối nghiệp chướng”,
năm là “tùy hỷ công đức”, sáu là “thỉnh chuyển pháp luân”, bảy là “thỉnh Phật
trụ thế”. Tám là “thường tùy Phật học”, chín là “hằng thuận chúng sanh”, mười
là “phổ giai hồi hướng”.
Nếu các vị Bồ Tát tùy thuận vào nơi mười đại
nguyện này, thời có thể thành thục tất cả chúng sanh, thời
có thể tùy thuận Vô thượng Chánh giác và có thể thành
tựu hoàn mãn các hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát.
Hoặc lại có người thâm tín mười đại
nguyện này, rồi thọ trì đọc tụng, nhẫn đến biên chép cùng giảng
nói cho mọi người, người này sẽ được vãng sanh Cực Lạc. Đến giờ lâm
chung căn thân đều hư hoại; thân thuộc, danh vị, quyền thế, tiền
tài v.v... tất cả đều bỏ lìa, duy có đại nguyện này không rời người.
Trong một sát na, nó dẫn đạo cho người sanh về Cực Lạc thế
giới, liền được thấy Đức A Di Đà Phật, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ
Hiền Bồ Tát, Quán Tự Tại Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát v.v... Người ấy tự
thấy mình sanh trong hoa sen báu, được Đức Phật thọ ký. Được thọ
ký rồi, từ đó đến vô số trăm nghìn muôn ức na-do-tha kiếp, người
dùng trí huệ tùy thuận tâm tánh của chúng
sanh trong vô lượng vô số thế giới của mười
phương mà làm cho được lợi ích. Không bao lâu người ấy sẽ ngồi đạo
tràng Bồ-đề, hàng phục quân ma thành bậc Vô thượng Chánh
giác, chuyển đại pháp luân, nhẫn đến làm lợi ích cho tất cả chúng
sanh cùng tận thuở vị lai...
Kế đó ngài xướng kệ rằng :
Nguyện tôi đến lúc mạng sắp
chết
Trừ hết tất cả những chướng
ngại
Diện kiến Đức Phật A
Di Đà
Liền được vãng
sanh nước Cực Lạc
Tôi đã vãng
sanh Cực Lạc rồi
Hiện tiền thành tựu đại
nguyện này
Viên mãn tất cả không
còn thừa
Lợi lạc hết thảy chúng
sanh giới
Chúng hội của Phật đều thanh
tịnh
Tôi liền thác
sanh trong hoa sen
Nhìn thấy Như
Lai Vô Lượng Quang
Hiện tiền thọ ký
tôi thành Phật
Được đức Như
Lai thọ ký rồi
Hóa vô số trăm câu
chi thân
Trí lực rộng lớn khắp mười
phương
Lợi khắp tất cả chúng
sanh giới.
Và sau cùng, Phổ Hiền Bồ Tát kết thời thuyết
pháp ấy bằng bài kệ hồi hướng công đức, nguyện cho mọi loài đồng
về Cực Lạc.
Thắng hạnh Phổ Hiền của
tôi đây
Thắng phước vô
biên đều hồi hướng
Nguyện cho những chúng
sanh trôi chìm
Mau sanh cõi Vô Lượng
Quang Phật.
Bồ Tát dứt lời Đức Bổn Sư liền khen rằng
: “Thiện tai ! Thiện tai !”
Trích Hoa Nghiêm Kinh Hạnh Nguyện phẩm.
LỜI PHỤ. – Pháp hội Hoa Nghiêm, một pháp hội lớn nhứt và viên mãn nhứt trong một đời ứng thế của Đức Bổn Sư. Phổ Hiền, vị đại Bồ Tát thượng thủ của pháp hội này. Chúng hội là những bậc Đại thừa viên giáo, trụ bất tư nghị giải thoát cảnh giới.
Đức Phổ Hiền tự nguyện, và dẫn đạo toàn thể chúng hội đồng nguyện cùng về Cực Lạc thế giới để mau viên mãn phước huệ, chóng chứng quả Vô thượng Bồ-đề, và chỉ có cứu cánh Phật quả mới độ sanh được viên mãn rốt ráo.
Do đây thấy rằng, Cực Lạc thế giới là một đại học đường bảo đảm mau thành Phật, nên chư vị đại Bồ Tát mới đồng nguyện cùng về như vậy.
ĐỨC PHỔ HIỀN DẠY TU NIỆM PHẬT TAM MUỘI
Thuật theo Kinh :
“Như Lai Bất Tư Nghị Cảnh Giới”
... Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nhập
vào chánh định “Như Lai bất tư nghị cảnh giới”. Phổ Hiền Bồ Tát nói với Đức Tạng Bồ
Tát rằng : “Nếu ai phát Bồ-đề tâm muốn chứng chánh định này,
trước phải tu trí huệ. Vì chánh định này do trí huệ mà
đặng.
Đây là tu trí huệ : Phải xa lìa vọng
ngôn ỷ ngữ và những sự tán loạn vô ích. Rồi đến Phật
điện, xem tượng Phật thuần vàng, hay tượng Phật thếp vàng,
đủ các tướng tốt cùng viên quang hóa Phật. Liền cúi đầu đảnh lễ mà suy
nghĩ như vầy : “Tôi nghe Đức A Di Đà hiện tại đương thuyết
pháp ở Tây phương Cực Lạc thế giới”. Rồi lòng tôn
kính tin mến, tưởng hình tượng ấy là thân thiệt của Đức Phật. Hết
lòng kính ngưỡng như Đức Phật hiện đến. Rồi nhứt
tâm nhìn kỹ từ trên đảnh tướng đến dưới bàn chân.
Nhìn xong, đi qua chỗ vắng vẻ ngồi ngay thẳng, quán
tưởng Đức Phật hiện ra cao lớn chừng một tay. Trong tâm phải khắn
nhớ luôn chớ để quên mất. Nếu tạm quên, thời đến Phật điện mà chăm nhìn
lại. Lúc nhìn xem như
vậy, lòng phải hết sức cung kính như đối Phật thiệt, không để
có quan niệm là hình tượng.
Rồi sắm hoa đẹp, hương thơm dâng cúng. Nhứt tâm tưởng là Đức Phật ở
trước mình. Và nghĩ rằng : Đức Phật Thế Tôn là bậc Nhứt thiết
trí, ngài thấy tất cả, nghe tất cả, chắc ngài biết rõ tâm mình.
Khi quán tưởng thành, liền trở về chỗ
vắng, ngồi tưởng nhớ mãi không quên. Nhứt tâm siêng tu đủ 21 ngày, nếu
là người phước đức thời bèn thấy Đức Như Lai hiện ra.
Hoặc là người đời trước có gây tạo ác nghiệp mà
chẳng đặng thấy Phật nếu có thể chuyên cần tu tập không
thoái tâm và không móng tưởng việc khác, thời rồi lại mau được thấy Phật.
Vì rằng nếu ai cầu Vô thượng Bồ-đề mà chuyên tu một
pháp thời đều thành tựu cả. Như người uống một ngụm nước biển,
tức là đã được nếm nước của tất cả con sông trong đại địa. Bồ
Tát nếu có thể tu tập pháp môn này, thời là đã tu tất cả Tam
muội, các nhẫn, các địa, các môn đà-la-ni. Vì thế, phải nên thường
siêng tu tập, chớ có biếng trễ, chớ nên phóng dật, nhứt
tâm tưởng niệm cho được hiện tiền thấy Phật.
Lúc được thấy Phật, lại nên nhận biết là tâm
tưởng sanh, là duy tâm hiện, bình đẳng không sai khác.
Tâm mình làm tâm Phật, rời tâm không Phật. Nhẫn đến thập
phương chư Phật cũng vậy, đều chỉ y tự tâm. Bồ Tát nếu
có thể thấu rõ chư Phật và tất cả pháp đều là duy tâm, thời đặng chứng tùy
thuận nhẫn hoặc nhập sơ địa. Lúc lâm chung được sanh về Cực Lạc Tịnh
Độ, thường được thấy Phật, gần Phật, nghe pháp và cúng dường Phật.
LỜI PHỤ. – Pháp môn niệm Phật có bốn :
1.- Thật tướng niệm Phật;
2.- Quán tưởng niệm Phật;
3.- Quán tượng niệm Phật;
4.- Trì danh niệm Phật.
Một môn Thật tướng niệm Phật thuộc về lý niệm. Ba môn dưới thuộc về sự niệm gồm cả lý niệm.
Bài trên, Phổ Hiền Bồ Tát dạy quán tượng trước, kế tưởng niệm. Và sau cùng, khi quán hạnh đã thành, tấn niệm thật tướng, tức là duy tâm bình đẳng. Đây là trước thành tựu sự Tam muội, sau chứng lý niệm Phật Tam muội.
Ở Tiểu Bổn Kinh, Đức Bổn Sư dạy môn Trì danh niệm Phật. Chấp trì danh hiệu đến nhứt tâm bất loạn là được sự niệm Phật Tam muội, đạt “niệm tức vô niệm” là chứng lý Tam muội. Kết quả đồng bậc với môn quán hạnh trên. Nhưng nơi dụng công tu tập thời môn trì danh có phần giản tiện hơn. “Giản”, là vì hồng danh có sáu chữ hay bốn chữ dễ nhớ rõ không phải nhiều như các tướng hảo khó nhớ. “Tiện” là vì có thể được nghe hồng danh bất cứ ở chỗ nào và lúc nào, không phải cứ nơi Phật điện
và phải thật sáng như quán tượng. Vả lại trì danh, niệm thầm cũng được, niệm ra tiếng cũng được. Nhờ niệm ra tiếng, nên có thể thực hành ở nơi ồn ào. Chớ quán tưởng quyết phải ở nơi vắng lặng.
Vì các lẽ trên, nên môn quán hạnh phải là bậc thượng trí mới chắc thành tựu. Còn môn trì danh có thể thích hợp với tất cả mọi hạng người, và bất cứ ai, nếu chuyên tâm thiết thiệt thực hành đều thành tựu được cả. Chúng ta sẽ được thấy sự chứng nghiệm trong những tiểu sử của các nhà niệm Phật ở quyển sau.
Như lời Bồ Tát dạy : “Nếu ai cầu Vô thượng Bồ-đề, mà chuyên tu một pháp thời đều thành tựu cả”. Thế là vì muốn thành Phật để độ sanh mà chuyên niệm Phật vậy.
Nếu ta muốn thành công nơi Pháp môn niệm Phật, nghĩa là muốn chứng Tam muội vãng sanh Cực Lạc, tất phải tuân theo lời dạy của Bồ Tát :
1.- “Lập chí cầu thành Phật”
2.- “Chuyên cần tu niệm Phật”.
53.- PHỔ HIỀN ĐẠI BỒ TÁT
dạy THIỆN TÀI về “HẠNH-NGUYỆN”
để thành tựu hạnh PHỔ-HIỀN và NHẬP PHÁP GIỚI được viên mãn.
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
Ngày 12 tháng 5 năm 1991
KINH: Thiện Tài muốn thấy Phổ Hiền Bồ
Tát…
GIẢNG: Cũng như chúng ta muốn thấy đức
A Di Đà vậy, tất cả vấn đề là ở chỗ đó, là khởi tâm muốn thấy. Mà khi thấy được
đức A Di Đà là con đường đi của chúng ta gần như xong, không còn gì phải lo
lắng cả. Vì khi thấy được đức A Di Đà là đương nhiên chúng ta được sang Cực
Lạc. Mà khi sang được bên ấy thì chúng ta sẽ có những tam muội, các định và có
năm thứ thần thông, thân thì có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, được đắc vô sanh nhẫn
và lần tu lên nữa để đi đến quả Phật.
Con đường tu của chúng ta ở cõi Ta Bà
này bập bềnh lên xuống, có thể thời gian này tinh tấn, qua một thời gian khác
lại thối thất, giải đãi. Nhưng nếu được vãng sanh thì không còn bao giờ thối
thất cả, đến khi đắc được vô sanh pháp nhẫn thì không còn lo lắng nữa, đủ chứng
tỏ con đường tịnh độ thù thắng đến thế nào. Ngay cả những vị đã đắc A La Hán
rồi cũng còn thối thất, vì các ngài tu một thời gian thấy đường tu chông gai,
cần khổ, khó khăn quá, chúng sanh lại bời bời, biết đến bao giờ mới độ cho hết,
nên có thể thối chí, mà chỉ muốn đắm mình vào nhưng cơn định trầm không thú
tịch mà không muốn khởi đại bi tâm.
HỎI: Xin ông dạy cho phương pháp niệm
thế nào cho… chóng được việc để qua được Cực Lạc?
ĐÁP: Thành thực mà nói, tôi không dám
dạy cách niệm Phật sao cho có hiệu quả, vì mỗi người mỗi căn cơ khác nhau, nên
cách niệm cũng có khác đôi chút. Nhưng với những vị căn cơ cao, đạo hạnh nhiều,
tu hành giỏi, thường họ chỉ rằng, khi niệm cần phải đều đặn và nhất tâm, khi
niệm Phật đừng nghĩ điều gì khắc hết, làm thế nào để câu niệm Phật sáng tỏ mãi
trong tâm chúng ta, vừa rõ ràng, vừa ý thức rằng mình đang niệm, đến khi nhất
tâm bất loạn, không có gì ngoại cảnh có thể lay động được. Người xưa, có nhiều
vị làm quan tài để giữa nhà, khi niệm Phật thì chui vào đó, và coi như mình đã
chết rồi thì mới dễ nhất tâm được. Nhưng đến mức độ này rất khó, ở đời mạt pháp
này, tôi trộm nghĩ ít ai có thể làm được.
Tôi cứ hoài vọng muốn nói về chín phẩm
sen bên Cực Lạc cho quí vị thấy rất hay và rất lạ, để biết rằng pháp môn Tịnh
Độ là một pháp môn tối thắng, không thể nào bịa đặt ra được. Những người nào
không tin đều là người chưa đủ căn cơ, vì tôi vẫn nói, tuy trong ban kinh này,
có vài vị không đọc kinh nhưng tin vào pháp môn Tịnh Độ thì người đó căn cơ đã
sâu rồi, vì pháp môn này khó tin lắm! Lấy một thí dụ điển hình, bên Cực Lạc, người
được hóa sanh từ hoa sen, chúng ta chưa thấy ai sanh từ một loài hoa ra cả, chỉ
thấy người sanh ra người, thú sanh ra thú thôi, nên rất khó tin.
HỎI: Trong các kinh có một số người
nói rằng, có một số kinh liễu nghĩa, (như kinh của Phật giáo nguyên thủy) có
thể tin được, và một số kinh bất liễu nghĩa (như những pho kinh Đại thừa) không
thể tin được mà chỉ toàn là chuyện mê tín dị đoan? Vì vậy, họ không chịu đọc
tụng kinh điển bất liễu nghĩa ấy. Theo ông, ông nghĩ sao về điều này?
ĐÁP: Như vậy họ chưa hiểu thế nào là
liễu nghĩa, và bất liễu nghĩa. Kinh liễu nghĩa là những kinh nói đến cỗi nguồn
là Diệu Tâm (đại thừa), còn những kinh bất liễu nghĩa là những kinh của Thanh
Văn (của hàng Nhị thừa), vì kinh của Tiểu Thừa không nói tới cỗi nguồn của pháp
giới, và chỉ đưa người tu đến Niết Bàn hóa thành thôi, chưa thể nhập được pháp
giới trọn vẹn. Chưa chứng được trí của Phật, chưa phân thân bời bời vô lượng,
trụ vô số kiếp để độ sanh. Còn chuyện tin được hay không tin được kinh Đại Thừa
lại phải tùy vào căn cơ của người nghe nữa. Trong Công Giáo có nói một câu cũng
rất lý thú: “Sung sướng thay cho những người nào không thấy mà tin.” Khi thấy
rồi thì tin rất dễ, nhưng chúng ta không trông thấy pháp giới, không nhìn thấy
chư Thiên, quỉ thần, chư Phật, chư Đại Bồ Tát mà tin được thì đó là điều hy hữu
hiếm có. Nên phải hiểu lòng tin cần phải nuôi nhiều kiếp mới có thể nở ra
như vậy.
Thực tâm tôi, tôi muốn bỏ ra một vài
buổi giảng để giảng kỹ cho quí vị nghe về Tịnh Độ, vì đó là điều quan yếu cho
ta ở thời mạt pháp này. Tôi cố thể trích dẫn những câu kinh khuyến tấn chúng
sanh cầu sanh về Tịnh Độ. Không có người nào tu hành muốn đắc vô sanh pháp nhẫn
mà không phải đi qua Tịnh Độ, dù người tu thiền. Vì ở cõi uế độ này, tu thiền
giỏi lắm là chỉ ở các mức độ dưới thôi, khi nào lên đến Viễn Hành Địa, địa
thứ bảy, Viễn hành tức là đi xa, đi đâu? Là qua Tịnh Độ để ở gần Phật đắc vô
sanh pháp nhẫn rồi mới trở lại cõi này để độ sanh. Dụ như người muốn
cứu một kẻ chết đuối phải đi học bơi đã, rồi trở về mới làm được hạnh cứu
người, người thường không ai có thể qua được mức Viễn hành địa cả, trừ phi phải
sang Cực Lạc (trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thập địa nói rõ thế!).
Ngay đến những vị A La Hán, tiêu dung
được những kiết sử của tam độc, lúc bấy giờ không thọ sanh trong ba cõi thôi,
nên tạm gọi là vào Niết Bàn, nhưng cái vào Niết Bàn ấy chỉ là hóa thành. Lúc
bấy giờ, chư Phật sẽ như những con chim Kim Súy Điểu bay tới, xòe cánh dơ vuốt
gắp các ngài mang sang Tịnh Độ. Nhưng vì các ngài chưa có tâm tin Tịnh Độ nên
phải ngồi trong hoa sen ở Biên Địa, rồi trong suốt nhiều kiếp, chư Phật soi hào
quang vào đó để đánh thức tuệ giác vô thượng, (vì các ngài chưa biết cầu thành
Phật), cho đến khi chín mùi, lúc đó tâm thức các ngài mới khởi
tâm bước sang bồ tát đạo đi nốt con đường còn lại để thành Phật, nhập pháp giới
trọn vẹn, tức là vào Niết Bàn thường, lạc, ngã, tịnh của Chư Phật.
KINH: Thiện Tài muốn thấy Phổ Hiền Bồ
Tát, liền ở trước tòa sư tử của Tỳ Lô Giá Na Như Lai nơi Kim
Cang Tạng Bồ Đề Tràng, trên tòa bửu liên hoa tạng phát tâm rộng lớn như hư
không giới…
GIẢNG: Khi Thiện Tài muốn đi tìm ngài
Phổ Hiền Bồ Tát thì phải trở về chỗ cũ bồ đề đạo tràng, trở về chỗ đức Như Lai
ngồi, tức là phải trở về tâm của mình.
KINH: khởi tâm vô ngại bỏ tất cả cõi,
rời tất cả chấp…
GIẢNG: Thiện Tài muốn thấy một vị Bồ
Tát lớn thì phải mở tâm rộng lớn như hư không giới vậy, vì chính Bồ Tát lớn là…
hư không, vì khi mở tâm lớn phải bỏ tất cả các cõi, rời tất cả các
chấp (bát nhã), ý niệm nào cũng phải rời bỏ cả.
KINH: Tâm vô ngại đi trong tất cả pháp
vô ngại. Tâm vô ngại vào khắp tất cả thập phương. Tâm thanh tịnh vào cảnh giới
của nhất thiết trí…
GIẢNG: Đây là nói tâm phải mở rộng lớn
như hư không mà đi vào không hải. Nhưng sau đây lại nói đi vào diệu hữu…
KINH: Tâm minh liễu quán sát đạo tràng
trang nghiêm. Tâm quảng đại nhập tất cả Phật pháp hải. Tâm châu biến hóa độ tất
cả chúng sanh giới. Tâm vô lượng tịnh tất cả Phật độ. Tâm vô tận trụ tất cả
kiếp. Tâm cứu cánh xu hướng Như Lai thập lực…
GIẢNG: Trên ngài nói đi vào hư không
giới, dưới này ngài nói đi vào tất cả các pháp. Tuy rằng đi vào hư không nhưng
đồng thời vẫn phải có cái tâm minh liễu quán sát đạo tràng trang nghiêm, tâm
quảng đại nhập tất cả phật pháp hải, tâm châu biến, đi khắp tất cả mọi chỗ để
hóa độ tất cả chúng sanh giới. Vì ngài Phổ Hiền tượng trưng cho Chân không,
Diệu hữu. Khi ta nhập được vào tâm đó rồi thì tức khắc ngài hiện ra cho chúng
ta thấy ngay, tức là phải có tâm tương ưng, là tâm có tín, nguyện, hạnh.
Nên khi Thiện Tài khát mong muốn thấy
Phổ Hiền Bồ Tát thì phải làm tâm mình lặn sâu xuống đến tột không, đồng thời
khởi lên tất cả cảnh giới của diệu hữu.
KINH: Lúc Thiện Tài phát khởi những
tâm như vậy, do sức thiện căn của mình, được sức gia hộ của tất cả Như Lai, do
sức đồng thiện căn của Phổ Hiền Bồ Tát…
GIẢNG: Khi Thiện Tài càng cố gắng lặn
sâu vào tam muội để trở về biển diệu tâm đó thì chư Phật đều hộ trì, đồng thời
tâm thức ngày càng tương ưng với thiện căn của ngài Phổ Hiền. Nên phải hiểu tất
cả vấn đề chỉ ở chỗ tương ưng. Cũng như khi tâm ta chỉ tương ưng với loài quỉ,
hay loài chồn, hồ ly thì tụi nó lại hiện ra, khi tương ưng với loài người thì
loài người hiện ra. Ở đây, chúng ta tương ưng với loài người nên chung quanh nhìn
thấy toàn là người cả, loài quỉ cũng ít hiện ra cho chúng ta thấy, còn thần
linh thì không bao giờ hiện cả, vì tâm các ngài bao la hơn, mà tâm chúng ta chỉ
có nửa thiện, nửa ác lăng nhăng của loài người, không có gì gọi là siêu xuất
cả, nên chỉ chơi với người, rồi sau sanh kiến chấp chỉ có người thôi, mà không
có những chúng sanh khác. Vì vậy, nên chúng ta không biết rằng có những người
ngồi tu trong rừng sâu, có thể nói chuyện với thú dữ, chim nuông, cỏ hoa, ngay
cả với thần linh, và đó là những vị có tâm thức cao.
Sức “tưởng” rất lớn
mạnh, tỷ dụ như một người trong nhiều kiếp hay sợ ma, có cơ duyên cũ với nó,
khi thời tiết chín mùi thì túc duyên cũ hiện lên, nếu đó là những nợ cũ thì nó
thanh toán đòi nợ. Như ngài Miralepa sức tưởng của ngài rất mạnh, ngài có thần
thông nhiều, một hôm đến một khu núi hẻo lánh, ngài chỉ nghĩ bụng rằng, ở đây
phải có quỷ khoáng dã. Thì lập tức quỷ khoáng dã hiện ra ngay, nó đứng co ro
trước mặt ngài mãi, cuối cùng ngài nói: “Sao ngươi không đi đi?” “Con
không thể đi được vì sức tưởng của ngài lớn quá, như có sợi dây trói con lại
làm con không ẩn thân nổi.” Tất cả đạo Phật thường dạy chúng ta về chữ
tưởng, tưởng cái gì thì nó ra cái đó, tưởng lâu dần, có định lực, và cái lực đó
nó có thể làm hiện lên những cảnh giới. Tưởng uế độ thì vào uế độ, tưởng vãng
sanh Cực Lạc thì được sang Cực Lạc. Nên tất cả thế gian này đều là do mộng
tưởng. Như ta lấy một người vợ đó là vì từ nhiều kiếp ta có những cơ duyên cũ,
hoặc nuôi cái mộng tưởng ấy. Như trong kinh Phật cũng kể một vài trường hợp như
ngài A Nan và bà Ma Đăng Già, cơ duyên nhiều kiếp, mộng tưởng nhiều kiếp đến
kiếp này mới nở ra như thế. Một trường hợp khác như ngài Mê Già và vị nữ nhân
cho hoa trong Kinh Đại Bửu Tích, không phải khơi khơi ngài gặp vị nữ nhân ấy
đâu, mà do từ nhiều kiếp huân tập, đến kiếp đó nở ra nên vị nữ nhân ấy mới cho
hoa đi cúng Phật.
KINH: Do sức đồng thiện căn của Phổ
Hiền Bồ Tát…
GIẢNG: Trong kinh Pháp Hoa, ngài Phổ
Hiền nói người nào tụng danh hiệu của ta và quán tưởng đến ta thì ta sẽ hiện
thân trước người ấy. Hiện ra dưới hình thức voi sáu ngà, và tùy theo nguyện của
người đó để giúp và độ cho họ. Tất cả điều này đều là những luật tắc tác động
và phản tác động, nhưng tâm thức chúng ta chưa tới mức độ đó.
KINH: Nên Thiện Tài thấy mười thứ
thoại tướng, như là…
GIẢNG: Khi Thiện Tài quán để được thấy
ngài Phổ Hiền Bồ Tát thì lúc đó hiện lên mười thoại tướng…
KINH: Thấy tất cả phật độ thanh tịnh,
tất cả Như Lai thành Đẳng Chánh Giác. Thấy tất cả phật độ thanh tịnh không ác
đạo. Thấy tất cả phật độ thanh tịnh nghiêm sức với những diệu liên hoa. Thấy
tất cả phật độ thanh tịnh, tất cả chúng sanh thân tâm thanh tịnh. Thấy tất cả
phật độ thanh tịnh, trang nghiêm với những châu bửu. Thấy tất cả phật độ thanh
tịnh, tất cả chúng sanh tướng tốt trang nghiêm thân…
GIẢNG: Khi Thiện Tài quán lâu đến một
mức độ thì tâm rơi vào biển không hư, thấy tất cả những quốc độ đều chỉ là hư
không, vì đều là hóa hiện, như thấy phật sát thanh tịnh không có gì vẩn đục.
KINH: …(Bỏ một đoạn)… Thiện Tài lại thấy
mười tướng quang minh như là: Thấy bao nhiêu vi trần của tất cả thế giới, trong
mỗi mỗi vi trần xuất sanh tất cả thế giới vi trần số phật sát quang minh võng
vân chiếu sáng khắp nơi.
GIẢNG: Những quang minh ấy biến
hiện. “Quang minh võng vân” là mây lưới sáng hiện lên bời bời,
trông chỗ nào cũng như lưới quang minh, trùng trùng lớp lớp.
KINH: Trong mỗi mỗi vi trần xuất sanh
tất cả thế giới vi trần số Phật quang minh luân vân nhiều thứ sắc tướng cùng
khắp pháp giới.
GIẢNG: “Luân vân” là
những đám mây xoay tròn.
Tôi đã giảng nhiều lần ở đây về sự
xoáy trôn ốc của pháp giới này, hôm nay tôi xin nhắc lại. Tất cả những chuyển
động trong pháp giới này có thể xoay theo hai chiều, một là hữu nhiễu (hiện
tướng), hai là tả nhiễu, (rơi chìm vào biển chân không). Như
cái hố thẳm đen (black hole), các nhà khoa học chưa hiểu rõ
ràng về nó, chỉ biết các vật chung quanh nó bị hút vào đấy và mất tích luôn,
không có một vật gì có thể cưỡng lại được với sức hút của nó. Nhưng nếu dựa
theo kinh, tôi thiển nghĩ rằng đó là những cái hố hay nút xoáy không luân cuốn
hút vật chất tiêu chìm trở về hư không, và chắc là nó xoay theo lối tả nhiễu.
Nên trong kinh luôn luôn dùng chữ “luân,” là những cơn lốc
xoáy tròn, mà không có gì đi thẳng cả. Đường thẳng là một ảo tưởng của tâm
thức, mà tất cả phải xoáy tròn, như chúng ta vẫn xoáy tròn liên tục mà không hề
hay biết.
Trở lại đoạn kinh trên, Thiện Tài thấy
những màng lưới kết lại, trong màng lưới có những đám mây sáng xoáy tròn.
KINH: Trong mỗi vi trần xuất sanh tất
cả thế giới vi trần số Phật sắc tượng bửu vân cùng khắp pháp giới.
GIẢNG: Khi đám mây xoáy tròn lâu thì
những đám mây trân bửu ấy hiện lên sắc thân Phật cùng khắp pháp giới.
KINH: Trong mỗi mỗi vi trần xuất sanh
tất cả thế giới vi trần số phật quang diệm luân vân cùng khắp pháp giới.
GIẢNG: Cũng là những đám mây xoay tròn
để hiện tướng.
KINH: Trong mỗi mỗi vi trần xuất sanh
tất cả thế giới vi trần số những diệu hương vân cùng khắp mười phương khen ngợi
tất cả hạnh nguyện đại công đức hải của Phổ Hiền.
GIẢNG: Câu này chúng ta phải hiểu rằng
những đám mây xoay vần rồi phát ra những mùi hương rất thơm, đồng thời mùi
hương đó phát ra những âm thanh ca ngợi tất cả những hạnh nguyện cùng biển công
đức của ngài Phổ Hiền. Cũng như trong kinh Lăng Nghiêm nói trong tiếng động
phát ra quang minh, quang minh hiện thành sắc tướng, sắc tướng thành ra mùi
hương, dần dần hiện tướng như thế, thì ở đây là những lưới quang minh xoay
tròn, đầu tiên hiện những sắc tướng Phật, rồi hiện ra những hương vân, sau đó
phát ra âm thanh.
KINH: Trong mỗi mỗi vi trần xuất sanh
tất cả thế giới vi trần số nhựt nguyệt tinh tú vân, đều phóng quang minh của
Phổ Hiền Bồ Tát chiếu khắp pháp giới.
GIẢNG: Kinh tả dần dần hiện tướng ngày
càng rõ rệt, vì trong những quang minh vân ấy bắt đầu hiện lên các mặt trời,
mặt trăng, tinh tú. Như vậy là một hoa tạng thế giới bắt đầu xuất hiện trước
mắt Thiện Tài, có nghĩa rằng, Thiện Tài đang trôi dần vào biển pháp giới, để có
thể nhập pháp giới trọn vẹn.
KINH: Trong mỗi mỗi vi trần xuât sanh
tất cả thế giới vi trần số tất cả chúng sanh thân sắc tượng vân phóng phật
quang minh chiếu khắp pháp giới.
GIẢNG: Trên kia nói thành tựu thế gian
tức là “Khí thế giới,” tạm gọi là vô tình, như thấy nhật,
nguyệt, tinh tú v.v… Còn đây là nói đến những loài hữu tình, các chúng sanh. Mà
tất cả đều do những đám mây quang minh tạo thành. Vì vậy tôi vẫn thường nói
rằng, giáo lý nhà Phật là giáo lý của những quang minh và diệu âm, của những
bông hoa tạng thế giới lúc nở ra, rồi cụp lại. Mà nếu chúng ta cứ suy tư lâu
ngày rồi thấm và tin chắc chắn, thì đức A Di Đà thế nào cũng phải cứu độ chúng
ta.
KINH: Trong mỗi mỗi vi trần xuất sanh
tất cả thế giới vi trần số Bồ Tát thân sắc tượng vân.
GIẢNG: Trên kia là Phật sắc tượng, lúc
đầu còn là những lưới mây xoay tròn, dần dần hiện mùi hương, sắc, âm thanh, rồi
đến nhật nguyệt, tinh tú, rồi đến những chúng sanh hữu tình, rồi đến các Phật
sắc tướng, rồi đến đây là hiện thân các vị Bồ Tát sắc tướng. Như vậy, trước mắt
Thiện Tài pháp giới bắt đầu xuất hiện lại tuần tự rất rõ. Đó là bước thứ hai,
nay chúng ta qua bước thứ ba…
KINH: Thiện Tài thấy mười thứ quang
minh này rồi, nghĩ rằng nay tôi sẽ được thấy Phổ Hiền Bồ Tát thêm lớn thiện
căn.
GIẢNG: Chúng ta nên biết rằng, khi gặp
một vị có đạo hạnh cao, chỉ cần nhìn thấy ngài thôi là thiện căn của ta tự dưng
tăng trựởng, còn nếu khởi tâm cung kính cúng dường vị đó thì thiện căn càng
thêm lớn. Vì vậy, những người tu học ngày xưa, chỉ cần gặp Phật là đắc quả, bởi
vì thiện căn của họ đã chín nên chỉ thêm một giọt nước là tràn ly.
HỎI: Còn gặp vị Lạt Ma bên Tây Tạng
thì sao?
ĐÁP: Tôi cũng không biết chắc ngài đến
bực nào, nhưng dân Tây Tạng coi vị Đạt Ma là một hóa thân của đức Quán Thế Ảm
Bồ Tát. Nhưng cũng phải còn tùy thiện căn của người gặp nữa, nếu ta không có
thiện căn, tâm không tương ưng, thì dù có gặp cũng không cảm thấy gì, ngược
lại, nếu tâm thức của người gặp đã chín thì lại khác.
KINH: Thiện Tài thấy mười thứ quang
minh nầy rồi, nghĩ rằng: Nay tôi sẽ được thấy Phổ Hiền Bồ Tát thêm lớn thiện
căn. Thấy tất cả Phật, nơi tất cả Bồ Tát sanh tri giải quyết định, được
nhất thiết trí.
Thiện Tài nhiếp khắp thiện căn, nhứt
tâm cầu thấy Phổ Hiền Bồ Tát, khởi đại tinh tấn tâm không thối chuyển, liền
dùng phổ nhãn quán sát mười phương tất cả chư Phật và chúng Bồ Tát. Bao nhiêu
cảnh giới đã thấy đều tưởng là được thây Phổ Hiền Bồ Tát.
GIẢNG: Thiện Tài tập trung tâm thức,
nhất tâm quán chiếu nên thấy cảnh giới nào Thiện Tài cũng tưởng như thấy ngài
Phổ Hiền vậy. Cũng vậy, khi chúng ta tập quán đức A Di Đà, thì đi đến đâu, bất
cứ thấy cảnh giới nào cũng đều tưởng nhớ đến ngài, dù là trên xe bus, hay ngoài
phố cũng đều thấy đức A Di Đà, thì lúc đó thế nào Phật A Di Đà cũng sẽ hiện lên
cho chúng ta thấy. Trong kinh Hoa Nghiêm, có một đoạn ngài Văn Thù dạy
rằng, “Muốn tìm cầu thiện trí thức phải dũng mãnh tự tại du hành tất cả
các nơi, tìm cầu vị thiện tri thức, thứ hai là gặp cảnh giới nào cũng phải quán
chiếu là thấy vị thiện tri thức, thứ ba là phải coi thân mình như mộng, như
huyễn.” Giữ được tâm như thế thì lúc đó ta đã đến một mức quyết định
khá kiên cố rồi.
KINH: Dùng trí huệ nhân quán sát Phổ
Hiền đạo, tâm quảng đại dường như hư không, đại bi kiên cố như Kim Cang. Nguyện
tận vị lai thường được theo Phổ Hiền hạnh, thành tựu trí huệ, nhập Như Lai
cảnh, trụ Phổ Hiền địa. Bấy giờ Thiện Tài đồng tử liền thấy Phổ Hiền Bồ Tát ở
trong chúng hội trước đức Như Lai…
GIẢNG: Trước thì thấy tất cả pháp giới
hào quang chập chùng lần lượt hiện tướng như thế nào, bây giờ mới thấy ngài Phổ
Hiền, vì tất cả những thân vân, mùi hương, lưới chập chùng của quang minh v.v…
đều là thân y báo ngài Phồ Hiền, sau cùng mới đến chánh báo của ngài.
KINH: Bấy giờ Thiện Tài đồng tử liền
thấy Phổ Hiền Bồ Tát ở trong chúng hội trước đức Như Lai, ngồi tòa sư tử Bửu
Liên Hoa, chúng Bồ Tát vây quanh rất là tôn nghiêm, thế gian không sánh được,
cảnh giới trí huệ vô lượng vô biên khó lường khó nghĩ, đồng tam thế Phật, tất
cả Bồ Tát không quán sát được.
GIẢNG: Thiện Tài nhìn thấy tất cả pháp
giới chính là thân không thân của ngài Phổ Hiền, và đến giờ phút này mới được
nhìn rõ báo thân của ngài ngồi ngay trong Bồ Đề Đạo Tràng. Tức là từ trước
Thiện Tài nhìn tất cả pháp giới rộng lớn, bây giờ thu lại thành một báo thân
thị hiện ngồi đạo tràng ấy, có nghĩa là nhìn từ một cái thật lớn nay thu nhỏ
lại thành một báo thân. Và bây giờ, Thiện Tài nhìn Thấy trong lỗ chân lông của
ngài lại nở lớn ra cả trăm ngàn thế giới. Có nghĩa là cái lớn, nhỏ tự tại vô
ngại dung thông với nhau.
KINH: Thấy thân Phổ Hiền mỗi mỗi lỗ
lông xuất sanh tất cả thế giới vi trần số quang minh vân, khắp pháp giới tất cả
chúng sanh khổ hoạn, khiến các Bồ Tát sanh đại hoan hỷ. Thấy mỗi mỗi lỗ lông
xuất sanh tất cả phật sát vi trần số những sắc hương diệm vân, khắp pháp giới
hư không giới tất cả chư Phật chúng hội đạo tràng để huân tập tất cả. Thấy mỗí
mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật sát vi trần số tạp hoa vân, khắp pháp giới hư
không giới tất cả chư Phật chúng hội đạo tràng mưa những diệu hoa. Thấy mỗi mỗi
lỗ lông xuất sanh tất cả phật sát vi trần số hương thọ vân, khắp pháp giới hư
không giới tất cả chư Phật chúng hội đạo tràng mưa những diệu hương. Thấy mỗi
mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả Phật sát vi trần số diệu y vân, khắp pháp giới hư
không giới chư Phật chúng hội đạo tràng mưa những diệu y…
GIẢNG: Thiện Tài nhìn từ một khía cạnh
hết sức bao quát cả một thế giới rồi dần dần thu nhỏ lại nhìn thấy báo thân của
ngài Phổ Hiền sau đó lại thấy trong tất cả lỗ chân lông của ngài lại nở ra trùm
tất cả pháp giới. Tức là từ lớn thu vào nhỏ, từ nhỏ nở ra lớn như một bông hoa,
lúc nở ra bao trùm pháp giới, lúc thu lại trong một lỗ lông, ở đây, Thiện Tài
thấy các lỗ lông của ngài Phổ Hiền xuất sanh tất cả các sắc hương diệu vân, sau
đó xuất sanh các tạp hoa vân, mưa những diệu hoa, rồi xuất sanh tất cả những vi
trần số hương thọ vân (mùi hương từ những áng mây), rồi diệu y
vân (áo bằng mây vi diệu)…
KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh
tất cả phật sát vi trần số bửu thọ vân, khắp pháp giới hư không giới tất cả chư
Phật chúng hội đạo tràng ma ni bửu. Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật
sát vi trần số sắc giới thiên thân vân sung mãn pháp giới khen ngợi bồ đề tâm.
GIẢNG: “Thiên thân vân” là
những áng mây trong đó cuộn lại thành hình chư Thiên. Các chư thiên hiện ra
khen ngợi bồ đề tâm.
KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh
tất cả phật sát vi trần số Phạm Thiên thân vân, khuyến thỉnh chư Như Lai chuyển
diệu pháp luân.
GIẢNG: Trong những lỗ lông ấy xuất sanh
các vị Phạm Thiên, là những vị vua trời coi tầng trời sơ thiền. Các vị vua trời
ấy đều khuyến thĩnh chư Như Lai chuyển diệu pháp luân.
KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh
tất cả phật sát vi trần số dục giới thiên vương thân vân, hộ trì pháp luân của tất
cả Như Lai.
GIẢNG: Vì vậy, tôi hay thường nhắc
rằng, có các vị Thiên Vương hộ pháp mà chỗ nào có người đọc tụng kinh và thành
khẩn, giới hạnh tinh nghiêm thì các vị cũng đến nghe và hộ trì cho.
KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ lông trong mỗi
niệm xuất sanh tất cả phật sát vi trần số tam thế phật sát vân…
GIẢNG: “Phật sát vân” là
những đám mây sinh ra những cõi Phật, như cõi Ta Bà chúng ta chẳng hạn, trong
đây là những đám mây xoay tròn hiện lên thế giới này.
KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ lông trong mỗi
niệm xuất sanh tất cả phật sát vi trần số tịnh, bất tịnh phật sát vân…
GIẢNG: Tức là có những đám mây hiện
rất nhiều cõi, từ những cõi tịnh đến những cõi bất tịnh.
KINH: Khắp pháp giới hư không giới
khiến tạp nhiễm chúng sanh đều được thanh tịnh.
GIẢNG: “Tạp nhiễm chúng sanh” chính
là chúng ta, nên các ngài phải tạo ra những cõi tịnh và bất tịnh để dạy chúng
ta đi từ cõi bất tịnh (tạp nhiễm) sang đến cõi tịnh. Trong
kinh không có lúc nào không nhắc nhở chúng ta nhớ đến Tịnh Độ, nếu chúng ta
không tin thì đó là cô phụ chính chúng ta vậy.
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
Ngày 26 tháng 5 năm 1991
Hôm nay là buổi thuyết
giảng thứ một trăm hai mươi tám về kinh Hoa Nghiêm và cũng là buổi thuyết giảng
thứ mười lăm về Đại Bát Nhã tại chùa này.
Trước hết tôi xin thông
báo là đã nhận được một bức thư từ Việt Nam viết sang nói rằng chùa Vạn Đức,
chùa mà Thượng Tọa Thích Trí Tịnh đang trụ trì, đã nhận được ba trăm đô la của
Ban Hoa Nghiêm chúng ta gửi rồi.
Chúng ta sinh nhằm thời
mạt pháp này. Thời chánh pháp thường kéo dài một ngàn năm trong khi đức Phật
còn sinh thời, nhưng đức Phật Thích Ca chỉ có năm trăm năm chánh pháp thôi. Sau
đó là đến kỳ của chúng ta.
Kinh thường nói rằng,
trong thời chánh pháp, căn cơ người tu rất cao và nhà Phật gọi đó là giải thoát
kiên cố, tức là những vị tu thời ấu căn cơ cao, và lúc nào cũng hướng đến giải
thoát, không chịu ngừng ở giữa đường, vì thế được gọi là “giải thoát
kiên cố.” Kiên cố tức là vững chắc không gì lay
chuyển nỗi. Vì vậy, kinh thường kể, có những vị đến nghe đức Phật giảng pháp lý
vi diệu thì nhiều khi chỉ cần nghe một buổi kinh, hoặc hơn thế nữa, chỉ cần
nghe một câu Phật dạy là đắc quả ngay. Sang đến thời tượng pháp, tức là thời kỳ
khoảng độ vài trăm năm sau tây lịch, thời này căn cơ người tu đã kém đi ít
nhiều, nên không còn được gọi là giải thoát kiên cố nữa mà gọi
là thiền định kiên cố. Tức là những vị này có tu tập, có thiền định, nhưng
thường họ chỉ dừng chân trong thiền định để hướng sự an lạc trong ấy mà không
muốn khởi tâm đi lên nữa. Nên các ngài có thể có được định lực nhưng không tới
được giải thoát, đồng thời chỉ hưởng cái trầm không thú tịch thôi. Đúng như
thời kỳ bên Tàu nở ra những phái thiền, và thiền đốn ngộ. Chừng khoảng một ngàn
năm gần đây, đã bước qua thời kỳ mạt pháp. Thời mạt pháp này kéo dài suốt thời
kỳ kiếp giảm, tức còn rất lâu. Trong thời kỳ này, căn cơ người
tu rất kém, phần nhiều cầu quả hữu lậu, đi chùa, lễ lạy lấy phước, ít chịu tụng
kinh và nghe pháp, nên thường không hiểu giáo lý nhà Phật như thế nào. Trong
thời mạt pháp, đức Phật huyền ký đó là thời đấu tranh kiên cố, giỏi lắm là chỉ
đến đa văn kiên cố, và tăng, ni thường hay phạm giới, nhiều khi không có thời
công phu và chỉ thích làm chùa đẹp, thật to, kinh gọi là tháp tự kiên cố.
Trong thời đấu tranh
này, lúc nào chúng sanh cũng chạy theo vật, luôn luôn thích bạo động, còn người
tu tại gia khá nhất chỉ đến mức đa văn kiên cố thôi, tức là cũng chịu khó dọc
kinh sách Phật giáo, nhưng không tu tập gì mấy, giới thì không giữ nổi bao nhiêu,
lại không thiền định, phần nhiều chỉ đa văn thôi, hiểu kinh mà không thấu nghĩa
lắm, hành trì lại kém. Còn người xuất gia thường chỉ thích làm chùa to, trong
đó có một vị sư nhỏ, lúc nào cũng bận bịu những việc thế sự, nên phần tâm linh
có phần lơ là không ít. Sở dĩ tôi nói như thế chỉ là vì muốn nhắc rằng chúng ta
ngày nay thường phải chọn lựa để tu theo pháp môn nào hợp với căn cơ của mình.
Như ở Việt Nam trong thời Lý, Trần, dân chúng tu theo thiền định nhiều, và kèm
theo tụng chú. Nhưng sau đó khoảng mấy trăm năm, họ lại chuyển sang tịnh độ và
tham bác thêm tụng chú.
Nhân thể mới đây, có một
vài phong trào thiền khuyên ngươi ta không nên tụng kinh và nên bỏ bàn thờ, vì
vậy tôi xin đọc cho quí vị nghe một đoạn luận ngắn. Đoạn luận ngày xưa này nói
rõ rằng, ngay tới những vị A La Hán, là những vị chỉ thuần tu thiền định mà rồi
về sau cũng phải sang tịnh độ. Tôi vẫn thường nói trong ban kinh này, cửa ải
Cực Lạc là một cửa ải ai cũng phải đi qua, dù là đi con đường nào cũng phải qua
đó để có thể lên được vô sanh pháp nhẫn, sau đó mới sẽ thành Phật. Như trong
kinh Hoa Nghiêm có nói rõ rằng có những thế giới tịnh, bất tịnh, thế giới diệu,
thế giới uế v.v…, mà tu hành chính là để vượt khỏi thế giới uế này để sang thế
giới tịnh rồi mới có thể lên cao được. Lên xong rồi lại trở về thế giới uế để
độ sanh.
Nhưng từ xưa đến nay,
chưa có một người nào nói rằng các vị A La Hán rồi cũng phải sang Cực Lạc cả.
Nên hôm nay, tôi muốn đọc cho quý vị nghe đoạn đó. Ngày xưa, khi Phật còn tại
thế, ngài dạy cho các bậc Thanh Văn chỉ một phần rất nhỏ, ngài chỉ nói rằng các
vị Thanh Văn vào Niết Bàn như củi hết, lửa tắt. Nhưng không nói các vị ấy đi
đâu sau khi bỏ báo thân máu thịt này. Và trong kinh Pháp Hoa nói rõ đó chỉ là
Niết Bàn hóa thành thôi.
Vậy thì các vị Thanh Văn
sau khi bỏ báo thân này thì sẽ đi đâu? Và “củi hết, lửa tắt” có
ý nghĩa gì?
Củi hết là tam độc tham, sân, si của các ngài đã hết. Mầm mống
sinh tử không còn, vì thế không phải bị thọ sanh phân đoạn sanh tử, tuy vào một
nơi vắng lặng tạm gọi là Niết Bàn, nhưng không phải là Đại Niết Bàn Tịch lĩnh
của Chư Phật. Vì các ngài còn rất nhiều những biến dịch sanh tử, và các vị độn
căn A La Hán, không hiểu được Diệu Tâm và không chịu tu lên nữa. Nhưng không vì
thế mà có một nơi để các vị ngồi chơi mãi trong ấy, vì vận hành của pháp giới
này bao giờ cũng là phải trở về Diệu Tâm và Nhập pháp giới trọn vẹn. Nhưng đức
Phật đôi với các vị Thanh Văn sinh thời, ngài cũng không nói rõ, mãi đến khi
ngài giảng Pháp Hoa mới nói đó chỉ là Niết Bàn hóa thành mà thôi, rồi ở thời
kỳ Hoa Nghiêm ngài mới nói rõ đến việc “Nhập pháp giới.”
Nay, tôi xin đọc cho quý
vị nghe một đoạn luận nói rằng tất cả các vị A La Hán, sau khi bỏ báo thân, đều
được đức Phật đưa qua biên địa bên Cực Lạc, ngồi trong hoa sen báu được chư
Phật phóng hào quang, gột rửa những ám độn, để có thể phát Tuệ Giác Vô Thượng,
sau đó mới phát bồ đề tâm, vào bồ tát đạo đi đến Phật quả.
Sỡ dĩ tôi phải tìm tòi
từng đoạn kinh, đoạn luận đem ra nói để cho quý vị thêm tín căn sâu chắc về con
đường Tịnh độ, vì đó là con đường giải thoát rốt ráo trong thời mạt pháp này.
Đây là một đoạn luận do
ngài Narada, một vị tu theo Nam Tông, trích dẫn trong
cuốn “Đức Phật và Phật Pháp” trang 595. Đây chỉ là một đoạn luận
nhưng ý kiến rất hợp với giáo lý đại thừa. Và khẳng định rằng tất cả những
người tu hành, dù muốn hay không cũng phải sang Cực Lạc, mới đắc được Vô Sanh
Pháp Nhẫn (Đệ bát địa Bồ Tát).
ĐOẠN LUẬN: Những vị đại
đệ tử Thanh Văn đã chứng ngộ hai hạng tuệ giác là Thanh Văn Giác, và Độc Giác,
trong khi còn và sau khi thân ngũ uẩn chấm dứt, vẫn còn tâm sợ sệt…
GIẢNG: Nghĩa là trong
khi còn thân này, vào hữu dư niết bàn, và sau khi mất thân này vào vô dư niết
bàn, thì vẫn còn tâm sợ sệt, vì tam độc chưa tẩy sạch những tập khí cũ.
LUẬN: Bởi vì các ngài
chưa đạt được đại bi và trí huệ cao thượng.
GIẢNG: Tức là các ngài
mới chỉ có tâm từ bi thường, và trí huệ bát nhã theo lối Thanh Văn, nên tâm vẫn
còn rung động, đôi khi còn sợ sệt.
LUẬN: Do sự chấm dứt
sinh lực…
GIẢNG: Chúng ta sở dĩ
thọ sanh làm người hoặc các loài chúng sanh hữu tình khác là do trong tâm chúng
ta có nhiều kiết sử, nhiều tham, sân, si khiến chúng ta phải đi thọ sanh. Nhưng
các vị A La Hán đã diệt hết mầm mống tham sân si rồi nên dứt được phân đoạn
sanh tử, không phải mang thân máu thịt này, không phải thọ sanh làm người hay
làm chư Thiên v.v… Nhưng tình trạng này chỉ tạm gọi là vào Niết Bàn Hóa Thành
thôi, vì khi chấm dứt mầm mống ấy, là chỉ chấm dứt được phân đoạn sanh tử, mà
chưa chấm dứt được biến dịch sanh tử.
LUẬN: Tạo nên bởi những
năng lực trong quá khứ, các ngài có thể đắc niết bàn, tuy nhiên trong thực tế,
các vị thánh tiểu thừa chỉ thành tựu một cái gì mường lượng như niết bàn gọi là
Niết Bàn, giống như ánh sáng b| dập tắt.
GIẢNG: Cũng như hồi nãy
tôi nói đến chữ “củi hết, lứa tắt” Củi hết là thân phân đoạn
sanh tử không còn, như ánh sáng bị dập tắt.
LUẬN: Không còn trở lại
tam giới nữa…
GIẢNG: Tức là không trở
lại trong dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Nhưng phải trở lại những cõi khác
vi diệu hơn.
LUẬN: Nhưng sau kiếp
sống trần gian này chư vị A La Hán sẽ tái sanh vào cõi thanh tịnh nhất, trong
cảnh giời hoàn toàn tinh khiết, ở trong một trạng thái xuất thần nhập hóa, mơ
mơ màng màng bên trong những cánh hoa sen…
GIẢNG: Chư Phật đưa các
vị A La Hán sang Biên Địa, nằm trong hoa sen xuất thần nhập hóa mơ mơ màng màng.
LUẬN: Sau đó đức Phật A
Di Đà cũng như các vị Phật khác giống như vầng thái dương đã đem các ngài lên
gột rửa, cho trí huệ được trong sáng, từ đó chư vị A La Hán tận lực tiến đến
giác ngộ tối thượng và mặc dầu đã đạt được trạng thái giải thoát (tức
là giải thoát tiểu thừa), các ngài hoạt động trong thế gian hữu vi
cũng giống như các ngài đi xuống địa ngục. Rồi tích trữ dần dần yếu tố cần
thiết của đạo quả Chánh Đẳng Chánh Giác, các ngài trở thành đạo sư của tất cả
chúng sanh.
GIẢNG: Đó là hết đoạn
luận. Đây là điểm từ xưa không ai nói tới, mà bên Nam Tông không ai biết đến
Tịnh Độ cả. Còn bên Đại Thừa thì có những người chê bai Tịnh Độ. Nhưng trong
các kinh như Hoa Nghiêm, Quán Vô Lượng Thọ v.v… đều khuyến tấn người cầu vãng
sanh Tịnh Độ.
Tôi dám nói chắc rằng ở
thời mạt pháp và trong cõi uế độ này không ai có thể tu tự lực mà đắc được vô
sanh pháp nhẫn, phải cầu sang Tịnh Độ mới có thể lên đến mức độ ấy. Mà vô sanh
pháp nhẫn chỉ mới là đệ bát địa, phải đi thêm bốn bậc nữa mới lên đến Phật quả.
Tiếp theo đây là đoạn
kinh của Hoa Nghiêm, phẩm thập địa, nói rằng khi một vị Bồ Tát tu hành lên đến
đệ thất địa, Viễn Hành Địa. Viễn hành là đi xa, tức là đi từ cõi uế sang cõi
tịnh thì gọi là “đi xa,” sau đó lại trở về cõi uế để độ sanh.
Từ sơ địa đến đệ thất
địa, các vị Bồ Tát tu lục độ, nhưng tu với cái tâm hữu công dụng, nghĩa là nghĩ
rằng có mình làm, có người thọ dụng và có quả đắc. Nhưng bắt đầu đến địa thứ
bảy trở lên, các ngài vẫn tu lục ba la mật nhưng với tâm vô công dụng hạnh, làm
mà như mình không làm vậy, độ chúng sanh, đồng thời cũng quán chiếu thấy người
độ và kẻ được độ cũng là không, rồi cái hành vi độ cũng không. Và bắt đầu từ
đây, các ngài mới vào chỗ biến hóa không cùng, vi diệu hết sức. Khi tới chỗ này
rồi thì phải “đi xa,” vượt từ cõi uế sang cõi tịnh để đắc vô sanh pháp nhẫn,
được pháp thân Bồ tát, được thân không phải thai sanh, lúc đó sẽ trở lại cõi uế
độ độ sanh.
Tôi xin trích một đoạn
trong Hoa Nghiêm, trang 334 cuốn số bốn.
KINH: Chư Phật tử, ví
như có hai thế giới, một thời tạp nhiễm, một thời thuần tịnh.
GIẢNG: Pháp giới này
chia làm hai, một phần là thế giới thanh tịnh, và một phần là uế độ (như
cõi Ta Bà của chúng ta).
KINH: Chặng giữa của hai
thế giới này khó qua được.
GIẢNG: Từ cõi uế chuyển
sang được cõi tịnh rất khó qua.
KINH: Chỉ trừ bậc đại Bồ
Tát có đại thần thông phương tiện huệ. Chư Phật tử, Bồ Tát ở các địa cũng như
vậy, có tạp nhiễm hạnh, có thanh tịnh hạnh, chăng giữa của hai hạnh này khó qua
được, chỉ trừ đại Bồ Tát có đại nguyện lực phương tiện trí huệ mới có thể
qua được. Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát hỏi: Thưa Phật tử, bảy địa Bồ Tát này là
nhiễm hạnh hay tịnh hạnh?
GIẢNG: Bảy địa Bồ Tát là
từ sơ địa đến thất địa.
KINH: Kim Cang Tạng Bồ
Tát nói, thưa Phật tử, từ sơ địa đến đệ thất địa công hạnh tu tập đều lìa bỏ
nghiệp phiền não, vì hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề vì phần được đạo bình đẳng,
nhưng chưa được gọi là hạnh siêu phiền não. Chư Phật Tử, như Chuyển Luân Thánh
Vương, ngự tượng bửu du hành tứ thiên hạ, biết có người bần cùng khốn khổ mà
không bị lấy những họa hoạn đó, nhưng chưa được gọi là siêu nhân loại. Nếu bỏ
thân Chuyển Luân Vương sanh lên trời Phạm Thiên, ngự Thiên Cung thấy ngàn thế
giới, du hành ngàn thế giới, thị hiện quang minh oai đức của Phạm Thiên mới gọi
là siêu nhân loại.
GIẢNG: Trong đoạn kinh
này ý nói rằng, Bồ Tát tu từ sơ địa đến đệ thất địa chưa phải là pháp thân Bồ
Tát, khi nào thân không còn thi trùng, bệnh tật nữa, thân thọ sanh theo ý muốn,
không cần phải gá vào người đàn bà thì mới gọi là pháp thân Bồ Tát. Muốn có
thân ấy cũng cần phải sang Tịnh Độ, nên trong kinh mới nói có hai thế giới, một
thời tạp nhiễm, như tam giới của chúng ta – (lục giới, sắc giới, vô sắc giới —
thì phải sang bên cõi tịnh độ mới gọi là siêu nhân loại được. Vậy có đại thần
thông phương tiện nguyện lực là phải hiểu lòng đại bi của Chư Phật, hiểu rằng
Bồ Tát càng lên cao bao nhiêu càng phải gần Phật mới có thể gột nổi vô minh vi
tế cuối cùng. Vì trong kinh nói có những vị Bồ Tát đệ thập địa chỉ còn một, hai
phần vô minh vi tế cuối cùng cũng không thể gột nổi mà phải gần Phật mới gột
sạch được. Ở tịnh dộ khác với uế độ một điểm là luôn luôn được thấy Phật, được
gần Phật, còn ở uế độ thì Phật thị hiện xuất sanh khó như hoa Ưu Đàm, bao nhiêu
kiếp mới được gặp Phật một lần, và chưa chắc gì chúng ta có được đủ thiện duyên
sanh nhằm vào thời kỳ Phật thị hiện thọ sanh.
Nhân thể, tôi cũng muốn
nhắc lại một đoạn kinh khác trong Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh, do ngài Quán Thế Âm
nói, (tôi không mang theo cuốn kinh ấy đi hôm nay). Ngài nói
rằng, từ kiếp lâu xa trước ở cõi đó, ngài được gặp đức Thiên Quang Vương Tịnh
Trụ Như Lai nói bài chú Đại Bi này, lúc bấy giờ ngài mới ở sơ địa, sau khi ngài
nghe xong bài chú ấy thì ngài vượt không biết bao nhiêu kiếp sanh tử (tức là
biến dịch sanh tử) lên đệ bát địa, rồi lừ đó đến nay, ngài luôn luôn ở
những cõi Phật, sanh trong hoa sen, và hóa thân bời bời để độ sanh. Nói như thế
để cho quí vị thấy rằng, người tu hành phải biết rõ về vấn đề biến dịch sanh
tử, muốn diệt trừ biến dịch sanh tử ấy thì phải sang Tịnh Độ mà không có một
cách nào khác.
Vì vậy, tôi lấy làm
thương sót cho những vị nào vì quá say mê thiền mà bài bác Tịnh Độ. Say mê
thiền là quyền của mình, nhưng không nên bài xích Tịnh Độ, vì pháp môn tịnh độ
là chính kim khẩu của chư Phật nói ra. Có vị dùng luận lý thế gian, dùng vọng
thức thô kệch của mình, chứng minh rằng con đường Tịnh Độ là một con đường đưa
đến dị đoan, mê tín, lại còn tuyên bố rằng, đi theo con đường Tịnh Độ là những
người ngu, điều này làm hoang mang cho nhiều người đang tu Tịnh Độ, nhẫn đến có
nhiều vị bỏ ngang không tu theo pháp môn Tịnh Độ nữa. Chính vì vậy, chúng ta
cần phải lên tiếng, vì chúng ta phần đông căn cơ chỉ có thể tu theo pháp môn
ấy. Thiền chỉ là một cái “mode” cho giới trẻ còn say mê, muốn
lao vào một cuộc phiêu lưu kỳ thú, hay thực tế hơn, thì đó là một môn thể thao
tinh thần, tìm một chút an lạc, một chút khỏe khoắn, một chút… thời thượng, mà
không đưa chúng ta tới một bến bờ giải thoát nào. Muốn đạt được sự giải thoát,
phải đi vào thiền kiến tánh thực sự, nhưng căn cơ người đời nay không đủ để đi
theo pháp môn ấy, nhất là những người già. Cộng thêm những vị đại đạo sư rất
hiếm hôi. Nhiều người đời này đi cầu đạo như những con thiêu thân, thấy ngọn
lửa nào có vẻ lấp lánh, quyến rũ là lao vào, cũng có thể họ có được một điều gì
nho nhỏ, nhưng ngược lại cũng có thể họ sẽ bị đốt cháy trong ngọn lửa ấy. Tôi
thấy những người Phật tử đi cầu đạo thường rơi vào trong trường hợp này rất
nhiều, kiến thức về kinh thì mù mịt, không rõ được chân, giả, vị thầy nào cũng
thấy dường như đúng lý, chỉ thích huênh hoang, đắc ý và mong cầu một cách gấp
gáp, cộng thêm tâm lý quần chúng chỉ thích cái gì “thời thượng.” Mỗi
một khóa thiền có cả nam lẫn nữ, lấp nập như ngày hội, rồi nghe một vài điều
rất sơ bộ… Có lẽ đến khi chết vẫn mê loạn không có đến một câu kinh nào để bám
víu, cũng không nhớ đến một hồng danh để niệm nữa. Nên chúng ta là những Phật
tử đã đọc tụng kinh đại thừa, biết một cách khái quát thế nào về kinh, thế nào
là Tịnh Độ, thế nào về con đường tu thiền, cần phải vững tâm, đừng để bị lay
động bởi những hào hoa hư ngụy khi nghe một thiền sinh kể về một vài cảnh giới
họ thấy, chưa chắc gì những cảnh giới đó là một mức chứng đắc nào, mà thường
chỉ là cảnh giới ma mà thôi. (Kinh Lăng Nghiêm cũng dạỵ rất rõ về điểm
này.)
HỎI: Trong kinh Pháp Hoa
nói đến Hóa Thành Dụ, nơi đó có phải một nơi như Cực Lạc không?
ĐÁP: Hóa thành dụ là
Niết Bàn của Thanh Văn, không phải là Cực Lạc. Ngày xưa trong mười hai năm đầu,
Phật giảng về Thanh Văn thừa, rồi sau dần dần ngài chuyển sang Đại Thừa. Đến
cuối đời, ngài mới giảng Pháp Hoa, và nói rõ rằng tất cả Niết Bàn tôi dạy các
ông ngày xưa chỉ là Hóa Thành thôi, vì tâm thức các ông còn yếu kém, hạn hẹp
nên phải nêu lên một chỗ cho các ông nghĩ chân thôi, chứ thực ra đó không phải
là Niết Bàn của chư Phật.
Vì vậy, tôi lấy làm lạ
rằng từ xưa những người nói về đạo Phật thường chỉ nói đến giải thoát. Nhưng
trong Kinh đại thừa nói rõ, giải thoát khỏi những phân đoạn sanh tử của Thanh
Văn chỉ mới đi được một phần ba đường, còn mục tiêu tối thượng để thành Phật là
phải nhập pháp giới trọn vẹn. Như trong kinh Hoa Nghiêm, trang 2 và 3, Phật nói
ngài thành Chánh Đẳng Chánh Giác khác hẳn lối nhìn của hàng Thanh Văn. Vì ngài
nhập pháp giới trọn vẹn, không có một bông hoa, một hạt bụi, một chúng sanh nào
mà không ở trong thân ngài, đồng thời khi nhập trọn vẹn như vậy vẫn không thấy
có một pháp nào có cả, phải song chiếu hai mặt vừa Bát Nhã, vừa Đại Bi như vậy
mới được gọi là Chánh Đẳng Chánh Giác.
HỎI: Trong thời này có
nhiều vị đạo sư tự cho mình là Phật, rồi mở những buổi tập thể để mở các luân
xa, hay truyền tâm ấn. Vậy thì, trên con đường tìm đạo, nhiều người khó thể
phân biệt thế nào là chân, thế nào là giả. Xin ông nói sơ qua làm thế nào ta có
thể phân biệt được?
ĐÁP: Đó là chỗ nguy hiểm
cho những người đi học đạo, vì thời này, tà sư nổi lên như cát bụi, chân giả
khó phân. Nhưng từ tám, chín năm về trước tôi vẫn thường cảnh giác trong ban
kinh này là: Tất cả những người tự nhận là đạo sư, trước hết ta phải xét xem
người ấy có còn ngã hay không, có thích phật tử lễ lạy, cúng dường nhiều không,
thứ hai là người đó có khoe khoang về mình nhiều không? Khi nào ta thấy vị đạo
sư đó thích được cúng dường, được lễ lạy, thì người đó coi như không dáng tin.
Thứ hai, là những vị nào tự nhận mình là hóa thân của ngài
Di Lặc, hay Thượng Đế, Phạm Thiên v.v… cũng đều hỏng. Vì những hóa thân chân
thực không bao giờ nhận mình là gì cả.
Tâm lý Phật tử bây giờ
đương quờ quạng, rất hăng say đi tầm đạo, thì cứ việc đi, chỗ nào cũng có thể
tới, xem họ sinh hoạt thế nào. Nhưng đồng thời, trong khi đi tìm, quí vị nên
lụng kinh, và tụng chú, tuy rằng cái lực lâu tới, (vì tâm lực của chúng
ta còn yếu kém, chưa tương ưng với tâm lực chư Phật) nhưng chắc chắn
chúng ta được sự gia hộ.
Trên con đường tu hành,
nếu chúng ta có bị ốm đau, tật bệnh, hoặc chướng duyên đeo đuổi thì phải hiểu
rằng tất cả những sự đó đều là đền nghiệp của ta từ nhiều kiếp trước, thay vì
phải đọa xuống, thì phải chịu một vài căn bệnh trong đời này. Trong kinh Kim
Cang nói rõ, nếu bị người ta chê cười, hay bệnh hoạn tức là vơi được nghiệp
nhiều lắm. Đừng vội vã với tâm mong cầu, vì không gì có thể giải quyết một cách
gấp gáp được, không bao giờ chỉ tu trong một vài ngày, vài tháng, vài năm mà có
thể có được một quyền năng đội đá, vá trời. Cho dù nếu có phước duyên, gặp được
vị tu hành đạo hạnh cao, có đôi chút thần thông, hay quyền lực họ cũng không
bao giờ nói ra, vì nói ra thì cái quyền lực ấy kém dần đi, càng nói ra nhiều
thì thần thông càng teo nhỏ lại, chỉ trừ khi đó là những thần thông của tụi ma,
quỉ cho thì khi càng nói lại có thể càng tăng lên. Huyền lực chính là do từ
công phu tu tập, cùng thiện căn phước đức của vị đó, nhưng càng nói ra, huyền
lực lại càng kém đi. Vì sao thế? Vì bị vấp vào ngã chấp, nên càng ngày cái ngã
ấy càng mài dần công đức của vị đó nên càng ngày càng kém đi. Ngược lại, những
thần thông nho nhỏ do quỉ cho thì càng nói càng tăng lên, để chiêu dụ những
người nhẹ dạ cầu mong, như vậy chúng ma sẽ có nhiều quyến thuộc. Cũng có thể nó
sai sử vị thầy làm những điều càn bậy, để chơi thôi, đến khi ma quỉ chán rồi bỏ
đi thì cả thầy lẫn trò đều rơi vào pháp luật. Ma đạo và Phật đạo khác nhau như
thế. Sở dĩ ma dễ len vào trong tâm thức người tu hành để quấy phá vì trong lúc
tu, tâm thức vị đó hơi bị rỗng, nếu vị này không khởi tâm tham cầu dâm dục, hay
danh vọng, hoặc lợi dưỡng thì ma không thể xen vào được. Ngược lại, nếu hành
giả chỉ cần khởi một tâm niệm lệch thì lập tức sẽ có một kẽ hở, ma dễ bề xâm
nhập vào quây rối người tu hành, nếu biết thì không phải làm quyến thuộc của
ma, nếu không biết sẽ làm quyến thuộc của chúng và nhiều đời nhiều kiếp phải
luân hồi sanh tử, phá đi cái huệ mạng của mình mà không biết đến đời nào mới ra
khỏi.
Ngày xưa, đức Phật có
thể tự xưng ngài là Phật vì ngài có ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp và
hiện thần thông độ sanh và có vô lượng thiện thần theo hầu. Còn những người nào
tự vỗ ngực xưng mình là thế này, thế nọ chỉ là những kẻ đi bán ảo tưởng, thời
đại này là thời đại của sự lừa đảo, mà không có một cái nghề gì “phát
tài” và khỏe bằng nghề đạo sư. Những người bị thu hút thường là nhưng
người đàn ông và đàn bà sồn sồn, bắt đầu bước vào tuổi già dễ rơi vào sự cô
đơn, phiền muộn, vì không có việc gì làm, sức khỏe lại kém, con cháu không có
mấy thời giờ đến thăm, nên phải bám theo đám ồn ào ấy để mua một chút ảo tưởng
nào đó, như mua ảo tưởng sẽ được khỏi bệnh, hay được cứu rỗi, hoặc để cảm thấy
ấm áp, bớt cô độc, mà cái giá phải trả cũng không đến nỗi quá đắt, chỉ cần mất
vài chục, vài trăm, hay một hai nghìn tùy theo sức thu hút của vị Tà Sư giáo
chủ, và cái giá đó cũng “thuận mua, vừa bán,” không có gì đáng
phàn nàn.
Phần lớn người đời nay
quá khổ, làm ăn khó, cạnh tranh nhiều, chỗ nào cũng tranh giành để kiếm sống,
nên con người cần phải tìm một bến bờ nào đó, một chỗ để trú chân thì dù có mất
một chút tiền cũng không đáng tiếc. Nhưng họ không nhìn thấy được cái tại hại
sâu xa hơn, vì đó chỉ đưa họ vào con đường đọa, trôi nổi trong đau khổ thêm
nhiều kiếp. Sở dĩ tôi phải nói thế vì sau những vụ tà sư này, sẽ còn rất nhiều
những vụ khác mọc lên như nấm trong tương lai, những trò chơi của yêu ma không
bao giờ hết. Nên ta cần cảnh giác để biết đường con đường nào nên đi…
Nay chúng ta đi vào phần
cuối của Hoa Nghiêm…
Lần trước chúng ta đến
chỗ Thiện Tài đồng tử sau khi quán chiếu rất lâu thì thấy được ngài Phổ Hiền Bồ
Tát lúc đó đang ở ngay trong chúng hội trước đức Như Lai.
Lần trước tôi đã giảng
sau khi Thiện Tài đi chu du về phía Nam thì bây giờ phải trở lại chỗ cũ mới
thấy được chỗ tuyệt đỉnh của con đường tu hành, tức là trở lại chỗ Bồ Đề Đạo
Tràng chỗ đức Phật Thích Ca ngồi mà vị Phổ Hiền Bồ Tát cũng ngồi ngay tại đó.
Nhưng nếu thiện căn chưa chín thì không thể nhìn thấy, cho đến khi nào nhãn lực
và đạo lực chín mùi thì sẽ thấy được ngài. Và trước khi thấy thân ngài, Thiện
Tài nhìn thấy rất nhiều tướng quang minh tạo lập lên thế giới, phần nhiều là
những mây quang minh hiện thành những tinh tú, thành các cõi và cuối cùng là
hiện thành những thân chúng sanh. Dần dần Thiện Tài nhìn thấy được từ một chỗ
rất lớn như hư không xuống dần đến một thân căn thanh tịnh nhỏ bằng một người
ngồi là ngài Phổ Hiền ngay trong chúng hội đạo tràng. Khi nhìn thấy ngài, thì
kinh lại không tả ngài ra sao, mà lại tả tới chỗ cực nhỏ, tức là tả những lỗ
chân lông của ngài để thấy trùng trùng hằng hà sa thế giới. Vì vậy mới gọi là
NHẬP PHÁP GIỚI. Tức là đi từ chỗ rất lớn đến chỗ cực nhỏ, rồi từ những chỗ cực
nhỏ như một đóa hoa nở ra đến chỗ cực lớn.
Nay, xin đi vào kinh…
KINH: Bấy giờ Thiện Tài
đồng tử liền thấy Phổ Hiền Bổ Tát ở trong chúng hội trước đức Như Lai, ngồi tòa
sư tử Bửu Liên Hoa, chúng Bồ Tát vây quanh rất là tôn nghiêm, thế gian không
sánh được, cảnh giới trí huệ vô lượng vô biên khó lường khó nghĩ, đồng tam thế
Phật, tất cả Bồ Tát không quán sát được.
GIẢNG: Khi nào một vị Bồ
Tát nhìn thấy ngài Phổ Hiền thì phải có sức gia trì của ngài, cộng với nhãn lực
với đạo lực lớn của chính hành giả ấy. Còn những vị Bồ tát khác không nhìn thấy
được vì đạo lực của các vị khác kém hơn, không đủ nhãn lực để nhìn thấy quang
minh vi tế ấy. Từ đây trở đi, trong kinh không tả ngài Phổ Hiền Bồ Tát ra sao,
mà lại tả từ lỗ chân lông của ngài. Trong đạo Phật, tu hành là phải
hóa-giải-không- gian-và-thời-gian, nên khị một Bồ Tát trông vào lỗ chân lông
của một vị Bồ Tát lớn mà thấy trong đó có vô lượng thế giới, tức nhiên nhãn lực
của vị Bồ Tát ấy cao siêu lắm rồi.
KINH: Thấy thân Phổ Hiền
mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả thế giới vi trần số quang minh vân…
GIẢNG: Kinh không tả
hình dáng ngài ra sao, mà chỉ nói đến lỗ lông của ngài tuôn ra không biết bao
nhiêu mây quang minh. Đó là chỉ cho các bậc đã đắc đạo. Đức Thích Ca của chúng
ta cũng vậy, nhưng chúng ta không nhìn thấy mà thôi, ở đây, tôi lại xin nhắc
lại vị thiện tri thức thứ sáu là ngài Hải Tràng Tỳ Kheo, khi Thiện Tài đến thì
thấy ngài ngồi mọp bên đường, nhưng từ trên đỉnh đầu, rồi từ mắt, từ tai, từ
vai, từ bụng, từ đầu gối, nhẫn đến từ gót chân tuôn ra bời bời những hóa thân,
ùn ùn không bao giờ dứt, đó mới gọi là chân đắc đạo giải thoát, là Nhập pháp
giới.
KINH: Khắp pháp giới hư
không giới tất cả thế giới, trừ diệt tất cả chúng sanh khổ hoạn, khiến các Bồ
Tát sanh đại hoan hỷ.
GIẢNG: Thấy trong mỗi lỗ
lông của ngài Phổ Hiền đều khởi lên vi trần số mây quang minh bủa khắp pháp
giới chạm đến các chúng sanh diệt trừ những khổ hoạn của họ, như người điếc
nghe được, người mù trông thấy, người câm nói được v.v… tất cả phiền não đều tiêu
dung.
KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ
lông xuất sanh tất cả phật sát vi trần số những sắc hương diệm vân, khắp pháp
giới hư không giới tất cả chư Phật chúng hội đạo tràng, để huân tập tất cả.
GIẢNG: Trong những lỗ
lông ấy đều nổi lên những đám mây đầy màu sắc và những mùi hương rất thơm,
nhưng mùi hương ấy bủa khắp pháp giới để huân tập cho tất cả chúng sanh. Nên
tôi vẫn thường nói, tuy chúng ta đi, đứng, nằm, ngồi lổm ngổm thế này, nhưng
chúng ta đang được tắm trong quang minh của các ngài mà không hề hay biết, dần
dần nếu biết tu tập, tâm ta sẽ tương ưng với tâm các ngài và ngài sẽ hiện tướng
để viên mãn những nguyện của ta.
KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ
lông xuất sanh tất cả vi trần số tạp hoa vân…
GIẢNG: Mây tuôn ra và
trong những đám mây đó hiện ra rất nhiều hoa. Trong đạo Phật nói đến rất nhiều
loại hoa, mà theo như kinh Hoa nghiêm, ta có thể coi các chúng sanh, và những
hiện tượng cây cỏ, núi sông của pháp giới này là nở trên biển pháp thân đó,
tương tự như một đóa hoa nở ra rồi cụp lại. Tất cả pháp giới nở ra thành thế
giới này và vô lượng thế giới khác, đến khl kiếp hoại thì tất cả rút lại, cụp
lại rồi biến vào chân không. Vì vậy, khoa học không thể hiểu nổi tại sao khi
thấy những tinh hà càng ngày càng chạy xa nhau. Nhưng nếu ta nhìn theo con mắt
Phật giáo thì sẽ thấy rõ, có thể là vì đương lúc đóa hoa pháp giới đang nở ra
lớn, thì những tinh hà chính là cánh hoa, nhụy hoa càng ngày càng nở lớn ra nên
càng chạy xa nhau hơn. Thân căn chúng ta cũng là một đóa hoa nở ra, khi già tàn
lụi, thì nó rụng xuống thành cát bụi và rơi vào chân không.
KINH: Khắp pháp giới hư
không giới tất cả chư Phật chúng hội đạo tràng mưa những diệu hoa.
GIẢNG: Ngài Phổ Hiền
ngồi trong tam muội tịch bất động, mà từ những lỗ chân lông tuôn ra không biết
bao nhiêu thứ quang minh mây, trong đó lại hiện ra những trận mưa hoa nườm nượp
trong hư không. Chúng sanh nào đủ thiện căn đều có thể nhìn thấy những mưa hoa
đó, ngược lại, những người căn cơ còn hạn hẹp như chúng ta không thể nào thấy
được.
KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ
lông xuất sanh tất cả phật sát vi trần số hương thọ vân..
GIẢNG: Trong những quang
minh vân ấy hiện ra những cây quí có hương thơm như cây chiên đàn chẳng hạn.
KINH: Khắp pháp giới hư
không giới tất cả chúng hội đạo tràng mưa những diệu hương…
GIẢNG: Chúng ta là người
trần mắt thịt, nên cái biết về pháp giới này rất hạn hẹp, vì trong hư không
này, mọi biến chuyển xoay vần rất kỳ ảo,nó thay đổi từng sát na một. Ngay bây
giờ, có thể đang có nhiều thế giới được thành lập, hoặc biến hoại, hay ngay tại
chỗ này, chư Phật đang thuyết pháp, nhiều mưa hoa, mưa hương rơi đầy khắp hư
không, hoặc chúng ta đang sống trong một thân căn của một vị Bồ Tát lớn nào đó
v.v… Vì sáu căn của chúng ta chỉ hoạt động được trong một tần số hay kích thước
hạn hẹp nào đó thôi. Và chúng ta hoàn toàn không hay, không biết. Nên chư Phật
khởi lòng từ bi nói cho chúng ta nghe, vậy mà cũng có rất ít người chịu tin,
chịu hiểu. Thật đáng tiếc!
KINH: Trong mỗi mỗi lỗ
lông xuất sanh tất cả phật vi trần số diệu y vân, khắp pháp giới hư không giới
chư Phật chúng hội đạo tràng mưa những diệu y.
GIẢNG: Ở đây lại nói
những đám mây quang minh hiện lên những áo vi diệu.
KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ
lông xuất sanh tất cả phật sát vi trần số bửu thọ vân…
GIẢNG: Bửu thọ vân cũng
là những mây quang minh hiện ra những cây quý.
KINH: Khắp pháp giới hư
không giới tất cả chư Phật chúng hội đạo tràng mưa ma ni bửu. Thấy mỗi mỗi lỗ
lông xuất sanh tất cả Phật sát vi trần số sắc giới thiên thân vân sung mãn pháp
giới khen ngợi bồ đề tâm.
GIẢNG: Ngài Phổ Hiền vẫn
ngồi đấy, nhưng trong mỗi lỗ lông phóng ra rất nhiều những mây quang minh trong
đó hiện tướng dần dần pháp giới. Trên kia, hiện lên những hoa, hương, cây cỏ,(chúng
vô tình), xuống đây thì hiện lên các vị chư Thiên (chúng hữu
tình), sau đó các vị chư Thiên đều khen ngợi bồ đề tâm.
KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ
lông xuất sanh tất cả phật sát vi trần số Phạm Thiên thân vân, khuyến thỉnh chư
Như Lai chuyển diệu pháp luân.
GIẢNG: Đoạn trên thì chỉ
hiện ra Chư Thiên. Còn ở đoạn này thì hiện ra những Vua trời Phạm Thiên. Những
vị Phạm Thiên thường là những vị vua cõi trời Quang Âm. Trong các kinh thường
kể, khi một vị Phật thành Chánh Đẳng Chánh Giác dưới Bồ Đề Đạo Tràng ở một cõi
nào thì bao giờ một vị Phạm Thiên cũng xuống thỉnh Phật chuyển pháp luân. Hạnh
thỉnh chuyển pháp luân có công đức rất lớn, vì đức Phật có nói pháp chúng sanh
mới thoát được khổ. Và nếu không có các vị Phạm Thiên thỉnh Phật thuyết pháp
thì người đời sau không có kinh để đọc tụng và tu hành. Cũng như trong mười
hạnh nguyện Phổ Hiền ta thường tụng đọc hằng ngày, có một hạnh gọi là “thỉnh
chuyển pháp luân.” Trông thấy đức Phật phải thỉnh ngài nói pháp, cũng
như trông một vị đạo sư, cao tăng, ta nên có hạnh khởi tâm thỉnh vị đó thuyết
pháp, để chúng sanh được nghe pháp.
Trong kinh Đại Bát Niết
Bàn nói rằng, ở những nơi đức Phật giảng kinh,có mấy hạng người kỳ diệu. Hạng
người đầu tiên có công đức lớn là biết thỉnh Phật chuyển pháp luân, người thứ
hai là biết hỏi. Thường đức Phật ít khí vô cớ nói pháp mà không có người hỏi,
vì vậy người khởi tâm thưa hỏi do lòng từ bi thì công đức của vị đó rất lớn.
Như trong những pháp hội, thường những vị đại đệ tử của Phật như ngài A Nan, Xá
Lợi Phất, Tu Bồ Đề v.v… cùng các vị Bồ Tát và Thiên Đế, các ngài hỏi thế không
phải là muốn khoe cái trí hiểu biết của mình đâu, hoặc đôi khi các ngài cũng
biết câu trả lời mà vẫn cứ hỏi, đó chỉ là vì các ngài nghĩ đến chúng sanh đời
sau như chúng ta cần có kinh mà đọc.
Trong đạo tràng, khi có
người hỏi, đáp, chúng ta nên tránh nhất là tâm sân, mạn, dù người kia có nói
trái ý ta cũng không nên khởi lòng sân, vì như thế ta còn chấp ngã rất nặng. Và
theo giáo lý nhà Phật, người hỏi cũng như người đáp, thường ta chỉ nên nói lên
cái kiến giải của mình thôi, chứ không có thái độ bắt ai phải theo cái sự hiểu
biết của mình. Ngay cả đức Phật ngồi thuyết pháp cũng thế, ngài không bao giờ
bắt các vị đệ tử của ngàii nghe ngài đâu, mà lại nói rằng, các ông hãy lắng
nghe cho khéo, nghĩ cho kỹ nếu đúng hãy theo, nên không bao giờ có sự tranh cãi
với thế gian.
KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ
lông xuất sanh tất cả phật sát vi trần số dục giới thiên vương thân vân, hộ trì
pháp luân của tất cả Như Lai.
GIẢNG: Đoạn trên kể rằng
trong những quang minh vân sanh các chư Thiên Tử, sanh vị Phạm Thiên, rồi đến
những vị vua trời dục giới như vua Đế Thích ở tầng trời Đao Lợi. Như vậy, nếu
các vị Phạm Thiên thỉnh Phật chuyển pháp luân, thì những vị vua Đế Thích này sẽ
hộ trì pháp luân của Như Lai. Khi đức Phật nói pháp lớn xong, bao giờ cũng có
những vị Tứ Thiên Vương, Vua Đế Thích và rất nhiều vị Dạ Xoa Vương, Quỉ Thần
Vương tuyên thệ sẽ hộ trì kinh. Khi ta đọc tụng kinh nhiều tất nhiên sẽ được sự
hộ trì, nên tôi vẫn nói là, tuy đạo tràng này nhỏ bé, đôi khi thưa thớt người
dự, nhưng có thể có những vị Quỉ Thần và Chư Thiên xuống nghe kinh…
Trong các kinh ngoại
đạo, thì có những vị thần ngoại đạo hộ trì những kinh ấy, còn kinh Phật nói ra,
toàn những vị Thiên Vương, nhất là những vị Tứ Thiên Vương và Quỷ Thần Vương hộ
trì. Trong kinh Hiền Ngu, Phật nói rõ rằng, khi có người tụng chú như Đại Bi,
Bát Nhã hoặc chú Thủ Lăng Nghiêm mà tụng ra thành tiếng, đi ngoài đường, các vị
chư Thiên đi tuần trên trời phải dừng lại mà nghe bài chú ấy. Kinh cũng nói
rằng, một người giữ một giới thì có năm vị quỉ thần đi theo gia hộ, còn giữ năm
giới như người tại gia thì có hai mươi lăm vị quỉ thần đi theo gia hộ. Nhưng
nếu tụng chú Thủ Lăng Nghiêm, thì có tám mươi bốn ngàn đại quỉ thần đi theo gia
hộ, ngài nhắc đi, nhắc lại mấy lần trong kinh như thế. Chúng ta là người tu
hành kém, công phu nhiều khi hay giải đãi, làm sao được sức gia trì? Nên phải
nhờ thần lực của chú, của kinh.
HỎI: Tại sao lại là con
số 84 ngàn mà không phải một con số
khác, nhiều hơn haỵ ít hơn chẳng hạn?
ĐÁP: Trong kinh thường
hay nói đến con số 84 ngàn, như 84 ngàn trần lao, 84 ngàn pháp môn, 84 ngàn các
Đạo Quỉ Thần v.v… là chỉ một con số lớn, vô lượng.
PHẬT TỬ: Tôi có đọc một
cuốn sách (xin lỗi đã quên mất
tên), có giảng về các đại kiếp, trung kiếp, tiểu kiếp, không biết một
tiểu kiếp là bao nhiêu năm?
ĐÁP: Một trung kiếp có
hai mươi tiểu kiếp, một đại kiếp gồm bốn trung kiếp. Một vị tu thiền định vào
cõi Trời Vô Sắc Giới thì vị đó có thể thọ tám mươi bốn ngàn kiếp, ngồi trong
thiền định lâng lâng, không có thân chỉ có tâm tưởng thôi. Nhưng đến khi hết
phước báo mà phải bị tụt xuống bình diện thấp của sắc ấm thì bị đau đớn
như có mũi tên đâm vậy.
HỎI: Trong thế gian nàỵ,
có thể có hóa thân Phật không, và có người nào có thể một đời tu thành
Phật được không?
ĐÁP: Có thể có hóa thân
Phật, nhưng khi làm hóa thân không bao giờ được tự nhận mình là hóa thân của
một vị Phật hay vị Bồ Tát. Các ngài có thể hiện làm một kỹ nữ, hay một vị vua,
quan, hoặc một vị ăn mày ghẻ lác v.v…, và những hóa thân ấy, không có ba mươi
hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, mà luật tắc không bao giờ được nói mình là
hóa thân cả, chỉ thị hiện để độ sanh thôi. Nhưng nếu hiện ứng thân có đủ ba
mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp thì có quyền nói mình là Phật, đồng thời
phải có thần thông tràn đầy thế gian. Còn những người bình thường như chúng ta
không bao giờ có thể tu một đời thành Phật cả, vì sao? Vì như đức Phật Thích
Ca, ngài đã thành Phật trên từng trời sắc cứu cánh rồi, thị hiện xuống trần
thành Phật để độ sanh và khích lệ người. Nên nếu đọc kinh kỹ ta có thể dễ dàng
nhận được tà, chính.
Nay, xin trở lại kinh.
KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ
lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật sát vi trần số tam thế phật sát vân…
GIẢNG: Ngài Phổ Hiền vẫn
ngồi đây, lỗ chân lông tuôn ra những mây quang minh hóa hiện thành những cõi
Phật. Ai tin được điều này? Vì vậy kinh đại thừa mới khó tin, khó hiểu, khó
vào. Cũng như chúng ta luôn nghĩ rằng cõi này với tất cả chùa đình, bàn ghế,
cây cỏ này v.v… đều do vật chất tạo nên, nhưng trong kinh Duy Ma Cật cũng nói
rằng tất cả các cõi đều là hư không, đều ảnh hiện, hiện lên là đều do thần lực
của chư Phật gia trì và nghiệp lực của chúng sanh chiêu cảm, để chúng minh sinh
sống và tu hành. Vì vậy chúng ta ngồi trong cõi này tức là ngồi trong thân của
các ngài. Nếu chúng tu tin được thì quả là một đều rất hy hữu, phải trồng túc
duyên từ nhiều đời, nhiều kiếp, đến kiếp này mới gặp được kinh đại thừa, hơn
thế nữa lại còn đọc tụng và tin hiểu.
” Trong mỗi niệm xuất
sanh tất cả phật sát vi trần số tam thế phật sát vân…” Những mây quang minh ấy không những hiện những cõi này,
mà còn hiện cả các cõi quá khứ và vị lai đều hiện tiền trước mắt. Quí vị thử
nghĩ xem có thể tin nổi không? Nhưng kinh không bao giờ nói lời hư vọng, chỉ
tại mình nghĩ chưa tới mà thôi.
KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ
lông trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật sát vị trần số thanh tịnh phật sát
vân…
GIẢNG: Những mây quang
minh hiện lên trong lỗ chân lông ấy tạo thành những cõi rất thanh tịnh.
KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ
lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật sát vi trần số bất tịnh tịnh phật
sát vân, khắp pháp giới hư không giới, khiến tạp nhiễm chúng sanh đều được
thanh tịnh.
GIẢNG: Lúc nào cũng nói
đến cõi tịnh và bất tịnh. Vì vậy, y cứ vào kinh, tôi thiển nghĩ rằng, tất cả
những người tu – dù tu theo thiền tông – trước sau cũng phải sang Tịnh Độ thì
mới đắc được vô sanh pháp nhẫn, mới có đủ tự tại lực, thần thông để độ sanh.
Trong những kinh như
kinh Đại Bảo Tích, Hoa Nghiêm đều nói đến những chân lý rốt ráo mà không thể có
một cuốn sách thế gian nào nói được như lời kinh.
KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ
lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật sát vi trần số bất tịnh phật sát
vân, khắp pháp giới hư không giới, khiến thuần nhiễm chúng sanh đều được thanh
tịnh.
GIẢNG: Cõi Ta Bà chúng
ta đang ở là một cõi uế độ trung bình, vì thế nghiệp lực tung hoành tương đối
ít, như mười phần thì bất tịnh khoảng bảy phần, còn ba phần kia là tịnh, vì
chúng ta còn biết tụng kinh, giữ giới v.v… Nhưng có những cõi bất tịnh phật sát
vân thì trong đó chúng sanh thuần nhiễm, bất tịnh hoàn toàn, ở đây, chúng sanh
không bao giờ biết đến kinh là gì, lúc nào cũng chỉ mang cái tâm thích chém
giết nhau. Nhưng chư Phật và chư Đại Bồ Tát cũng phải gia trì ở những nơi đó
khiến những thuần nhiễm chúng sanh đều dần được thanh tịnh. Đủ biết rằng, các
ngài thường có tâm bình đẳng, thương chúng sanh như con đỏ, không một loài nào
bị bỏ rơi, ngược lại, chúng ta cứ ngu si, nghiệp chướng sâu dầy, không chịu
tin, không chịu hiểu, không hành trì đúng mức nên cứ phải trôi lăn trong sáu
nẻo luân hồi. Ví như mặt trời soi sáng khắp nơi, nhưng người mù vẫn không thấy,
lỗi đó không do nơi mặt trời, chỉ tại người mù không nhìn thấy mà thôi.
KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ
lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật sát vi trần số chúng sanh thân vân,
khắp pháp giới hư không giới, tùy sở nghi giáo hóa chúng sanh đều khiến phát
tâm vô thượng bồ đề.
GIẢNG: “Vi trần
số chúng sanh thân vân” là những mây quang minh kết thành những thân
chúng sanh (mà không nói là nhiễm hay tịnh?) nhưng các ngài
gia trì cho nhưng chúng sanh ấy dần dần tới chỗ phát tâm vô thượng bồ đề.
KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ
lông trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật sát vi trần số bồ tát thân vân, biến
pháp khắp hư không giới tán dương những danh hiệu của chư Phật làm cho
chúng sanh tăng trưởng thiện căn.
GIẢNG: Sau khi ngài hóa
hiện các thứ chúng sanh rồi, lại hóa hiện những vị Bồ Tát để chỉ tán dương niệm
danh hiệu chư Phật thôi (tịnh độ).
KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ
lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật sát vi trần số bồ tát thân vân, khắp
pháp giới hư không giới tất cả phật sát tuyên dương tất cả chư Phật Bồ Tát,
những thiện căn sanh khởi từ khi sơ phát tâm.
GIẢNG: Từ lỗ lông hiện
ra những vị Bồ Tát tuyên dương những thiện căn từ khi phát bồ đề tâm. Như sau
khi phát bồ đề tâm thì tu công đức gì, làm những hạnh nguyện gì v.v… để khuyến
khích người tu trên con đường Bồ Tát đạo.
KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ
lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật sát vi trần số bồ tát thân vân khắp
pháp giới hư không giới, trong mỗi phật sát nơi tất cả phật sát tuyên dương tất
cả bồ tát nguyện hải và thanh tịnh diệu hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
GIẢNG: Ở đây ngài
lại nói về những nguyện hải và diệu hạnh.
KINH: Thấy mỗi mỗi lỗ
lông, trong mỗi niệm xuất sanh Phổ Hiền Bồ Tát hạnh vân, khiến tâm tât cả chúng
sanh được mãn túc, tu tập đầy dủ đạo nhất thiết trí.
GIẢNG: Đủ trí huệ và
phước báo. Trong đoạn kinh này, nói toàn đến những lỗ lông, mà trong mỗi lỗ
lông có vô lượng cõi, vô lượng chư Phật, vô lượng chúng sanh v.v.., tức là ngài
đang giảng cho chúng ta thấy từ một chỗ bé nhất có thể nở ra thành những cõi,
những quốc độ và những thân căn chúng sanh.
HỎI: Thấy trong một lỗ
lông những cảnh giới như thế là thấy theo mắt trần, thấy vì thiền quán, hay
thấy bằng cái tâm?
ĐÁP: Như tôi đã nói
nhiều lần, nhục nhãn của chúng ta rất hạn hẹp, chỉ nhìn được một khúc rất ngắn,
nên cái thấy này không phải cái thấy của nhục nhãn đâu. Những vị tu hành cao,
thiện căn và phước trí như ngài Thiện Tài có gần đủ ngũ nhãn rồi, ngoài nhục
nhãn, còn có thiên nhãn, huệ nhãn và pháp nhãn nữa. Cảnh giới này là ngài nhìn
bằng pháp nhãn.
KINH: Thiện Tài thấy
cảnh giới thần thông tự tại của Phổ Hiền Bồ Tát như vậy, thân tâm hoan hỉ, hớn
hở vô lượng.
GIẢNG: Khi chúng ta tu
hành đã khá, có được cơ duyên gần được một vị Bồ Tát lớn, đồng thời các ngài
khởi tâm muốn gia trì cho chúng ta mà hiện những thần thông, thì tự nhiên trong
tâm ta sẽ khởi lên những niềm hoan hỷ, lâng lâng, đồng thời cũng đắc nhiều thứ
tam muội cùng đà la ni. Cũng vậy, Thiện Tài đi gần tới chỗ nhập pháp giới, nên
ngài Phổ Hiền gia trì để nhập sâu hơn nữa.
“Thiện Tài thấy cảnh
giới thần thông tự tại của Phổ Hiền Bồ Tát..”, tức là ngài hiện mọi thần thông, vì chư Phật dù không
khởi một tâm niệm nào, những vẫn khởi thần thông tràn đầy thế gian. Nên trong
kinh Tâm Địa Quán nói rõ, chư Phật là thần “thông biến hóa tràn đầy thế
gian,” đừng tưởng thế giới là ù lì thế này thôi đâu, mà tất cả mọi sự,
mọi vật đều biến đổi từng sát na một. Trong sự biến hóa vô cùng vô tận ấy, còn
tùy theo cái tâm đập bập bềnh của chúng sanh mà hiện ra, nếu tâm ta nhạy bén,
thanh tịnh, thì tiếp nhận được nhiều, còn tâm ta ù lì kém cỏi, thì chỉ nhận
được rất ít thôi, đó không phải là lòng từ bi của các ngài không bình đẳng, mà
do chính ám chướng sâu dày và nghiệp lực của mỗi chúng sanh không đồng mà thôi.
Như người sanh manh, tuy không nhìn thấy được mặt trời, nhưng vẫn nhận được đầy
đủ sức ấm áp của mặt trời tỏa xuống.
KINH: Lại thấy mỗi mỗi
thân phần, mỗi mỗi lỗ chân lông của Phổ Hiền đều có Đại Thiên thế giới phong
luân, thủy luân, địa luân, hỏa luân, đại hải, giang hà và những Bửu Sơn, Tu Di,
Thiết Vi, thành ấp, cung điện, viên lâm…
GIẢNG: Đoạn kinh này lại
nhắc lại tổng quát cho chúng ta nhớ. Cũng nhắc thêm những chi tiết để cho chúng
ta thấy trong cõi Ta Bà này có những gì.
Trong kinh Hoa Nghiêm ở
phẩm “Thành tựu thế giới,” khi một thế giới thành tựu,
đầu tiên phong luân sẽ khởi lên, rồi đến thủy luân, những dòng nước xoáy, rồi
đến địa luân, sau cùng mới đến hỏa luân, từ đó mới kết tụ tạo thành những tinh
tú, ngân hà, hành tinh và trái đất này, mà trên những hành tinh có những đại
hải, sông ngòi, bửu sơn, núi Tu Di, Thiết Vi, thành ấp, cung điện, viên lâm,
rừng cây, núi đá. Cũng có tất cả trụ xứ của địa ngục, của ngạ quỷ, súc sanh,
Diêm La Vương v.v…
KINH: Những cung điện
của Thiên Long Bát Bộ, nhân và phi nhân…
GIẢNG: Có những trụ xứ
của người, và cũng có những xứ sớ của những loài khác, như trong hư không này
là xứ sở của phi nhơn. Đừng tưởng rằng trong hư không không có chúng sanh,
ngược lại, chỗ nào cũng có đầy dẫy chúng sanh. Trong kinh nói những chi tiết
rất lạ lùng, nói rằng, ở giữa hai thế giới có một khu vực rất đen tối, chúng
sinh sống trong đó không bao giờ nhìn thấy được nhau, nhưng khi đức Phật phóng hào
quang, thì chỗ đó cũng sáng lên, chúng sanh ở nơi đó hốt nhiên mới nhìn thấy
nhau, nên ngạc nhiên kêu lên rằng, không hiểu chúng sanh ở đâu ra nhiều thế?
Tất cả những cung điện, nhơn, phi nhơn, xứ sở đều được dệt bằng quang minh. Tới
thế kỷ thứ 21 này, tôi chắc rằng khoa học sẽ chứng minh nhiều điều mà kinh đã
nói từ ngàn xưa rồi.
KINH: Cõi dục, cõi sắc,
cõi vô sắc, nhật nguyệt, tinh tú, gió mây, sấm chớp…
GIÁNG: Là nói đến các
vật, tức là những y báo bên ngoài.
KINH: Ngày, đêm, tháng,
năm, giờ, đến năm kiếp, chư Phật xuất thế, chúng hội Bồ Tát, đạo tràng trang
nghiêm, những sự như vậy đều thấy rõ cả.
GIẢNG: Trên kia nói cung
điện, tinh tú v.v… thì chúng ta có thể tưởng tượng rằng, một người có pháp nhãn
có thể nhìn thấy được, còn đây nói đến ngày, đêm, tháng, giờ v.v… là nói đến
thời gian. Nhưng thời gian đối với chúng ta nó không có hình tướng thì làm sao
có thể thấy được?
HỎI: XIn lỗi, cho tôi
ngắt ngang để hỏi một câu, kẻo chờ đợi lát nữa tôi lại quên mất. Trong đoạn
nàỵ, chắc phải có trí của Như Lai, tức là đến khi thành Phật thÌ ta mới có thể
thấy được như thế, có thể thấy được thời gian. Có đúng chăng?
ĐÁP: Cũng chưa cần phải
thành Phật, nếu chúng ta tu đến đệ bát địa, tức là đến vô sanh pháp nhẫn, lúc
đó bắt đầu chúng ta thấy không gian và thời gian đã hóa giải rồi, vì vậy mới có
thể biến hóa được.
Trong Hoa Nghiêm, phẩm
thứ 33 “Thọ Lương của Như Lai,” có đề cập đến vấn đề thời gian. Nói rằng, một
kiếp ở cõi Ta Bà này, tức là mười sáu triệu năm chỉ bằng một ngày một đêm ở cõi
Cực Lạc, một kiếp ở cõi Cực Lạc, chỉ bằng một ngày một đêm ở cõi Ca Sa Tràng
Như Lai v.v… Như vậy, chúng ta phải hiểu rằng, theo đạo Phật, thời gian cũng
chỉ là vọng tưởng của tâm thức mà thôi, tâm thức càng thanh tịnh bao nhiêu thì
thời gian trôi qua càng lẹ bấy nhiêu. Vì khi tâm thức thanh tịnh, thì tần số
quang minh của tâm thức phát ra rất mau lẹ, rất cao, nên thời gian như thu ngắn
lại, và thọ mạng chúng sanh lại dài ra. Như thọ mạng người nhân thế kém thọ
mạng của chư Thiên nhiều lắm, thọ mạng trung bình của chư Thiên là năm trăm
năm, mỗi một ngày trên trời dục giới dài bằng khoảng một trăm năm dưới nhân
thế, vì tâm thức họ thanh tịnh hơn. Sở dĩ các vị Bồ Tát có thể thấy rõ ngày,
đêm, tháng, giờ, năm, kiếp v.v… của các cõi vì các ngài đo lường mức dộ thanh
tịnh của chúng sanh ở đó, nên khi đem so thời gian giữa các cõi, tịnh uế thì
một kiếp ở cõi này, chỉ bằng một ngày một đêm ở cõi khác. Các ngài thấy, có lẽ
do tâm ý, không phải do tâm nhãn. Nên nếu không hiểu lý “duy tâm sở hiện” thì
không thể nào chấp nhận dược… Lấy một thí dụ dễ hiểu, một người ngồi thiền cao,
họ có thể ngồi một lần hai, ba ngày, đến khi xuất thiền họ chỉ có cảm giác là
thời gian hai, ba ngày vừa qua chỉ bằng khoảng một bữa ăn thôi, vì tâm thức
người đó thanh tịnh. Ngay chúng ta đấy, chưa có kinh nghiệm gì về thiền quán
hay một cơn định nhỏ nào, nhưng trong một ngày, vì một lý do này đó — đọc được
một đoạn kinh hay, hoặc có một niềm vui nào đưa đến — làm cho tâm thức ta vui
vẻ, nhẹ nhàng thanh thoát.., thì thấy một ngày qua rất nhanh. Ngược lại, nếu
ngày hôm đó, ta gặp một điêu gì buồn rầu, hoặc gặp một tai nạn bất ngờ, làm cho
tâm thức ta buồn rầu ủ rũ thì ngày đi qua một cách rất chậm chạp lê thê.
PHẬT TỬ (góp ý): Thưa
ông, cũng giống như một nhà sinh vật học, khi nghiên cứu đời sống của một con
ong, từ khi con ong nở ra còn là con ngài, rồi thành ong, rồi xây tổ v.v… tất
cả việc làm và suốt đời sống của một con ong, nhà nghiên cứu học nhìn thấy suốt
thời gian kéo dài chỉ khoảng vài tháng hay một năm chẳng hạn. Cũng vậy, các vị
chư Thiên trên trời, nhìn xuống nhân gian chúng mình cũng giống hệt như thế,
không khác!
ĐÁP: Đúng vậy nên trong
kinh nói rất rõ rằng, các vị Chư Thiên nhìn xuống nhân thế, thấy chúng ta như
một lũ giòi sống trong đám phân hôi, vì suốt ngày chúng ta chỉ có ăn, uống,
toàn những thứ bất tịnh, rồi đi tiểu, đi tiêu, rồi khởi tâm tham dục, ngã mạn,
sân hận lăng nhăng. Chúng ta sống trong “môi trường người” quen quá rồi, nên
không biết, không để ý, nhưng chư Thiên thấy chúng ta hôi nhơ, khó thể chịu
nổi. Ngày xưa, khi con người còn thanh tịnh hơn bây giờ, cũng có những trường
hợp chư Thiên sống gần người, càng ngày đất trời càng xa cách, vì nghiệp chúng
ta càng nặng, càng lún sâu vào bùn, nên chư Thiên không chịu nổi phải xa dần.
Nên chúng ta cần luôn nhớ rằng, muốn tu hành phải cầu ra khỏi dục giới trước,
và cửa ải dục giới rất khó qua, vì sự tham dục của chúng sanh rất nặng.
KINH: Như thấy rõ tại
thế giới nầy, tất cả thế giới ở mười phương đều thấy rõ cả.
GIẢNG: Thấy rõ tất cả
thế giới mười phương, đồng thời thấy rõ thời gian của từng các cõi, ngày,
tháng, năm, kiếp v.v… ngắn, dài đều biết hết.
KINH: Như thấy thập
phương thế giới hiện tại, tất cả thế giới tiền tế, hậu tế cũng thấy như vậy,
nhưng vẫn chẳng tạp loạn nhau.
GIẢNG: Không những thấy
thập phương thế giới trong hiện tại, mà còn thấy tất cả thế giới ở quá khứ thế
nào, trong tương lai ra sao. Vì khi chúng ta vào được bạch tịnh thức, lúc đó ta
có thể nhìn được tất cả tam tế. Còn chúng ta bây giờ, với tâm thức của người,
chỉ trông được hiện tại, nhớ được quá khứ, vọng tưởng đến vị lai. Nhưng lên cao
hơn như Phật, thì không nhớ tưởng gì cả, mà trông thấy rõ trước mắt, có thể
thấy được trăm ngàn kiếp, vô lượng kiếp về trước, và cũng có thể biết được vô
lượng kiếp về sau. Nhưng không bao giờ các vị cao nói ra, vì sẽ làm rối loạn
luật tắc nhân quả, nghiệp báo. Như ngài Xá Lợi Phất, có thể thấy tám vạn kiếp
của một con chim ngói về thời quá khứ, huống chi là một bậc Đại Giác (Phật). Trong
kinh Hoa Nghiêm bao giờ cũng khẳng định là biết tất cả tiền tế, hậu tế, tất cả
quá khứ, vị lai.
KINH: Như ở chỗ Tỳ Lô
Giá Na Như Lai thị hiện sức thần thông như vậy, tại Liên Hoa thế giới, chỗ của
Hiền Thủ Phật, hiện sức thần thông cũng như vậy.
GIẢNG: Chỗ Tỳ Lô Giá Na
Như Lai chính là cõi Ta Bà này, và đức Thích Ca Mâu Ni cũng chính là đức Tỳ Lô
Giá Na Như Lai, là hiện thân là một vị cổ Phật, nhưng cũng hiện thân là ngài
Thích Ca. Thì thấy cõi Phật Thích Ca này như thế, đồng thời cũng thấy nhiều cõi
khác như Liên Hoa thế giới, là một chỗ hết sức thanh tịnh, còn thanh tịnh hơn
cõi Cực Lạc của đức A Di Đà nhiều, là chỗ của Hiền Thủ Phật hiện sức thần thông
cũng như vậy.
KINH: Nhẫn đến tại tất
cả thế giới mười phương, chỗ của tất cả chư Phật Như Lai, cũng hiện sức thần
thông như vậy.
GIẢNG: Không những các
ngài hiện sức thần thông trong một, hai cõi, mà lại hiện sức thần thông ở tất
cả các cõi mười phương.
KINH: Mười phương tất cả
thế giới, trong mỗi mỗi vi trần đều có pháp giới chư Phật chúng hội…
GIẢNG: Trong bất cứ thế
giới nào cũng có chúng hội của chư Phật.
KINH: Chỗ mỗi đức Phật,
Phổ Hiền Bồ Tát ngồi trên tòa Bửu Liên Hoa Sư Tử hiện sức thần thông cũng đều
như vậy. Trong thân của mỗi mỗi Phổ Hiền đều hiện tất cả cảnh giới tam thế, tất
cả cõi Phật, tất cả chúng sanh, tất cả Phật xuất hiện, tất cả Bồ Tát chúng,
nghe ngôn âm của tất cả phật, pháp luân của tất cả như Lai chuyển. Lại thấy
công hạnh của tất cả Bồ Tát, thần thông du hí của tất cả Như Lai.
GIẢNG: Đây chính là Nhập
pháp giới trọn vẹn. Sau khi nhìn ngắm tất cả thần thông của ngài Phổ Hiền rồi
thì thâu tóm lại rằng trong thân của mỗi mỗi Phổ Hiền đều hiện tất cả cảnh giới
tam thế, các cảnh giới hiện tại, quá khứ, vị lai đều hiện lên trước mắt, không
có một cõi Phật nào không ở trong thân ngài Phổ Hiền, tất cả chúng sanh ngọ
nguậy lăng xăng đi ngang, đi dọc, cãi nhau, đánh nhau, giết nhau, sân hận, tham
lam, si mê, tà kiến v.v… đều nằm trong thân ngài. Tất cả Phật xuất hiện, tất cả
Bồ Tát chúng, các ngôn âm của tất cả chúng sanh, chúng sanh có những ngôn âm
sai khác từng loài, tiếng người, tiếng quỉ, tiếng của Càn Thát Bà, tiếng của
Long Vương v.v… ngài đều nghe thấy hết, vì tất cả đều ở trong tâm ngài, vì đó
là sự biến hiện của tâm, như thế mới gọi là Phật, như thế mới gọi là NHẬP PHÁP
GIỚI trọn vẹn.
HỎI: Nếu chỉ một thân
của ngài Phổ Hiền đã hiện lên tất cả các thân Phật, thân các vị Bồ Tát chúng,
vậỵ thì trong những vị Phật khác thì sao?
ĐÁP: Cũng thế, nói một
cách rõ hơn là, phàm phu chúng ta cứ chấp có mình, có người, có tự, có tha.
Nhưng trong Phật giáo lại dạy khác. Ngài dạy rằng, tất cả đều liên quan đến
nhau, và CHẬP CHÙNG ẢNH HIỆN. Như tôi với ông, ông ngồi đấy, có nghĩa rằng ông
đang ngồi trong tâm thức của tôi và ngược lại, tôi ngồi đây, tức là tôi đang
ngồi trong tâm thức của ông. Nói một cách bao quát hơn, tôi ngồi đây, tất cả
những vị ngồi nghe pháp trong đạo tràng này, cùng tất cả các cây cỏ, chùa chiền
v.v.., chung quanh tôi đều ở trong tâm thức của tôi. Nhưng đồng thời, mỗi vị
đều có tâm thức của vị đó, nên tôi cũng ở trong tâm thức của các vị. Vậy thì
khi tôi nhìn pháp giới này, nhìn ngôi chùa này, cây cỏ, núi sông, mặt trời, mặt
trăng kia là tôi nhìn theo một trường lực quang minh riêng của tôi, nó là một
thứ thế giới đặc biệt của riêng tôi. Cũng vậy, ông cũng có một trường lực tâm
thức riêng của ông nhìn vào pháp giới này, mà mỗi một tâm thức của mỗi người
đều là một “trung tâm ảnh hiện pháp giới.” Mỗi chúng ta là một ngọn đèn đốt lên,
rọi sáng, tất cả xen lẫn vào nhau, nhưng mỗi một ngọn vẫn đều có những đặc tính
riêng của nó, như đèn dầu hôi, đèn điện, nến, bạch lạp v.v…, dù là loại gì nó
cũng đồng một sự sáng. Chư Phật cũng thế thôi, các ngài nhìn tất cả pháp giới
đều trong thân ngài, những vị Phật khác cũng đều nhìn thấy như thế, tất cả pháp
giới cũng đều hiện trong thân các ngài. Giống như nhiều cái gương, mỗi cái đều
óng ảnh phản chiếu tất cả sự vật chung quanh nó, nếu những cái gương tâm thức
ấy trong sáng phẳng lặng tột bực thì nó soi chiếu lẫn nhau và mọi vật một cách
rất trung thực, ảnh hiện trong nhau trùng trùng, điệp điệp (Chư Phật). Nhưng
nếu những tấm gương tâm thức lồi lõm, méo mó không đều, thì nó cũng vẫn có khả
năng ảnh hiện những sự vật chung quanh, cũng nổi lên trùng trùng điệp điệp,
nhưng là những trùng điệp đầy lồi lõm do những vọng tưởng, vọng tình, nên nó đã
tạo thành những hình ảnh méo mó, lệch lạc, lồi lõm tùy theo nghiệp lực của mỗi
loài chúng sanh, và sự phản ảnh ấy không trung thực (trường hợp của chúng
sanh).
HỎI: Như vậy có phải
ngài Phổ Hiền Bồ Tát như là một biểu tượng cho tất cả?
ĐÁP: Đúng vậy, ngài Phổ
Hiền là biểu tượng của một vị sắp đến quả vị Diệu Giác. Nhưng không phải chỉ
biểu tượng “Symbolic,” mà ngài vẫn có thực, có thể hiện thân độ sanh được.
HỎI: Đây là chỉ nói đến
các vị Bồ Tát, còn các vị A La Hán thì sao?
ĐÁP: Mức độ A La Hán còn
thấp hơn bình diện này rất xa, tâm thức của các ngài chỉ mới đi được độ một
phần ba đoạn đường, thành tựu quản không, chưa ra quản giả và đi sâu vào trung
đạo. Còn ở đây là bờ mé của sắc và không, tâm thức của các ngài đã đi sâu vào
trung đạo, là bờ mé để các vị sắp bước vào Nhập pháp giới trọn vẹn rồi.
HỎI: Trong kinh Pháp
Hoa, cuối cùng cũng là ngài Phổ Hiền xuất hiện, kinh Hoa Nghiêm cũng vậy? Đó là
một sự tình cờ hay có một ý nghĩa nào khác?
ĐÁP: Ngài Phổ Hiền tượng
trưng cho cái diệu hạnh, phải làm tất cả những diệu hạnh ấy một cách ba la mật
để cuối cùng mới đến được Phật quả. Ngài Phổ Hiền cũng là một vị Phật, nhưng
ngài lại tượng trưng cho diệu hạnh, cũng như ngài Quán Thế Âm tượng trưng cho
Đại Bi. Nhưng cũng phải hiểu rằng, các ngài vừa tượng trưng cho một hạnh,
nguyện nào đó, vừa là Phật.
Khi chúng ta xuống phố
chơi, nhìn thấy mọi cảnh giới, nhà cửa, chùa chiền, phố xá, người đi như mắc
cửi v.v…, ta quán rằng, những thứ đó đều mọc trong tâm mình ra, tâm ta ảnh ra
pháp giới ấy. Đó là lối quán cao nhất trong đạo phật, có thể gọi là quán như
huyễn. Phải có một định lực cao mới có thể ngồi yên trong một chốn lao xao, ồn
ào mà thấy tất cả những thứ đó đều mọc từ trong tâm mình, lúc đó chúng ta hơi
nhập vào pháp giới một chút rồi, tức là thấy chúng sanh ngọ nguậy trong tâm
mình, biết rằng những thứ đó không thật có, đều chỉ là những ảo ảnh, do từ nhân
duyên nhiều kiếp kết tụ, đến kiếp này nở ra như vậy. Ngược lại, chính chúng ta
cũng ở trong tâm các chúng sanh ấy ra. Đó là sự trùng trùng ảnh hiện của pháp
giới này, vì không có một cái gì đơn thuần hay riêng tư độc lập, mà tất cả đều
trùng điệp thẩm thấu liên quan với nhau, nương vào nhau để hiện lên mà thôi.
HỎI: Với tâm quán chiếu
ở mức độ bao la, đó có giống như bên Duy Thức nói đến chữ “Đại viên cảnh trí”
không?
ĐÁP: Duy Thức là sự giải
thích của con đường hiện tướng đi vào vọng, lại còn hơi chấp có. Nhưng khi tâm
thức lên đường TRỞ VÊ, lặn sâu vào Tàng thức, chuyển thành Bạch tịnh thức..,
thì vào cảnh giới của Hoa Nghiêm. Ngày xưa, sau thời ngài Long Thọ khoảng hai trăm
năm, trong đạo Phật có hai trào lưu: Một là Pháp tướng tông (Duy Thức), chấp
có. Hai là Bát Nhã tông, chấp không. Đệ tử của hai phái đó thường cãi nhau kịch
liệt, vì các vị đều chấp vào con đường của mình, đều có lý giải riêng, bên nào
cũng nghĩ mình là đúng, mà không hiểu rằng cả hai đều dung thông nhau.
KINH: Thiện Tài thấy vô
lượng đại thần thông lực bất tư nghì của Phổ Hiền Bồ Tát như vậy, liền được
mười thứ trí ba la mật…
GIẢNG: Trong Hoa Nghiêm
nói rõ, Bồ Tát nếu không có thần thông thì không thể nào độ sanh, ở mức độ
thấp, Phật cấm thần thông, vì nếu phô trương thì chỉ làm tăng thêm ngã mạn.
Nhưng lên cao, bắt buộc phải có thần thông để độ sanh. Vì khi một vị Bồ Tát
ngồi thuyết pháp, nếu có một vài loại chúng sanh, như Ma Ba Tuần đến bảo rằng,
ông nói thì tôi thấy cũng hay đây, nhưng ông nói được mười phần thì tôi cũng có
thể nói được tám, chín phần, vậy ông phải hiện thần thông cho tôi xem tôi mới
chịu tin. Vị Bồ Tát này bắt buộc phải hiện thần thông, còn không hiện được thì
chỉ biết có lý mà chưa có sự. Trong các vị Tổ Thiền Tông bên Tây Trúc, các ngài
hiện thần thông rất nhiều, khi tịch diệt bao giờ cũng bay lên không cao bảy cây
đa la, thân chói sáng như mặt trời, trên tuôn lửa, dưới tuôn nước, để cho chúng
sanh ngắm, sau từ từ đáp xuống đất ngồi xếp bằng tròn mà thị tịch.
KINH: Như là, trí ba la
mật trong mỗi niệm đều có thể đi khắp tất cả cõi phật. Trí ba la mật trong mỗi
niệm đều có thể qua đến tất cả cõi Phật. Trí ba la mật trong mỗi niệm đều có
thể cúng dường tất cả Như Lai. Trí ba la mật trong mỗi niệm ở khắp chỗ của tất
cả Như Lai để nghe pháp và thọ trì. Trí ba la mật trong mỗi niệm tư duy pháp
luân của tất cả Như Lai. Trí ba la mật trong mỗi niệm biết sự đại thần thông
bất tư nghì của tất cả Phật. Trí ba la mật trong mỗi niệm nói một câu pháp tột
thuở vị lai biện tài vô tận. Trí ba la mật trong mỗi niệm dùng thân bát nhã
quán tất cả pháp. Trí ba la mật trong mỗi niệm nhập tất cả pháp giới thiệt
tướng hải. Trí ba la mật trong mỗi niệm biết tâm của tất cả chúng sinh. v.v…
GIẢNG: Khi Bồ Tát tu lên
trên, độ cuối cùng là độ trí.
Tôi xin ngưng ỏ đây, để
dành một ít thì giờ trả lời câu hỏi của một vị Phật tử từ kỳ trước. Đây là một
câu hỏi rất hay, nên tôi muốn đem ra mổ xẻ xem quý vị nào có ý kiến gì không.
HỎI: Trong sách có kể
lại chuyện ba anh em của ngài Thế Thân cùng tu, và cùng xin nguyện được lên cõi
trời Đâu Xuất sau khi mãn báo thân này. Và có hẹn nhau rằng, ai chết trước sẽ
về báo mộng cho những người còn ở lại. Sau đó, Ngài Sư Tử chết trước, không thấy
về báo mộng, vị thứ hai là ngài Vô Trước (hay Thế Thân gì đó mà tôi không nhớ
rõ), sau khi ngài chết xong khoảng ba năm sau mới về báo mộng. Ngài kể rằng:
“Tôi đã lên cung Đâu Suất vào trong Nội Điện, chỉ được nghe một thời pháp rồi
xuống đây ngay để báo mộng cho em, vậy mà thời gian dưới này đã trôi qua ba năm
trường. Tôi cũng có gặp anh Sư Tử vẫn còn lảng vảng ở Ngoại Viện vì chỉ thích
nghe Thiên nữ đàn hát chứ không vào nghe pháp.” Vậy câu hỏi được đặt ra là, tại
sao trên cung trời ngài Thế Thân chỉ kịp vào trong nội điện, nghe pháp được một
lúc thôi, thì xuống trần đã là ba năm. Vậy thì người trần thế trong ba năm làm
được rất nhiều việc, có thể lấy vợ, sinh con, đi học ra trường, đi làm v.v…,
vậy thì tại sao trên trời lại… kém thế? thời gian quá ngắn, chẳng kịp làm được
việc gì cả? chỉ nghe được một thời pháp mà thôi?
Quí vị nghĩ sao về câu
hỏi này? có ai có ý kiến gì không?
(Trong đạo tràng xôn
xao, mỗi người mỗi ý, có vị giải thích theo khoa học, có vị giải thích theo tâm
thức, có vị dựa trên Phật giáo để giải thích. Người đánh máy chỉ lấy ra một vài
ý kiến sát với đạo Phật nhất mà thôi.)
Ý kiến của ông Mậu: Theo
con mắt Phật giáo, tôi nghĩ rằng trên ấy thời gian và không gian, có lẽ… không
có nhiều, còn dưới này có thời gian và không gian, nên chúng ta nghĩ rằng thời
gian dài ngắn chứ thực ra… không có.
ĐÁP: Câu trả lời của ông
nói cũng hay đấy, nhưng trên trời vẫn có không gian và thời gian, vì ở mức độ
các tầng trời nó chưa được hóa giải, song thời gian và không gian hơi có khác,
vì trên đó nó đã thăng hoa nhiều rồi.
Ý kiến của anh Xứng:
Trên cõi trời, mạng sống chư Thiên rất dài, vì trong kinh nói, ở tầng trời Tứ
Thiên Vương (tức là ở dưới cung trời Đao Lợi), một ngày một dêm bằng năm mươi
năm ở cõi trần gian này, và thọ mạng của các vị trên đó là năm trăm năm. Nếu
làm một con tính thì so với thời gian ở nhân thế chắc khoảng nhiều triệu năm,
nên họ cũng vẫn làm rất nhiều việc, thọ mạng chúng ta chỉ có khoảng bảy mươi
đến tám mươi năm mà thôi, thì ăn thấm gì với cái nhiều trên trời?
ĐÁP: Ha… ha…, anh trả
lời hơi… lệch qua một bên rồi, vì anh không giải đáp đúng vào câu của người
hỏi. Người hỏi có ý chê các vị trên trời, vì chỉ cần cùng một khoảng thời gian
như thế, mà dưới nhân gian chúng ta làm được rất nhiều chuyện, mà trên trời chỉ
có kịp nghe một thời pháp thôi. Nên tôi nghĩ, chắc ông Minh Đạo, người đặt câu
hỏi, chưa lấy làm thỏa mân lắm đâu.
Ý kiến của cháu Toàn:
Theo cháu, cháu chỉ muốn đưa ra một thí dụ nhỏ để quí bác nghĩ xem có đúng
không? Dụ như có hai anh học trò vào lớp học, chỉ ngồi trong lớp khoảng một
tiếng thôi, một anh thì ngồi mơ mộng chỉ nghĩ ngợi lung tung nên chỉ cần trong
một tiếng đồng hồ anh có thể vẽ mộng rất nhiều chuyện, nhưng không có chuyện
nào ra chuyện nào cả. Ngược lại, anh học trò kia, cũng thời gian là một tiếng,
chỉ lo chăm chú làm bài thi. Vậy thì quan niệm thời gian đối VỚI anh học trò
ngồi vẽ mộng rất dài, ngồi mãi mà giờ học không tan, còn đối với anh học trò
kia, vì làm bài chăm chú nên một tiếng trôi qua đối với anh ta trôi qua rất
nhanh. Nên quan niệm thời gian chỉ khác biệt theo cái nhìn của mỗi người. Cũng
vậy, người nhân thế chỉ lo làm những chuyện… tùm lum, không có chuyện nào ra
chuyện nào nên thấy dài, nhưng người trên trời lo thiền định thì lại thấy thời
gian rất ngắn.
ĐÁP: Theo ý tôi, chú nhỏ
này nói có lẽ đúng nhiều nhất, nhưng chưa diễn tả được rõ ý chính.
Ý kiến của ông Tâm: vấn
đề thời gian ở đây chỉ là thời gian vọng tưởng, nên chúng ta chấp có thời gian
có dài, có ngắn, nhưng thật ra thời gian không phải như vậy. Nên khi so sánh
thời gian thì ta cứ tưởng ta làm được nhiều việc, nhưng rốt cục chẳng làm ra
việc gì chính đáng cả, chỉ ăn với ngủ thôi.
ĐÁP: Ông Minh Đạo (người
đã đặt câu hỏi) nghĩ sao về những câu trả lời của các vị trong ban kinh? Ông có
thỏa mãn về những sự trả lời nào không?
Minh Đạo: Từ nãy giờ,
những câu trả lời không giải thích được thỏa đáng hẳn vào câu hỏi của tôi. Vì
sao? Vì nếu theo như cháu Toàn nói, vấn đề thời gian chỉ là của tâm lý mỗi cá nhân thôi, vì cùng một giờ, mà
tâm lý của mỗi cậu học trò khác nhau. Câu trả lời này, nếu suy tư sâu xa, thì
vẫn… chưa thấy ổn, vì sao thế? Vì cũng cùng một thời gian, ở nhân thế là ba
năm, ở trên cung trời Đâu Suất chỉ ngắn bằng một thời kinh, vậy tại sao trên
trời làm cái gì mà chậm thế? Trong khi người nhân gian đã làm được bao nhiêu
chuyện to lớn rồi.
Ý kiến của Anh Khiêm:
Theo tôi nghĩ, nếu đem so sánh loài người chúng ta với các vị trên trời chỉ
giống như những lũ côn trùng so sánh với chúng ta vậy. Như con phù du chẳng
hạn, chỉ cần một ngày là đã xong một đời của nó. Nếu nhìn theo thời gian vật lý
thì như nhau, một ngày của chúng ta, bằng một kiếp của con phù du, nhưng đứng
trên tâm thức thì có khác biệt. Nên tuy chúng ta gọi là làm được nhiều việc
thật, nhưng tâm thức chúng ta chẳng biết gì, còn một bài pháp mà ngài Thế Thân
nghe được trên cung trời, tôi nghĩ (hơi ngập ngừng vì không chắc ý) nó… nó… vi diệu…,
thâm sâu nhiều…
ĐÁP: So với con giun,
con dế, một kiếp của nó chỉ kéo dài độ vài ngày, sinh con đẻ cái, rồi chết.
Trong khi con người, khoảng thời gian vài ngày chẳng làm được gì cả? như vậy
chẳng nhẽ con giun (trùng) hơn người chăng? Ha… ha…, nực cười thay cho cái vòng
luẩn quẩn của pháp giới này. Thử tượng tượng, một đám giun, dế họp nhau lại,(
như chúng ta họp ở đây), vỗ ngực vênh vang cho rằng, loài trùng chúng tôi còn
hơn loài người các ông xa, vì chúng tôi đây, làm được lắm chuyện hơn các ông
nhiều lắm, ha… ha…
…(Cả pháp hội cười ồ!)…
Nay, tôi xin trả lời câu
hỏi của ông Minh Đạo…
Theo như nhận xét của
tôi về những câu trả lời của các vị trong ban kinh, tôi thấy câu trả lời của
cháu Toàn, ông Tâm và anh Khiêm có nhẽ gần đúng hơn cả. Vì vấn đề là chúng ta
phải phân tích những sự việc, và thế nào là việc? Theo trong kinh vẫn thường dạy,
trên trời ít việc, vui nhiều, khổ ít, duyên lự ít, (duyên lự là lo nghĩ
tùy theo nghiệp duyên), định lự nhiều, (tư lự trong những cơn
định). Còn thế gian thì vui ít, khổ nhiều, duyên lự rất nhiều, lo lắng
nhiều quá, gần như bị nghiệp lực hoàn toàn chi phối, tức là lúc nào cũng phải
lo nghĩ về việc phải làm. Nói một cách khác, “việc” là gì, đều chính do duyên
lự mà ra, phải nghĩ cái này, cái khác, và làm chuyện này, chuyên nọ. Thử nghĩ
kỹ, con người rất nhiều việc, riêng chỉ nói đến thân này thôi cũng đủ kéo ra
biết bao nhiêu việc, như ta phải lo cầy cấy, canh tác, trồng trọt, trồng dâu
nuôi tằm, dệt vải, xây cất v.v… tất cả những việc đó để lo cho con người có một
đời sống tương đối dễ thở, rồi sau đó lại phải nấu cơm, rửa bát v.v…, lớn lên
lấy vợ, rồi sinh con. Mà chuyện tình dục của con người rất… phiền toái, chỉ cần
cao hứng một chút là ra một đứa con, rồi phải nuôi, phải dạy dỗ, đau khổ, hay
sung sướng vì nó v.v… cứ thế, chuyện này tiếp nối chuyện khác không lúc nào
ngơi nghỉ. Ngay cả đến sự giải trí của chúng la cũng phải làm đủ mọi chuyện, từ
những đồ chơi giải trí phải mất công chế tạo, sau đó cũng phải đến chỗ giải
trí, như nghe nhạc, nhảy nhót, đánh bạc, uống rượu v.v… chỉ có một thú giải trí
ít tốn tiền và công nhất là thú đọc sách thôi. Rồi đến khi chết thì đầy sự sợ
hãi, có khi bệnh tật kéo dài nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm. Tóm lại, chúng
ta Rất-nhiều-việc, và việc của chúng ta là do cái xác thân
này, còn duyên lự nhiều, vì hay so đo, chấp chước nhiều nên thành những việc
như thế. Và phải hiểu việc của người và việc của trời khác nhau thế nào, đằng
nào tiến bước nhanh hơn. Ngược lại, trên trời vui nhiều, khổ ít, không bao giờ
phải lao tác mới có cơm ăn, áo mặc, các vị chư Thiên không cần phải dệt vải để
có áo mặc, không cần cầy cấy để có cơm ăn, thức ăn cứ hiện ra thôi, ăn xong lại
biến đi, mà trên đó lại có những thứ cây mọc ra những loại áo rất đẹp, các chư
thiên cứ lấy những áo đó khoác lên người, cung điện cũng không phải xây cất,
sanh ra đã có cũng điện sẵn rồi, khi nghe Phật nói pháp cũng có thể mang luôn
cả cung điện đi theo, (vì nó dính vào người), suốt ngày chỉ
rong chơi trong vườn Hoan Hỉ, chỉ nghe những thiên nữ múa hát và những cây phát
ra tiếng âm nhạc, ngay chuyện tình ái của họ cũng rất nhẹ nhàng, Thiên Tử và
Thiên Nữ chỉ nhìn nhau mỉm cười, không có sự chung đụng gối chăn, tinh huyết,
thì người nữ sẽ thọ thai ngay, cái thai là một cục bứu mọc trên đầu gối hay ở
nách, cái thai ấy rơi xuống thành thiên tử, không cần phải nuôi nấng gì mà cứ
theo thời gian lớn lên thôi, chỉ ăn những thức ăn trên trời tự nhiên hiện đến,
thỉnh thoảng lại đi vào Thiện Pháp Đường, nghe vua Đế Thích nói pháp về thập
thiện, hay vào cung Đâu Suất nghe ngài Di Lặc nói về Bát Nhã và giảng duy thức.
Nhưng chỉ nghe một thời thôi các vị có thể đắc đạo được ngay, trong khi dưới
nhân gian chúng ta cả nghìn bài pháp, hay vài vạn bài pháp mà chưa thấy đắc
được gì cả.
Tóm lại, nhân gian chúng
ta quá dở, tâm quá sức cạn cợt, khổ lụy nhiều, chỉ để cho nghiệp lực tự do tung
hoành, nên chúng ta có đủ các thứ duyên lự đưa đến đủ các việc lăng nhăng,
nhưng không việc nào có thể đưa chúng ta đi lên cả.
Vì vậy, nên dưới nhân
thế trong ba năm, ta có thể đọc ba trăm cuốn sách, nhưng tâm thức chẳng tiến
được mấy tí, ngược lại, càng ngày càng đi vào vọng, càng ngày càng duyên lự nhiều,
càng phiền lụy nhiều. Nhưng các vị chư Thiên chỉ cần nghe một câu pháp, có thể
đi vào bình diện tâm thức sâu hơn, và có thể tiến tu được. Nên mỗi nơi có những
sự việc của nó, và những cái vui hay khổ lụy của riêng nó.
Tôi giải như thế không
biết ông có thỏa mãn được chút nào chăng?
Minh Đạo: Trước khi đặt
câu hỏi, tôi có dẫn chứng một đoạn kinh trong Pháp Hoa, sau khi đức Phật giảng
kinh”Vô Lượng Nghĩa xứ,”ngài nhập vô lượng xứ định để biến tâm thức của chúng
hội thấy được tất cả những sự thành, tựu, hoại, không của pháp giới, trùng
trùng bao nhiêu cõi biến hóa, mà tất cả chúng hội đều thấy rõ. Nếu so với thời
gian của nhân gian để nhìn thấy những dữ kiện ấy phải mất một khoảng thời gian
dài hằng hà sa số kiếp, vậy mà ngài chỉ thu lại bằng thời gian uống xong một
chung trà.
ĐÁP: Trong trường hợp
này lại khác, vì có thần lực của Phật gia trì, nên thời gian kéo dài hay ngắn
vô ngại, tùy tâm ngài khởi lên thế nào chúng hội sẽ thấy như vậy. Vì thời gian
và không gian đối với ngài đã được hóa giải, ngài có thể nhìn thấy ba đời (quá
khứ, hiện tại, vị lai) hiện tiền trước mắt, mà thần lực của các ngài thì vô
cùng, ngài có thể gia trì cho một người, nhiều người, một cõi, nhiều cõi, nhẫn
đến hằng hà sa số cõi nhìn thấy không biết bao nhiêu biến chuyển mà những người
được Phật gia trì cho thấy chỉ có cảm giác trải qua một thời gian rất ngắn.
Nhưng ở đây, câu trả lời chỉ nói theo nghiệp riêng của mỗi loài chúng sanh có
mỗi khác, vì tâm thức bất đồng, nên thời gian có mau, có chậm mà thôi. Cũng
vậy, như một con giun (trùng) không thể vênh vang chê loài người làm ít việc,
vì những việc của con giun làm không phải là “việc,” vì mức độ tâm thức của nó
quá thấp, chỉ đi qua một chu kỳ sinh lý thế thôi, mà không có một chu kỳ tâm
thức vi diệu. Và những việc của loài người, con trùng không thể làm được, nên
nó không thể vênh vang vỗ ngực nói hơn người. Cũng vậy, chúng ta cũng không thể
tự cho là hơn các vị chư Thiên cõi trời, vì những việc của chúng ta còn ở trong
một mức độ tâm thức thấp và còn rất thô kệch, chỉ có ăn, uống, ngủ nghỉ và đắm
nhiễm trong dục lạc… Còn người có một tâm thức cao hơn một chút thì cũng biết
đọc sách, nếu chỉ là những sách lăng nhăng của thế gian thì tâm thức càng ngày
càng đục ngầu, làm con đường vọng để cho chúng ta đi xuống, trôi lăn mãi. Trong
khi các vị chư Thiên chỉ nghe một thời pháp tâm thức họ có thể thăng hoa. Nên
chúng ta phải biết nhìn những cứu cảnh kết quả của sự làm việc hơn là so sánh
nhiều hay ít, nói cách khác, ta phải nhìn cái phẩm nhiều hơn cái lượng.
HỎI: Vậy tại sao bên
tiểu thừa khi một vị Tư Đà Hoàn chết đi còn phải trở lại cõi này bảy lần? Nếu
mức độ tâm thức đã đạt đến bực thánh như thế thì còn phải trở lại làm chi?
ĐÁP: Đúng, trong kinh có
nói các vị Tư Đà Hoàn (nhập lưu, tức là được nhập vào hàng thánh), còn trở lại
dục giới bảy lần, nhưng trong dục giới có cả tầng trời chư Thiên luôn chứ không
phải chỉ có trần gian này. Còn vị Tu Đà hàm chỉ phải trở lại một lần thôi.
Con người là ở một mức
độ cùng cực (situation limite), nghĩa là nó ở mức độ đi xuống rất dễ, mà đi lên
cũng được, và cũng là một chỗ giằng co giữa thiện và ác, giữa tịnh và uế, giữa thăng hoa và chìm nổi, giữa
đời và đạo v.v… tâm thức con người tương đối cao, đồng thời phiền lụy cũng rất
ghê gớm, nó là một chiến trường khốc liệt nhất, làm cho chúng ta đọa cũng dễ,
hay thăng hoa đi lên cũng được. Bởi vậy nên con giun (trùng) không thể so sánh
với loài người được vì nó chưa lên đến mức độ tâm thức cao như người. Còn nói
đến các vị chư Thiên đã đi qua cái cửa ải khó nhất là cửa ải loài người rồi, đã
đi lên được ít nhiều, tâm thức nhẹ nhàng thanh tịnh hơn nên dễ chuyển hóa hơn.
HỎI: Trong kinh có danh
từ “sát na” đó là dựa trên cái sát na thời gian ở đâu? trên trời hay cõi nhân
gian này?
ĐÁP: Ở mỗi nơi, có thời
gian và sát na riêng của nó. Như dưới nhân gian, trên trời, loài côn trùng, một
hệ thống thái dương hệ, hay bên cõi Cực Lạc v.v… mỗi một nơi có một thời gian
riêng và sát na của nó, mà cái sát na là chỉ một thời gian ngắn nhất của mỗi
cõi. Nhưng đều tùy theo tâm thức và nghiệp lực của chúng sinh mà thời gian dài
hay ngắn, nên không thể nói sát na ở mọi chỗ đều giống nhau.
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
Ngày 9 tháng 6 năm 1991
Hôm nay là buổi thuyết
giảng thứ một trăm hai mươi chín về kinh Hoa Nghiêm và đồng thời cũng là buổi
thuyết giảng thứ mười sáu về Đại Bát Nhã tại chùa này.
Trong ban Kinh Hoa
Nghiêm chúng ta từ năm, sáu năm nay, đã có một số người lần lượt ra đi. Bắt đầu
là cụ Giáo Anh, sau đến bà Bách, mới đây là con của anh Đạo, tuy rằng người con
anh này còn rất trẻ. Tôi chắc rằng, trong ban kinh này, những vị lớn tuổi, đôi
khi cũng cảm thấy thấp thỏm về chuyện ra đi ấy, nghĩ rằng mình sắp sửa phải qua
một cái cầu khỉ trơn như mỡ rất khó đi qua. Nhưng riêng tôi, tôi nghĩ rằng,
người tu hành giữ giới thi-la, không trọng thân mạng vì thường dùng con mắt ảo
để quán sát thân mình. Lại nữa, trong kinh có nhắc, những người tu hành theo
lối quán như huyễn, lên đến mức độ cao thì ngay tụi quỷ đi kiếm mình cũng không
thể thấy được. Vì vậy, y cứ vào hai lời kinh trên, tôi mong quí vị nên tập quán
huyễn, vì thực đúng như vậy.
Khi chúng ta còn bám vào
kinh, còn tụng kinh đều, còn tin vào kinh, đôi khi quán huyễn, tôi chắc rằng
mọi sự đến với chúng ta đều nhẹ nhàng và an lạc, ngay cả cái chết có đến cũng
không làm gì được chúng ta cả, cùng lắm là chỉ mất đi cái thân căn này, nhưng
giới căn huệ mạng không bao giờ mất.
Nên tôi thường nhấn mạnh
và nhắc đi nhắc lại nhiều lần về sự “khởi vọng,” về chữ
“vô minh bất giác.” Chắc quí vị đã nghe nhiều nhưng có thể
chưa lý hội được rõ. Vậy thì thế nào là Vô minh bất giác? Vô minh bất
giác là hôi nhiên quên rằng chính mình và pháp giới này, tất cả chúng
sanh, núi non, cây cỏ, trăng sao v.v… đều từ biển diệu tâm ấy hiện ra, không có
một cái gì có thực, nhưng hốt nhiên, bất giác, tương tự như trong biển lớn
ấy (diệu tâm) có một đợt sóng khởi lên, tự tách ra ngoài, rồi
quay đầu nhìn lại biển tâm ấy. Vì vậy tôi hay nhấn mạnh đến tác động soi gương
của Diễn Nhã Đạt Đa trong kinh Lăng Nghiêm, bỗng nhiên tự soi gương vào chính
cái tâm mình, và trong tác động soi gương ấy, làm lóe lên tất cả những mê vọng.
Mê vọng thứ nhất là y báo bên ngoài (tất cả cảnh vật bên ngoài), cứ
tưởng là có thực, và tồn tại độc lập với tâm mình. Mê vọng thứ hai chính là
thân căn này lại tưởng là có thực, vì quay lại tự chiếu soi nên lóe tất cả
những mê đồ ảo vọng, vì tâm ánh ra tất cả những mê vọng ấy và chúng sanh cứ
tưởng là thực. Nhưng trong đạo Phật rất kỵ sự quay lại chiếu soi ấy, như trong
kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương, có kể một câu chuyện “không quay
đầu lại” rằng: Có năm trăm người lái buôn ra biển tìm châu báu, giữa
đường gặp bọn quỷ La Sát hóa làm những gái đẹp, đem tất cả về chia nhau để làm
chồng. Một hôm vị chủ thuyền được một quỷ La Sát (không biết vì duyên
cớ gì) hồi tâm, mách anh rằng, đây là hòn đảo của quỷ La Sát ở, không
tin, chàng hãy qua bờ biển bên phía Nam sẽ thấy một chỗ chất toàn xương người.
Quả nhiên, khi vị thương chủ đi về phía ấy thấy núi xương người thật. Lúc đó,
có Đức Quán Thế Âm hóa làm con thần mã ở bờ biển, mách rằng, ngày mai, ngươi
hãy gọi tất cả những người muốn về cố quốc tới đây, ta sẽ đưa các ông về, nhưng
với một điều kiện là không được quay đầu nhìn trở lại… Hôm sau, năm trăm người
thương chủ ra biển theo ngài Quán Thế Âm, (lúc bấy giờ là Thần
Mã), khi thần mã sắp cất cánh bay, tụi quỷ La Sát hiện hình những cô
gái đẹp, kêu la thảm thiết, kể lể bao chuyện mặn nòng thắm thiết với nhau,
những người quay đầu lại đều bị rớt xuống biển, lúc bây giờ tụi quỷ vớt lên ăn
thịt hết. Sự “quay đầu lại” có nghĩa là nhớ tưởng, khi tụi quỷ
kêu thì các thương chủ liền nhớ lại những kỷ niệm cũ, nhớ những phút ái ân hay
những thú vui dục lạc, thì lập tức lòng chao động, vì vậy nên bị rớt trở lại,
vì vậy mới bị quỷ ăn thịt hết.
Trong đạo Phật rất kỵ
chuyện quay đầu trở lại, vì khi chúng ta nhìn về quá khứ nhiều quá, nhớ tưởng
lung tung, như những người tỵ nạn chúng ta, cứ hay quay trở về quá khứ, nhớ
tưởng Sàigòn. Đừng có tưởng quê hương thật của chúng ta là Việt Nam đâu, vì
chúng ta đã trải qua rất nhiều kiếp, đi lang thang qua nhiều cõi, nên không có
nơi nào nhất thiết là quê hương của mình cả. Đó chỉ là những nơi mỏi gối chồn
chân, khách tha hương dừng lại trên con đường giang hồ mải chơi, mà quê hương thật
của chúng ta chính là Cực Lạc, là cái Tâm của chính mình, vì nơi nào có nhiều
thần thông nhất, thì nơi đó là quê hương của mình, còn nơi nào nhiều đau khổ,
nhiều kỷ niệm vớ vẩn nhất chỉ là nơi sau này chúng ta sẽ về để độ sanh thôi.
Nên trong đạo Phật có kinh “người biết sống một mình”, có
nghĩa là họ không nhớ tưởng đến quá khứ, không dự tưởng đến tương lai, mà chỉ
sống trong hiện tại với tâm không chao động. Trong kinh Đại Bát Nhã cũng dạy
như thế, dạy rằng, đừng nhớ tưởng phân biệt. Nhớ là nhớ đến quá khứ, tưởng là
vọng tưởng đến cái vị lai, phân biệt là phân biệt các pháp này với pháp khác,
nên bị dính vào những pháp ấy, mà phải chịu những khổ lụy triền miên.
Một ngày nào đó, khi lâm
chung, thần thức chúng ta lìa khỏi xác, lúc đó rất dễ rơi vào sự hoang mang
tiếc nuối, nhớ tưởng kinh khủng, nhớ chồng, nhớ vợ, nhớ những đứa con, những kỷ
niệm, và nhất là nhớ tiếc cái thân mình vừa rời bỏ v.v… thì dễ bị đọa lắm. Như
có một câu chuyện có một vị thương gia giàu có, nhưng tính tình rất hà tiện, có
một hũ vàng dấu dưới gậm giường, đến khi mạng chung, nhưng không nỡ rời hũ vàng
của mình, vì tâm còn tiếc nuối quá, nên quay lại, muốn đầu thai để có một cái
thân, nhưng trong nhà không có ai thụ thai cả, chỉ có một con chó cái đang có
chửa, nên thần thức ông ta chui ngay vào đấy, làm thân chó, cả ngày nằm trong
gậm gường canh giữ hũ vàng ấy. Một hôm đức Phật đến, con chó cứ đứng trong nhà
sủa ra mãi, đức Phật mới nói rõ tiền thân của nó như thế, mọi người trong nhà
mới biết đó là bố mình, vì tiếc của mà phải bị làm thân chó. Nên việc “quay
đầu lại” rất nguy hiểm, nhưng không có nghĩa rằng ta cứ lùi lũi mà đi
một cách vô ơn, bạc nghĩa, ngược lại ta vẫn nhớ đến những ơn ấy, nếu có dịp sẽ
trả ơn nhưng không bị đắm nhiễm trong ấy.
Một câu chuyện thần
thoại thứ hai là chuyện con rắn, mình rất dài, nếu nó chỉ ngang nhiên đi một
cách ung dung không nhớ tưởng thì không sao, nhưng hốt nhiên một ngày nào đó,
nó bỗng quay đầu lại, nhìn thấy thân mình dài quá, tít cùng lại có cái đuôi
ngoe nguẩy. Lúc đó, hốt nhiên khởi vọng, nghĩ rằng cái đuôi ấy không phải là
mình, rồi từ đó Minh đầy những vọng. Cũng như phàm phu chúng ta sống trong pháp
giới này, cứ nghĩ rằng pháp giới này không phải của mình, mà chấp nó là một cái
gì riêng biệt với mình, nhưng trong kinh nói rõ, nó chính là tướng phần, từ
tàng thức ánh ra pháp giới này, còn kiến phần thì hiện ra thân căn chúng ta.
Chúng ta chính là diệu tâm, tự tách ra khỏi sự nhất như ấy, rồi quay lại nhìn,
nên rơi vào sự phân đối.
Lần trước, tôi đã giảng
một phần về điều này, hôm nay tôi muốn đọc cho quí vị nghe một khúc kệ ngắn
trong kinh Lăng Già nói y như vậy, nghĩa là nói đến sự “soi gương.” Kinh
Lăng Già là một bộ kinh rất khó hiểu, danh từ rất cô đọng, vì Phật nói cho các
vị Bồ Tát nghe nên chúng ta đọc chỉ mong hiểu được một phần nào.
KINH: Khi ấy, Phật trùng
tuyên nghĩa ấy nên nói bài kệ sau đây:
Huyễn mộng nước bóng
cây.
Tóc xõa và hơi nóng.
GIẢNG: Huyễn mộng tức là
cảnh huyễn, cảnh nào cũng là mộng. Như vừa rồi quí vị tụng một đoạn kinh Bát
Nhã nói rằng, thấy các pháp đó đều như huyễn, nghe các âm thanh như trong mộng.
Nên tôi vẫn nói, khi sống trong đời này, thỉnh thoảng ta giật mình ý thức thấy
rằng tất cả các pháp đều như mộng ảo, thì đó là những giây phút có thể cứu giúp
quí vị rất nhiều, vì nó sẽ giảm bớt đi những đắm say và sa ngã.
“Huyễn mộng nước bóng
cây…” cảnh giới bên ngoài là huyễn, vì
tất cả chỉ là ảnh tượng, là mộng huyễn như “nước bóng cây…” ví
như cây bên bờ sông chiếu xuống nước, thì cảnh giới chúng ta nhìn thấy cũng y
như thế, chỉ là bóng cây dưới nước thôi, không thật có.
KINH: Tóc xõa và hơi nóng…
GIẢNG: Trong kinh Lăng
Nghiêm có nói một ví dụ như một người bị bệnh đau mắt, nhìn bóng đèn thấy hoa
bóng đèn lòe chung quanh nó, còn người mắt sáng thì không thấy. Chúng sanh mê
cũng tương tự như người bị bệnh đau mắt trông thấy hoa đèn như hoa đốm giữa hư
không. Còn ở đây, ví như “tóc xõa,” tức là cảnh giới giống như
một hình ảnh tóc xõa hiện ra trước mắt, chỉ là một ảnh tượng mà thôi. Còn “hơi
nóng” là khi quí vị đi trên sông vào những buổi trưa nắng gắt, hơi
nóng bốc lên tạo lên nhiều ảnh tượng trên sông, nhưng thực ra thì không có gì
cả.
KINH:
Quán ba cõi như vậy.
Rốt ráo được giải thoát.
GIẢNG: Nếu chúng ta hay
nhớ những thí dụ ấy và quán như huyễn nhiều, thì như tôi vừa nói, ngay loài quỉ
đến muốn bắt cũng không thể thấy. Và quán như vậy là lối quán cao siêu nhất, nó
là trung đạo song chiếu, vừa là giả vừa là không. Ngoài ra, tất cả những quán
khác như quán hơi thở, các ấm, hay quán nhân duyên đều ở mức độ thấp hơn, vì
sao? Vì những thứ quán ấy vẫn còn chấp có trong, có ngoài, vẫn có tự, có tha,
còn vấp trong vòng nhị biên nên không được gọi là “rốt ráo.”
Trong Bát Nhã, ta thấy
có mấy tầng lớp quán chiếu, đầu tiên là quán vô thường, sau quán nhân duyên,
cuối cùng mới đến quán như huyễn, quán như huyễn là lối quán cao nhất, nhiều
công đức nhất.
KINH:
Ví như nai khát nước.
Tâm mê hoặc động chuyển.
GIẢNG: Ví như con nai
khát nước trong rừng sâu không kiếm được nước, bị cái khát rày vò giữa dòng
sống sinh tử, và cái khát nước của nó giống như sự ái dục của chúng sanh đi
trong đêm tối ái dục ấy, lúc nào cũng khao khát mọi thứ, như khát tiền, sắc
đẹp, vinh hoa, tương tự như con nai khát nước vậy. Vì vậy, tâm mê ái dục ấy,
nên bị mê loạn, động chuyển.
KINH:
Tưởng bóng nắng là nước.
Mà thực không có nước.
GIẢNG: Nai chạy lâu quá
khát nên nhìn đằng xa thấy bóng nắng rung rinh nên nhìn ánh lên tưởng như có
nước, kỳ thật chỉ là bóng nắng thôi. Chúng ta đi trên đường giữa trưa trời nắng
cũng thế, nhìn xuống mặt đường phía xa, thấy óng ánh như ướt nước, nhưng kỳ
thực không phải. Chúng ta tâm ái dục mong cầu nhiều, nhìn cái gì cũng lệch lạc
duyên theo tâm ái dục của mình. Nên Phật dạy, tất cả cảnh giới chúng ta thấy
chung quanh, như người, đồ vật, nhà cửa, cây rừng v.v… đều là những ảo ảnh nước
thôi, không thật có, muốn nắm bắt cũng chỉ như nắm bắt hoa đốm giữa hư không.
Mà chúng ta bị đọa làm thân người, súc sanh, ngạ quỉ v.v. ... đều chỉ vì trong vô
lượng kiếp, không bao giờ chúng ta chịu nhìn vào tâm, mà chỉ nhìn vào vật bên
ngoài, chỉ dùng tâm để hướng ngoại, như nhìn con cái, nhìn vợ, nhà cửa, của
cải, tiền bạc v.v.. mà không bao giờ quay đầu lại nhìn vào tâm cả. Nên thỉnh
thoảng chúng ta nên tập dừng chân lại, không chạy theo vật nữa mà nên nhìn vào
tâm mình, nhìn lâu thì thấy rằng tất cả những vật ngoài kia đều là ảo ảnh nước
trên đường, như hoa đốm giữa hư không, vì đến khi lâm chung, chúng ta không
mang theo được bất cứ một thứ gì, từ vợ,chồng, con cái tiền bạc, của cải, xe cộ
v.v… ngoại trừ cái nghiệp mình đã tạo và phước báo mình đã tu. Ngay đến khi già
chết, chúng ta cũng không thể nhờ được con cháu một điều gì mà có thể đem đến
một niềm an lạc, vì chính chúng nó cũng chỉ là những sản phẩm của cơn mê sảng
thôi. Nên khi chết, hành trang của ta chính là những nghiệp báo ta đã tạo, lúc
đó không thể “hối lộ” được với quỉ thần, vì luật
tắc trong giới u minh rất nghiêm ngặt.
KINH:
Tưởng bóng nắng là nước.
Mà thật không có nước.
Thức chủng tử cũng thế…
GIẢNG: “Thức
chủng tử”, ý ngài muốn nói rằng, tàng thức ta có những chủng tử đó khi
đến thời cơ chín mùi, nó sẽ nở ra và ánh ra ngoài thành những y báo như thế,
chứ không phải thực có, chỉ do đủ duyên thì tâm nở ra thế thôi. Nhìn cảnh giới
bên ngoài lay chuyển, hiện đủ thứ này nọ, động chuyển, thay đổi, có thời gian,
không gian, chính chỉ là từ do tâm “động” ánh ra, do những chủng tử hiện hành
mà ra. Đó là “Thánh ngôn lượng” lời của bậc Đại Giác nói, vì
các ngài đã đi qua những cảnh giới của chúng ta nhiều lắm rồi, các ngài đã vào
đến tàng thức, đến những bình diện rất sâu, nên các ngài thấy rất rõ,rồi nói
lại cho ta biết như vậy.
KINH:
Thức chủng tử cũng thế.
“Động” tâm chuyển thấy cảnh.
GIẢNG: Vì vậy, những gì tôi giảng ở đạo tràng này không phải tôi nghĩ ra đâu, mà chính là trong kinh nói như thế, tôi chỉ là người nói lại cho quí vị nghe,còn tin hay không là tùy ở quí vị. Tin thì tâm thức chúng ta còn có cơ hội tiến lên, không tin thì chỉ cô phụ chính mình thôi.
Tất cả những sự vật
chúng ta cùng người khác trông thấy, như cây cỏ, núi non, (nhưng không
trông thấy được quỉ), là do tâm ta động nên thấy thế thôi, nếu khi có
những chủng tử nở khác, như ta có những chủng tử thấy quỉ thì nó sẽ nở ra, lúc
bấy giờ ở ngoài sẽ có quỉ hiện đến. Nên hai câu kệ trên đây, tôi cho là rất
quan trọng, nói lên cái cơ cấu căn bản của pháp giới này. “Thức chủng
tử cũng thế. Động tâm chuyển thấy cảnh”. Ngoài kia, ngay cả không gian
và thời gian cũng không có, vì tâm động nên tạo nên không gian và thời gian.
Ngoài kia không có cảnh, chỉ vì diệu tâm ấy rất mầu nhiệm, nên khi ta quay đầu
nhìn lại, thì lóe ra tất cả cảnh giới bên ngoài. Hoài bão của chư Phật chỉ muốn
dạy chúng la có thế này thôi, tất cả kinh Lăng Già chỉ thu tóm trong hai câu
này. Vì vậy, ngày xưa, có ngài Tăng Triệu làm một bộ luận nhỏ, nhưng rất nổi
tiếng gọi là “Vật bất thiên luận.” Vật bất thiên là vật không
rời đổi, không thay đổi. Ý ngài nói rằng, vật không hề thay đổi, như thân căn
chúng ta đây, cây cỏ kia, núi sông kia, không hề lớn, già, chết v.v.. mà chính
vì cái tâm ta chuyển nên ta mới thấy thế. Vì vậy kẻ nào chấp nhận và hiểu ý
nghĩa sâu xa nhiệm mầu ấy, mà trong vòng nhiều năm suy tư mà thấy thấm được
những lời kinh, tôi tin chắc chư Phật phải duỗi tay cứu độ kẻ ấy.
KINH:
Người ngu sanh vọng
tưởng.
Như mắt bị bệnh lòa.
Từ đời vô thủy lại.
Nhiếp thọ sanh chấp đắm.
GIẢNG: Chúng sanh bị bệnh lòa mắt, bị ái dục làm lòa, chấp vào thân, chấp vào cảnh, quên rằng ta và pháp giới chính là một. Quên mất đi sự nhất như uyên nguyên, tự tách ra để chấp mình là khác với pháp giới này, rồi nhìn thấy pháp giới với muôn vàn hình tướng sai biệt, nên suốt ngày chạy theo những vật, không lúc nào ngơi nghỉ, rồi tham đắm vào đây. Tham từ những miếng thịt, ly rượu, áo đẹp, danh vọng, tham luyến người nữ kia, người nam nọ v.v… mà không bao giờ biết tham cái tâm cả, vì thế chúng sanh bị đầy đọa, trôi nổi trong sáu nẻo luân hồi mà không thể ra khỏi vòng xích sắt ấy. Vì vậy kinh mới nói “nhiếp thọ sanh chấp đắm” vì nhiếp thọ cảnh giới ấy, vì không hiểu cảnh là huyễn, trông thấy một cái xe hơi đẹp đâm đắm nhiễm mê say, khởi tâm muốn chiếm hữu cho được, dù phải đi vay nợ, hay tệ hơn nữa là đi lường gạt người để chiếm hữu cho bằng được. Tôi nhớ hồi còn trẻ, lúc khoảng độ hai mươi tuổi, trông một bộ quần áo đẹp mê không thể nói được, suốt đêm nghĩ cách làm thế nào có tiền để mua bộ quần áo, nhưng nếu lúc đó mà chợt nhớ được cái tâm mình, thì có lẽ chúng ta không còn bị cái đắm nhiễm vọng tưởng đó điều khiển nữa.
KINH:
Ngôn giáo chỉ giả danh.
Nó cũng không có tướng.
GIẢNG: Trong Bát Nhã luôn luôn nói tất cả chỉ là danh tự, danh tướng thôi, ý chỉ tất cả sự vật như cái núi kia, thì chúng ta tưởng cái núi ấy có thật, nhưng không hiểu rằng, vì chúng ta là người, có những cộng nghiệp tương đương, nên trong tàng thức ánh ra thành cái núi, những người khác vì cũng có những cộng nghiệp, nên trong tàng thức riêng của mỗi người đều ánh ra những quang minh kết nên cái núi ấy, nên cái thấy của tôi, cũng như của quí vị đều giao thoa với nhau để cùng nhìn thấy như thế. Nhưng với loài chúng sinh khác, có những cộng nghiệp khác, họ không cho đó là cái núi, mà có thể đi qua núi đá ấy một cách vô ngại. Nên mọi vật không nhất thiết là một cái gì, rồi ta đặt cho mỗi vật một danh tên, tưởng nó có thật, kỳ thật nó chỉ là huyễn thôi mà chỉ có danh tự. Vì vậy, Phật mới dạy rằng “ngôn giáo chỉ giả danh,” nghĩa là tất cả chỉ là huyễn mà chỉ có tên gọi chụp lên nó thôi. Đây là những điểm khó tin, khó hiểu, khó vào nhất.
KINH: Nó cũng không có
tướng…
GIẢNG: Mà tướng của nó cũng chỉ là tướng huyễn, vì vật kia, sông kia, núi kia v.v… cũng huyễn mộng thôi. Nên tôi vẫn thường nói ở đây, khi xuống phố trông thấy một người quen đi giữa đường, sau khi dùng tâm thế gian chào hỏi, thì ta nên dùng cái tâm vi diệu để quán chiếu người đó chỉ như cái bóng trong tâm ta hiện lên thôi. Khi nghĩ được như vậy, thì người đó đẹp hay xấu, nam hay nữ, hôi nhơ hay thơm sạch v.v… ta cũng có một tâm bình đẳng, không đắm nhiễm, không thương, không ghét. Ngay cho dù họ có chửi vào mặt cũng không giận (điều này làm rất khó, vì cái ngã của ta rất lớn, còn lớn hơn núi Tu Di nữa, nên vừa nghe câu chửi là ta đã nổi sân lên rồi), hay ăn cắp tiền của ta cũng không khởi tâm giận họ. Ngược lại, họ có cho ta tiền hay cung kính lễ bái ta cũng không khởi tâm ngã mạn, vì biết tất cả chỉ do nhân duyên nở ra thôi.
KINH:
Ở đây khởi vọng tưởng.
Ấm hạnh như mớ tóc.
GIẢNG: Tức là ở tất cả cảnh huyễn kia do ta khởi vọng tưởng, vì thế các vật “ấm hạnh” giống như mớ tóc xõa xuống nên người đau mắt nhìn thấy thế.
KINH: Như bức vẽ mộng sự.
GIẢNG: Mộng sự là cảnh
thấy trong mộng. Người họa sĩ chính là cái tâm vẽ lên đủ thứ, và cảnh giới hiện
lên theo nghiệp lực như vậy. Khả năng của tàng thức chúng ta rất ghê gớm mà
không ai biết cả. Đức Phật nói rằng, tất cả vật là do tâm ảnh hiện, ngoài ra
không có gì khác.
KINH: Như thành càn thát bà.
GIẢNG: Những người đi
biển vào đến những vùng chói chang mặt trời, hơi nước bốc lên chập chùng thường
hay làm hiện lên hình dạng giống như những thành phố, nhưng chính thực không
có, nên gọi là thành càn thát bà.
KINH: Như vành lửa, bóng nắng.
GIẢNG: Vành lửa là khi
ta đốt một cây hương xoay tròn người ở xa nhìn thấy một vòng lửa, nhưng chính
thực chỉ là một điểm hương cháy di động thôi (vẫn nói đến cảnh huyễn).
KINH: Vốn không mà hiện có.
GIẢNG: Chính thực nó
không có gì hết, chỉ hiện ra như vậy thôi. Nên chúng ta phải luôn nhớ chữ hiện
trong kinh.
KINH:
Chúng sanh thường mê
chấp.
Thường, vô thường, nhất dị.
GIẢNG: Chúng ta hay mê
chấp, cái vô thường thì chấp là thường, chấp rằng cái này giống cái kia, hay
khác cái kia, chấp có nam, có nữ, có yêu, có ghét v.v.
KINH:
Do vô thỉ lỗi lầm.
Người ngu si vọng chấp.
GIẢNG: Do những tập khí
nhận thức từ vô thỉ của chúng ta nên cứ phải trôi lăn chìm nổi mãi.
KINH: Tịnh nhãn thấy gương sáng.
GIẢNG: Còn những bậc Đại
Bồ Tát và Phật, không bị bệnh mắt lòa, có con mắt thanh tịnh thì thấy pháp giới
như một cái gương sáng, tất cả diệu tâm không có một vật, tuy rằng, nếu nhìn
bằng nhục nhãn, các ngài cũng vẫn nhìn thấy pháp giới núi sông, người vật y hệt
như chúng ta vậy, đồng thời nếu các ngài nhìn bằng huệ nhân thì tất cả như một
tấm gương sáng. Cũng vẫn là câu chuyện soi gương của chàng Diễn Nhã, diễn tả
một người có nhiều vọng nghiệp “soi gương’ nên làm lóe lên tất
cả cảnh giới này. Ngược lại, đối với các ngài đắc đạo, như ngài Huệ Năng thì
nói “Bổn lai vô nhất vật” là vì tất cả chỉ như một cái gương
sáng tròn đầy.
KINH:
Thấy Ma ni bửu tháp.
Trong đó hiện các pháp.
GIẢNG: Những bậc có đạo
lực cao, thì thấy các Ma ni bửu tháp, với những diệu pháp.
KINH: Mà thiệt vô sở hữu.
GIẢNG: Thí dụ như chúng
ta có nguyện thanh tịnh muốn sang Cực Lạc, về sau chín mùi trong tâm thức ta sẽ
ánh lên những cảnh giới của Cực Lạc, tuy cũng là huyễn, nhưng ta cần phải vào
cái huyễn tế đó, sau mới ly huyễn và nhập vào chân không (diệu tâm).
KINH:
Hết thảy tánh hiển hiện.
Như tranh vẽ hơi nóng.
Hiện đủ các hình sắc,
Như mộng không thật có.
GIẢNG: Trong những bài
kệ kinh Lăng Già, ngài chỉ dạy thu tóm một chữ huyễn thôi.
Tóm lại, chúng ta nên
nhớ đến điểm soi gương, đó chính là tàng thức của mình ánh ra pháp giới,
thân căn này. Tuy tách ra thành hai phần rõ rệt, trong ngoài, nhưng không phải hai.
Vì tất cả pháp giới này đều Nhất Như, đều từ diệu tâm khởi ra, chúng sanh ngu
si, tự tách đôi rồi tự tạo những cảnh huyễn của mình, sau đó bị lạc trong mê đồ
ấy, và khởi lên lất cả những nghiệp vọng luân hồi.
Đấy là hết bài kệ trong
kinh Lăng Già nói về khởi vọng.
Nay ta trở về kinh Hoa
Nghiêm, với ngài Thiện Tài…
Kinh Hoa Nghiêm cũng dạy
chúng ta Nhập Pháp Giới, cũng tương tự như thế. Nhập
Pháp Giới là nhập vào trong tất cả diệu hữu ,tất cả các pháp, nhưng
tâm vẫn vẳng lặng, không thọ một pháp nào, vẫn biết tất cả các pháp đều không
thì lúc đó sẽ đắc được Vô Thượng Chánh Giác. Còn phàm phu chúng ta không phải
là nhập pháp giới, mà là lạc vào mê đồ ảo phố của pháp giới, lạc loài trong đó,
chịu mọi sự gian chuân, thống khổ, vì chúng ta chấp từng pháp một, hoặc chấp
vài chục pháp, vài trăm pháp v.v… rồi tự làm những hàng rào ngăn cách chính
mình với các pháp khác, nên không thể nhập trọn vẹn trong pháp giới. Ngược lại,
Chư Phật nhập vào tất cả pháp nhưng không thọ một pháp nào cả nên mới đến mức
nhập pháp giới trọn vẹn được.
Tôi xin tóm lược qua
những kỳ giảng trước khi đi vào kinh. Khi Thiện Tài gặp ngài Phổ Hiền thì đầu
tiên thấy những thoại tướng mây quang minh, rồi từ những quang minh ấy nở thành
những thân chúng sanh, chư Thiên và các tầng trời, trông thấy bao la mọi cảnh
giới, sau thu nhỏ lại nhìn thấy báo thân ngài Phổ Hiền ngồi trên tòa sen báu
gần đức Phật. Lúc ấy, kinh không tả báo thân của ngài Phổ Hiền, mà tả từng lỗ
lông của ngài, từ những lỗ lông ấy hiện ra vô số những thân vân, bửu vân, hoa vân,
hương vân v.v.., mà mỗi thứ mây ấy kết thành vô lượng cảnh giới, có thứ kết
thành cảnh trời cõi sắc, cõi dục, hay kết thành những thân thiên tử, hay kết
thành những thân chúng sanh v.v… vẫn đi từ chỗ rất nhỏ, đến chỗ rất lớn. Sau
khi Thiện Tài trông ngắm những lỗ lông của ngài Phổ Hiền rồi, thì chỉ riêng sự
nhìn ngắm ấy thôi, Thiện Tài đắc được mười thứ trí ba la mật. Trong đạo phật,
tột cao nhất là cái trí, rồi sau đó biến thành lực. Lực là sức biến hóa, đồng
thời cũng là cái dụng, còn trí là bản thể tạo nên sự biến hóa ấy. Khi Thiện Tài
đắc được mười thứ trí ba la mật là gần đến chỗ tột cùng rồi.
KINH: Trí ba la mật có thể trong mỗi niệm đi khắp tất cả các cõi Phật.
GIẢNG: Ngài dùng trí ba
la mật mà trong mỗi niệm – một thời gian rất ngắn – có thể đi vào khắp tất cả
cõi Phật, chỉ dùng trí của mình để đi mà không cần mang cả thân này.
KINH: Trí ba la mật trong mỗi niệm đều có thể qua đến tất cả chỗ Phật.
GIẢNG: Ở đoạn kinh trên
thì chỉ nói đến các cõi Phật thôi, còn đoạn kinh này lại nói đến ngay chỗ Phật
ngự, để cung kính cúng dường. Như vậy, Thiện Tài đã hóa giải được không gian.
KINH: Trí ba la mật, trong mỗi niệm đều có thể cúng dường tất cả Như Lai.
GIẢNG: Chỉ dùng cái trí
ấy, hóa hiện đủ các thứ cúng dường, chỗ Phật ở đâu thì Thiện Tài hiện thân mình
đến đó, rồi hiện các đồ cúng dường thành những mây, hoa, hương v.v… để cúng
dường lên chư Như Lai, mà không cần phải dùng đến ngoại vật, mà chỉ dùng trí để
hiện lên vật mà thôi. Tức là trí ấy là sự biến hóa không cùng.
KINH: Trí ba la mật trong
mỗi niệm ở khắp chỗ của tất cả Như Lai để nghe pháp và thọ trì.
GIẢNG: Tới đó nghe pháp
và nhớ mãi không quên. (đắc văn đà ra ni).
KINH: Trí ba la mật trong mỗi niệm tư duy pháp luân của tất cả Như Lai.
GIẢNG: Trong mỗi niệm,
Thiện Tài tư duy các pháp luân của tất cả Như Lai. Trong đạo phật, pháp của đức
Phật là “pháp luân,” bánh xe pháp, vì giáo lý của Như Lai
tương tự như một cái thiên la võng, không có đầu, không có đuôi, và bánh xe ấy
nói về đạo lý vận hành của pháp giới này. Vì thế gọi là “pháp luân” và
nó cũng không cùng, không tận. Một người đắc đạo cao, chỉ cần một câu, nhẫn đến
một chữ mà có thể diễn giảng mãi cũng được, như ngài Xá Lợi Phất, chỉ cần một
chữ gì đó (tôi cũng quên mất), ngài có thể giảng bảy ngày, bảy đêm
mới xong, vì trí huệ của ngài xoay tròn, đi theo đạo lý vận hành ấy nên nói mãi
cũng không hết.
KINH: Trí ba la mật trong mỗi niệm biết sự đại thần thông bất tư nghì của tất cả Phật.
GIẢNG: vẫn là biến hóa.
KINH: Trí ba la mật trong mỗi niệm nói một câu pháp tột thuở vị lai biện tài vô tận.
GIẢNG: Khi có cái trí ấy
rồi, Thiện Tài nhập vào pháp giới, ngay chỉ một chữ “diệu” thôi,
trong một bông hoa thế nào, trong ngọn cỏ ra sao, hay trong một hạt cát, một người
v.v… tất cả biến hóa thế nào, ngài cũng có biện tài vô tận nói mãi cũng không
hết được nghĩa lý vi diệu của nó.
KINH: Trí ba la mật trong mỗi niệm dùng thâm bát nhã quán tất cả pháp.
GIẢNG: Tới trí này rồi,
Thiện Tài vừa có Chân Không, vừa có Diệu Hữu, lúc nào cần dùng chân không đó
thì dùng thâm Bát Nhã để quán tất cả các pháp đều huyễn mộng.
KINH: Trí ba la mật trong mỗi niệm nhập tất cả pháp giới thiệt tướng hải.
GIẢNG: Tất cả pháp giới
đều là không, khi vào đến hiện chân không ấy, đồng thời khởi lên nhập vào tất
cả các pháp mênh mông như đại hải, có thể nhìn rõ từng chi tiết, từng pháp một
mà vẫn thấy chập chùng huyễn mộng, nên gọi là “nhập pháp giới thiệt
tướng hải.”
KINH: Trí ba la mật trong mỗi niệm biết tâm của tất cả chúng sanh. Trí ba la mật trong mỗi niệm huệ hạnh của Phổ Hiền đều hiện tiền. Thiện Tài đã được mười trí ha la mật này rồi, Phổ Hiền Bồ Tát liền dơ tay hữu xoa đầu Thiện Tài…
GIẢNG: Thiện Tài được
hai lần xoa đầu. Ngài Văn Thù và ngài Phổ Hiền. Đến đây, được ngài Phổ Hiền xoa
đầu tức là Thiện Tài đã được sự ấn chứng là nhập vào pháp giới khá sâu. Như tôi
đã nói ở đây, ngài Văn Thù tiêu biểu cho căn bản trí, còn ngài Phổ Hiền tiêu
biểu cho hậu đắc trí. Giống như một xoáy nước nỗi lên trong biển diệu tâm (căn
bản trí) vì mê vọng nên khởi một cuộc hành trình đi xuống đến chỗ cùng
tột của mê đồ từ địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, kiếp người, thiên v.v… Sau khi đi
lang thang khắp mọi nơi, cuối cùng hốt nhiên có một niệm thủy giác muốn vòng
trở về với diệu tâm uyên nguyên ấy gọi là thủy giác. Sau khi thủy giác đi mãi,
làm các hạnh nguyện tu hành,sau cùng thành tựu sai biệt trí tột cùng cũng tức
là hậu đắc trí và đồng như căn bản trí. Nói một cách khác, cuộc hành trình của
chúng sanh là tự mình rời bỏ căn bản trí ấy, tự mình rời bỏ cái diệu minh, để
đi xuống, chỉ giữ lấy cái hư minh, mang cái hư minh ấy, đi là đà mãi trong mê
đồ, đi qua các kiếp, các cõi, đến tột cùng thì một lúc nào đó, bắt đầu có ý
muốn trở về. Và sau khi ngoi ngóp vượt qua năm màn sương mù của năm ấm, vượt
luôn qua thức ấm, thì đến được chỗ sai biệt trí, cũng là hậu đắc trí, trở về
với căn bản trí.
KINH: Được xoa đầu, Thiện Tài liền được tất cả phật sát vi trần số môn tam muội, mỗi tam muội lại dùng phật sát vi trần số tam muội làm quyến thuộc.
GIẢNG: Khi Thiện Tài được
xoa đầu có nghĩa là trở về biển diệu tâm, đó là biển của tâm vi tế nhất, trong
đó cụ túc tất cả mọi thứ nên có đủ các tam muội, vì bất cứ tâm tưởng nào khởi
lên cũng đủ sức định lực để trở thành một tam muội. Lúc bấy giờ không có duyên
làm chia chẻ, lệch lạc.
KINH: Mỗi mỗi tam muội đều thấy tất cả phật sát vi trần số phật đại hải mà từ xưa chưa thấy tích tập tất cả phật sát vi trần số nhất thiết trí trợ đạo…
GIẢNG: Trong mỗi tam
muội,Thiện Tài lúc đó đã vào được Diệu Tâm, nên có thể thấy được vi trần số
phật sát,những cõi phật mênh mông như biển mà từ xưa Thiện Tài chưa từng thấy.
Muốn vào lần lần được bình diện “tột vi tế” của diệu tâm này, Thiện
Tài cần tích tập tất cả phật sát vi trần số nhất thiết hạnh trí trợ đạo. Tu
hành những gì thì gọi là “Nhất thiết trí trợ đạo” Khi người tu đạo, khác với người tu bình thường là làm bất cứ hạnh nào làm trợ đạo, các ngài
đều hồi hướng nhất thiết trí, không bao giờ các ngài nghĩ đến những chuyện
chứng đắc nhỏ khác, như đắc quả tu đà hoàn, a na hàm, a la hán v.v… mà chỉ nghĩ
đến nhất thiết chủng trí, là chỗ Tri Kiến Phật, và các ngài có thể nhập pháp
giới trọn vẹn. Thí dụ như chúng ta cầu xin về cõi Cực Lạc, sau khi bỏ báo thân
này, thì ta cũng nên cầu rằng, con nguyện xin vô cõi ấy, để đắc được quả nhất
thiết trí này, rồi dùng nhất thiết chủng trí khởi thần thông vô lượng trở lại
sanh tử độ sanh, đó mới đúng với bản hoài của chư Phật. Nên trong đoạn kinh
này, lúc nào cũng nhắc đến nhất thiết chủng trí.
KINH: Sanh đủ tất cả phật sát vi trần số nhất thiết tri thượng diệu pháp.
GIẢNG: Tức là sanh đủ
tất cả các vi trần số thượng diệu pháp mà hướng về nhất thiết trí.
KINH: Phát tất cả phật sát vi trần số nhất thiết trí đại thệ nguyện.
GIẢNG: Dù khởi cái
nguyện nào cũng đều hướng đến Phật Tri Kiến, không bao giờ kém hơn. Không phải
như thế là các ngài có lòng tham cầu vị kỷ, vì trong sự mong cầu có sự “tự
tha vô ngại”, và khi tham cầu nhập pháp giới, trở lại cái nhất như uyên
nguyên đó chỉ để độ sanh thôi, và đã xả ly hết ngã rồi.
KINH: Nhập tất cả phật
sát vi trần số đại nguyện hải, trụ tất cả phật sát vi trần số nhất thiết trí
xuất yếu đạo, tu tất cả phật sát vi trần số bồ tát nhất thiết trí đại tinh tấn,
được tất cả phật sát vi trần số nhất thiết trí tịnh quang minh.
GIẢNG: Tu hành những
hạnh để mong có được những quang minh ấy, những pháp xuất yếu đó để tới được
đến nhất thiết chủng trí, tức nhập pháp giới trọn vẹn.
KINH: Như ở Ta Bà thế giới chỗ của Tỳ Lô Gĩá Na Phật này, Phổ Hiền Bồ Tát xoa đầu Thiện Tài Đồng Tử, khắp mười phương thế giới, trong mỗi vi trần nơi những thế giới ấy, tất cả thế giới, tất cả chỗ Phật, Phổ Hiền Bồ Tát cũng xoa đầu Thiện Tài như vậy, những pháp môn tam muội chứng được cũng đồng
GIẢNG: Như cõi Ta Bà thế
giới của đức Tỳ Lô Giá Na Phật này, trong kinh không nói của đức Thích Ca Mâu
Ni, vì đức Phật vẫn thường nói ta với ngài Tỳ Lô Giá Na Phật cũng là một, cũng
là khác. Mỗi vị thị hiện cách khác, nhưng đồng là Diệu Tâm cả. Do ảnh hiện chập
chùng của Hoa Tạng, khi ngài Phổ Hiền xoa đầu Thiện Tài thì trong tất cả các
cõi, tất cả các vi trần đều ảnh hiện lên đồng một hình ảnh như thế. Như tôi vẫn
thường nói, chúng ta ngồi đây nghe kinh, thì trong tất cả vi trần các cõi đều
ảnh hiện lên hình ảnh đạo tràng nhỏ bé này, với chúng ta đọc, tụng, nghe giảng
kinh như thế, nhưng vì tâm chúng ta còn lồi lõm, còn đục ngầu, nên ảnh hiện ấy
không rõ, đến khi nào chúng ta lên đến bực của ngài Thiện Tài thì cũng sẽ thấy
ảnh hiện rõ ràng.
Tu hành đến chỗ tột bờ
mé thì hiện ra những trạng thái như vậy, tức là nhìn thấy được tất cả các cơn
lốc quang minh, khởi lên những tầng trời, các thứ thân chúng nanh, rồi sẽ nhìn
thấy báo thân của một vị Phật hay Bồ Tát mà chúng ta mong muốn được nhìn, như
Phật A Di ĐÀ , ngài Quán Thế Âm, ngài Phổ Hiền v.v… rồi nương vào thần lực của
các ngài đưa chúng ta đến chỗ bất thối chuyển, rồi được các ngài thọ ký, tới
chỗ nhập pháp giới trọn vẹn, tức Phật quả.
KINH: Bấy giờ Phổ Hiền
Bồ Tát bảo Thiện Tài rằng, này thiện nam tử, ngươi thấy thần lực của ta chăng?
GIẢNG: Lúc nào ngài cũng
nói đến thần lực. Vì vậy, pháp giới này và thân căn chúng ta chỉ dệt nên bởi ba
thứ lực: Thần lực hải của chư Phật, nguyện lực hải của chư đại Bồ Tát và nghiệp
lực hải của chúng sanh.
KINH: Thiện Tài thưa: Bạch vâng, những sự thần thông quảng đại bất tư nghì này chỉ đức Như Lai mới biết được.
GIẢNG: Ý Thiện Tài muốn
nói là thần thông quảng đại đó thuộc về Như Lai, mà ngài Phổ Hiền cũng là một
vị Phật, (ngài chỉ thị hiện là Bồ Tát để khiến chúng sanh cảm thấy gần
gũi hơn), vì sự nhập pháp giới này tột cao, bậc thập địa cũng chưa thể
làm nổi. Tôi cũng xin nhắc một điểm là giữa bậc cửu địa Bồ Tát và bậc thập địa
cách nhau rất xa, vì một vị Bồ Tát ở thập địa có thể cái chân, nhấc tay mà cửu
địa Bồ Tát không thể biết nổi. Và những tam muội, những hành xứ, những tâm
tưởng ngài khởi lên thì bậc cửu địa không thể biết nổi. Nên vì vậy, quanh chúng
ta đây, chư Phật hiện thần thông biến hóa tràn đầy và ta đang sống trong ấy,
nhưng cũng không hay, không biết mảy may. Như khi ta đau ốm quá, tự nhiên một
hôm có người mách một thứ thuốc, mang về uống thì thấy đỡ. Tâm lý thường chúng
ta nghĩ đó là do cơ duyên may mắn, gặp người mách thuốc. Nhưng riêng ý tôi, tôi
nghĩ rằng, khi nghiệp chúng ta chuyển biến, nhiều khi các vị thần linh giúp ta
bằng cách này hay cách khác, nhưng thường các ngài không bao giờ hiện ra cho ta
biết, mà chỉ đưa đẩy cơ duyên qua tay người khác đem đến thôi. Cũng như người
đi tàu bị đắm, người ấy khấn ngài Quán Thế Âm thì rất ít khi ngài hiện ra cho
người bị nạn thấy, ngài chỉ dùng cơ duyên như hiện một miếng ván tấp đến cho kẻ
kia níu lấy để trôi vào bờ. Vì nghiệp chướng của ta quá sâu dày, chưa đáng nhìn
thấy hình tướng các ngài, nên chỉ nhận được những duyên do các ngài đẩy đến và
phần đông chúng ta chỉ tưởng là tình cờ, ngẫu nhiên. Nhưng trong pháp giới này
không có sự ngẫu nhiên . Cũng không có sự quyết
. Chỉ có sự tương ưng giữa pháp giới và Tâm nở ra mà thôi. Ở trong nở tốt, thì
ngoài hiện tướng tốt, và ngược lại.
KINH: Này thiện nam tử, thuở quá khứ bất khả thuyết bất khả thuyết phật sát vi trần số kiếp, ta thật hành bồ tát hạnh cầu nhất thiết trí. Trong mỗi mỗi kiếp vì muốn thanh tịnh bồ đề tâm, nên kính thờ bất khả thuyết bất khả thuyết phật sát vi trần số Phật. Trong mỗi mỗi kiếp vì tích tập nhất thiết trí phước đức nên thiết lập bất khả thuyết bất khả thuyết phật sát vi trần số thí hội quảng đại, khiến tất cả thế gian đều nghe biêt, phàm ai đến cầu xin thời đều làm cho họ đầy đủ cả.
GIẢNG: Trong đoạn này,
ban đầu thì ngài tu hạnh lễ kính chư Phật, sau thì tu theo hạnh bố thí (đàn
ba la mật).
KINH: Trong mỗi mỗi kiếp vì cầu pháp nhất thĩết trí nên ta đem bất khả thuyết bất khả thuyết phật sát vi trần số tài vật bố thí.
GIẢNG: Ở đây, thì
ngài bố thí ngoại vật, cho của cải. Ngài kể qua cho Thiện Tài nghe về con đường
bồ tát hạnh của ngài.
KINH: Trong mỗi mỗi kiếp vì cầu phật trí, nên ta đem bất khả thuyết bất khả thuyết phật sát vi trần số thành ấp, tụ lạc, quốc độ, vương vị, thê tử, quyến thuộc, mắt tai mũi lưỡi, thân thịt tay chân đến cả mạng sống để bố thí.
GIẢNG: Đoạn kinh này,
ngài bố thí đến nội vật, ngay cả thân thể mình cũng đem ra bố thí, không những
tu hạnh đó trong một kiếp, mà vô lượng vô số kiếp. Vì phải cho như thế thì mới
thành tựu môn “Như huyễn tam muội”, hiểu thân thể này cũng là
huyễn, mà thật ra không có cái chết, nó chỉ biến hóa từ một thân căn này qua
một thân căn khác. Phàm phu chúng ta sợ hãi không làm được hạnh bố thí thân căn
ấy vì chưa quen, cũng như chưa tin sự biến hóa ấy. Lúc đầu thí thân thì sợ lắm,
nhưng về sau, khi quen rồi, các ngài làm việc ấy rất dễ dàng, kinh nói rõ rằng,
một vị Bồ Tát khi thí thân, thì có pháp hỷ sung sướng như một vị Tỳ kheo nhập
đệ tam thiền vậy.
KINH: Trong mỗi mỗi kiếp vì cầu nhất thiết trí thủ, nên ta đem bât khả thuyết bất khả thuyết phật sát vi trần số đầu để bố thí. Trong mỗi mỗi kiếp vì cầu nhất thiết trí, nên ở chỗ bất khả thuyết bất khả thuyết phật sát vi trần số Như Lai, ta cung kính tôn trọng, kính thờ cúng dường, rồi xuất gia học đạo, trong phật pháp tu hành hộ giáo.
GIẢNG: Phàm phu chúng ta
cứ tưởng rằng khi tu hành nhất thiết phải đến chùa, thọ giới, mặc áo sư, và
xuất gia v.v… nhưng trong tất cả pháp giới này, “sự-kỳ-
diệu-là-cái-gì-cũng-có-thể-có-được”. Kinh nói rằng, có những cõi tịnh
độ, như cõi của ngài Văn Thù Sư Lợi là cõi “Phổ Kiến Như Lai” tất
cả chúng sanh vừa mới sanh ra đã được mặc áo cà sa rồi. Cũng như chúng ta chỉ
thấy có thai sanh thôi, người mẹ sanh ra người con, nên không hiểu rằng có
những kiếp chúng sanh thanh tịnh đến mức độ hóa sanh từ hoa sen xong, không cần
phải đi thọ giới, người vốn là pháp hạnh, được mặc ngay áo cà sa, (trong
Đại Bảo Tích).
KINH: Này thiện nam tử, ta ở trong những số kiếp như vậy, tự nhớ chưa từng có một niệm chẳng thuận phật giáo, chưa từng có một niệm sanh lòng sân hại…
GIẢNG: Niệm nào cũng đều
tùy thuận Bồ Đề tâm cả, nhất là không có niệm nào sân hại cả. Trong kinh Hoa Nghiêm
có hai chỗ, ở phẩm thứ ba mươi lăm, ngài Phổ Hiền nhấn mạnh hai lần về lòng
sân. Bồ Tát không bao giờ được khởi lòng sân đối với một vị Bồ Tát khác, vì
lòng sân rất ghê gớm, nó như ngọn lửa có thể đốt hết tất cả những pháp lành và
công đức của mình. Lòng tham thì không đốt căn lành nhiều như lòng sân, nhưng
nó làm cho chúng ta lưu luyến, làm tâm bị nặng nề trần trược, nên không thể
thăng hoa lên được.
KINH: Cũng chưa từng có một niệm sanh tâm ngã, ngã sở…
GIẢNG: Ngài cũng không
từng có một niệm sanh tâm cái này của mình, cái kia là mình v.v… vì ngài đã
nhập vào diệu tâm ấy, biết rằng, ta và pháp giới này là một, nên không khởi lên
sự sai biệt đôi bên.
KINH: Tâm mình người sai biệt, tâm xa rời bồ đề, tâm nhàm mỏi sanh tử…
GIẢNG: Cũng không bao giờ
ngài khởi tâm nhàm mỏi sanh tử, vì nếu có tâm nhàm mỏi thì sẽ rơi vào hàng
Thanh Văn, mà không thể tiến xa hơn để độ sanh và Nhập pháp giới trọn vẹn được.
KINH: Tâm lười biếng, tâm chướng ngại, tâm mê hoặc…
GIẢNG: Không bao giờ nên
khởi tâm mê hoặc người khác. Nếu một vị đạo sư, hoặc tự xưng mình là một đạo sư
kỳ diệu có nhiều người theo, hoặc muốn nói những chuyện quyến dụ người khác,
làm cho họ nghe mình, muốn họ cúng dường mình thật nhiều, thích được phật tử
khen mình nhiều, hay sai đệ tử đăng báo ca tụng mình v.v… tất cả những điều ấy
đều rơi vào cái “tâm mê hoặc” người khác. Ngược lại, một vị
đạo sư khi nói pháp, chỉ cốt làm thế nào để giữ được tâm trang nghiêm, đừng cầu
gì thì vị đạo sư đó không có tâm mê hoặc.
KINH: Mà ta chỉ an trụ tâm đại bồ đề vô thượng chẳng thể trở hoại tích tập pháp trợ đạo nhất thiết trí.
GIẢNG: Tu hành bất cứ
con đường nào, mục đích chung chỉ để đến nhất thiết trí thôi. Đấy là ngài Phổ
Hiền nói thế, mặc dù Thiện Tài cũng biết rồi, nhưng ngài cũng vẫn cứ nhắc lại
để kinh lại cho người đời sau noi theo, không nên xen một tâm niệm nào khác làm
lạc tâm bồ đề và tâm cầu nhất thiết trí.
KINH: Này thiện nam tử, ta trang nghiêm phật độ, dung tâm đại bi cứu hộ chúng sanh, giáo hóa thành tựu, cúng dường chư Phật, thờ thiện tri thức, vì cầu chánh pháp nên hoằng tuyên hộ trì, trong thân ngoài vật đều có thể xả tất cả, đến mạng sống cũng không tiếc.
GIẢNG: Trong kinh Đại
Bảo Tích có một vị hỏi Phật rằng, người tu hành trong rừng sâu, thấy những cọp,
beo, lang sói, rắn độc v.v… rất sợ, thì lúc đó phải làm sao? Phật dạy, người tu
hành trong rừng sâu phải coi thân mình như cây cỏ, tường vách, giả dụ như nó
đến ăn cũng chẳng sao. Nên phải hiểu tâm vô úy của người tu hành trong đạo Phật
ở một mức độ rất cao, dù cho hổ đói có đến ăn cũng bố thí bỏ xả thân này không
một niệm luyến tiếc, sợ hãi. Ngày xưa, đọc đến những đoạn kinh Phật dạy như
thế, tôi thấy thật là khủng khiếp và quá sức phi nhơn bản, nhưng dần dần, suy
tư nhiều về những lời kinh, tôi thấy quả đúng như thế, không có thể làm gì khác
khôn ngoan hơn điều Phật dạy, phải coi thân này như cây cỏ, tường vách, “người
giữ thi la không trọng thân mạng, vì dùng con mắt ảo quán sát pháp giới.” Nên
Phật giáo là một tôn giáo đạt tới mức cao độ tâm thức một cách tột cùng, không
có một tôn giáo nào sánh kịp.
HỎI: Ở Việt Nam, cũng có những vị sư mỗi tối ra ngoài vườn,
cởi trần ra để cho muỗi đốt, làm như vậy sẽ có những con muỗi độc đốt xong rồi
truyền bệnh cho vị này, sau đó vị nàỵ có bệnh như sốt rét chẳng hạn, mà chứng
sốt rét có thể lây bệnh cho người khác nữa. Hành động như thế là đúng hay sai?
Bố thí như thế có đúng không?
ĐÁP: Nói đến việc đúng
sai thì phải xét cái tâm của vị ấy. Trong cuốn “Đường về Cực Lạc” có một vị sư
mỗi tối, ngài chui vào bụi, cởi trần cho muỗi đốt, dùng máu của mình nuôi chúng
sanh khác, đó là xả thân để bố thí. Hành động này tôi cho là đúng.
HỎI: Nhưng còn vấn đề làm lây bệnh cho người khác thì sao?
Nếu làm một hạnh để giúp được một khía cạnh này, thì vô hình chung ta lại tạo
ra một mặt khác hại người.
ĐÁP: Có thể cũng truyền
bệnh cho người khác, nhưng người khác nếu bị lây bệnh cũng có gì là tuyệt đối
quan trọng đâu, vì người ấy cũng được vơi nghiệp đi. Phần đông chúng ta chưa
đến mức độ tâm thức đó đâu, vì trước hết thường nghĩ rằng mình làm thế bị bệnh
thì lôi thôi lắm, đau đớn khổ sở, không tu hành được chẳng hạn chúng ta không
làm được vì tâm thức còn hạn hẹp hòi, còn sợ bệnh tật, có nghĩa rằng còn chấp
ngã, còn quí cái thân xác này, còn cho nó có thực, còn chấp rằng, có người thọ,
có kẻ gây v.v… Nhưng nêu xét theo pháp giới về cả hai khía cạnh, thì không có
gì trên thế gian này quan yếu cả, chỉ là một tuồng biến hóa thôi. Cùng lắm bệnh
nó có thể làm cho chúng ta bỏ thân này, nhưng cái giới thân huệ mạng của chúng ta
đâu có chết, bỏ được thân này, biết đau lại có một thân khác thanh tịnh hơn,
thần thông biến hóa hơn.
Riêng tôi, tôi cho rằng
hạnh bố thí của những vị đó là đúng nhưng ít người có thể làm nổi. Đó chỉ là
một hình thức bố thí xả bỏ thân này thôi mà chúng ta không làm nổi rồi, hà
huống gì nói đến việc cho mắt, mũi, tủy não…
KINH: Nếu dùng thời gian kiếp hải để nói nhơn duyên đó, kiếp hải còn có thể hết chớ nhơn duyên đó không cùng tận. Này thiện nam tử, trong pháp hải của ta, không có một chữ, không có một câu…
GIẢNG: Ngài dùng
chữ “pháp hải” là biểu tượng một cái gì bao la mênh mang vô
tận, nhưng trong pháp hải ấy không có một chữ, không có một câu (tức
Bát Nhã).
KINH: Chẳng phải thí xả ngôi Chuyển Luân Vương mà cầu được. Chẳng phải thí xả tất cả sở hữu mà cầu được.
GIẢNG: Ý ngài muốn nói,
tất cả sự thí xả về tài vật vẫn còn thấp, không thể như thế mà cầu được pháp
ấy.
KINH: Này thiện nam tử, pháp của ta cầu đều vì cứu hộ tất cả chúng sanh. Một lòng suy nghĩ mong cho chúng sanh được nghe pháp nầy. Nguyện dùng trí quang chiếu khắp thế gian. Nguyện vì chúng sanh mà khai thị trí xuất thế gian…
GIẢNG: Tức là xả thí như
thế vẫn chưa đủ mà phải dùng đại bi để cứu độ tất cả chúng sanh, và nhất là
phải có pháp thí.
KINH: Nguyện cho chúng
sanh đều được an lạc. Nguyện khắp tán dương những công đức của chư Phật, thuở
xưa, nhơn duyên của ta như vậy, trong bất khả thuyết bất khả thuyết phật sát vi
trần số kiếp hải nói không hết được.
GIẢNG: Hạnh của ngài là
hạnh “hải.” Phổ Hiền hạnh nguyện hải phải làm rất nhiều kiếp.
KINH: Này thiện nam tử,
vì thế nên ta dùng sức trợ đạo pháp như vậy, những sức thiện căn, sức đại chí
nguyện, sức tu công đức, sức như thiệt tư duy tất cả pháp, sức trí huệ nhãn,
sức Phật oai thần, sức đại từ bi, sức tịnh thần thông, sức thiện tri thức như
vậy nên ta được pháp thân thanh tịnh tam thế bình đẳng rốt ráo này.
GIẢNG: Ngài tu những
hạnh đó nay được pháp thân thanh tịnh bình đẳng rốt ráo như thế, không những
được pháp thân ngài còn được cả báo thân và hóa thân.
KINH: Ta lại được sắc
thân thanh tịnh vô thượng siêu các thế gian, tùy sở thích tâm của chúng sanh mà
hiện hình vào tất cả cõi khắp tất cả xứ, nơi các thế giới rộng hiện thần thông,
làm cho người thấy đều vui mừng.
GIẢNG: Ngài kể rằng, khi
vào được biển thần lực hải đó rồi (pháp thân), đồng thời ngài
lại có sức đại bi, hiện tất cả các thân tùy theo các loài để độ sanh (hóa
thân).
KINH: Này thiện nam tử,
ngươi quan sát sắc thân của ta như vậy.
GIẢNG: Pháp thân chưa
nói đến, chỉ nói đến sắc thân thôi, sắc thân này là thân thanh tịnh vô thượng
siêu các thế gian.
KINH: Sắc thân của ta
đây đã thành tựu từ vô biên kiếp hải. Vô lượng ngàn ức na do tha kiếp khó thấy
khó nghe. Này thiện nam tử, nếu có chúng sanh chưa gieo thiện căn và gieo ít
thiện căn, Thanh Văn, Bồ Tát thời còn chẳng được nghe danh hiệu của ta huống là
thấy được thân ta.
GIẢNG: Ngài nói thế,
xong ngài lại bảo Thiện Tài đi vào sắc thân của ngài, vào từng lỗ chân lông
ngài.
KINH: Này thiện nam tử,
nếu có chúng sanh được nghe danh hiệu của ta thời không còn thối chuyển nơi vô
thượng bồ đề. Nếu ai hoặc thấy, hoặc chạm, hoặc rước, hoặc đưa, hoặc tạm theo
dõi, nhẫn đến trong mộng được thấy nghe ta, thời đều cũng được bất thối chuyển.
Hoặc có chúng sanh một
ngày, một đêm nhớ nghĩ đến ta thời liền được thành thục. Hoặc bảy ngày, bảy đêm,
nửa tháng, một tháng, nửa năm, một năm, trăm năm, ngàn năm, một kiếp, trăm
kiếp, nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết phật sát vi trần số kiếp nghĩ nhớ
đến ta mà được thành thục.
GIẢNG: Có người chỉ cần
nghĩ nhớ đến ngài một ngày một đêm đã được thành thục bất thối chuyển, nhưng
cũng có người lâu hơn, có thể bảy ngày, bảy đêm, một tháng một năm, nhiều năm,
nhiều kiếp nghĩ nhớ đến ngài mới được thành thục.
KINH: Hoặc thấy ta phóng
đại quang minh, hoặc thấy ta chấn động cõi Phật, hoặc sanh e sợ, hoặc sanh hoan
hỷ thảy đều thành thục.
GIẢNG: Khi ngài phóng
đại quang minh và thấy ngài chấn động cõi Phật, thì dù cho tâm ngươi sanh e sợ,
hay sanh tâm hoan hỷ, nghĩa là duyên nào cũng tốt cho người ấy cả. Vì thế,
trong đạo Phật kỵ nhất là hạng người thờ ơ, không theo, không chống. Tốt nhất
là người tin thuận theo, tốt nhì là người chống đối, tỷ dụ như Việt Cộng, nhưng
đó là một “cơ duyên nghịch,” vì sau khi xuống địa ngục xong,
lên làm người lần lần sẽ gặp được các bậc thiện tri thức hay gặp Phật. Còn
những người cứ lờ dờ, chẳng tu hành, chẳng nghe kinh, chẳng tin, cũng chẳng
chống đó là hạng người bết nhất. Trở lại đoạn kinh này, những vị nào thấy những
quang minh phóng ra của ngài Phổ Hiền, hoặc phát sợ hãi khi tất cả cõi phật
chấn động, hoặc phát tâm vui mừng khấp khởi, hai hạng người này đều được độ cả.
Trong kinh Mật Tông có nói một thí dụ về điểm này, ví như một người đi vào rừng
Chiên Đàn lấy cây chiên đàn về cúng Phật là tốt nhất rồi, nhưng cũng có loại
người vào đó đập phá lung tung, đến khi người ấy về tuy bị tội đập phá rừng
chiên đàn, nhưng trên người vẫn thoảng có mùi hương chiên đàn, nên cũng vẫn
được lợi ích. Duy còn một loại người không hề ghé chân qua rừng chiên đàn ấy,
thờ ơ thì đó là loại người đáng thương nhất, họ sống bập bềnh, mù mịt trong pháp
giới này, vì mùi hương chiên đàn (ví như pháp vị của Chư Phật), không
thể thấm vào thân tâm của họ được. Lại một thí dụ khác, là có một vị tỳ kheo
ni, vào trong cung vua khuyên các cung phi đi tu, các cô này bảo rằng, chúng
tôi đi tu làm sao được, vì chúng tôi còn trẻ đẹp, yêu đời, đi tu thế nào cũng
phạm giới. Vị tỳ kheo ni lại bảo, thì các vị cứ tu đi, rồi cứ… phạm giới đi,
sau khi bị đọa địa ngục rồi lên sẽ có cơ duyên gặp Phật, lúc đó sẽ được ngài
điểm hóa rồi có thể tinh tấn tu hành. Đó là một cách gieo những chủng tử lành
cho nhiều đời sau vậy.
Còn chuyện “chấn
động cõi phật” trong kinh, điểm này cũng có rất nhiều người hỏi, tại
sao kinh bảo thế giới chấn động sáu cách mà ta chẳng thấy gì cả, cỉ thỉnh
thoảng thấy động đất làm sợ muốn chết! Nhưng chắc sự chấn động trên bình diện
tâm thức vi tế hơn, người phàm phu chúng ta không hay biết, phải những bậc tu
hành cao họ mới cảm thấy điều đó, có lẽ sự chấn động trong tầng lớp thọ ấm,
tưởng ấm hay hành ấm gì đó mà chúng ta không biết chắc được.
KINH: …(Bỏ một
đoạn)… Nếu có chúng sanh nào thấy nghe cõi thanh tịnh của ta thời tất
được sanh trong cõi thanh tịnh này. Nếu có chúng sanh nào thấy nghe thân thanh
tịnh của ta thời tất được sanh trong thân thanh tịnh của ta…
GIẢNG: Trong kinh Hoa
Nghiêm luôn luôn nói đến cõi tịnh và bất tịnh, nên ta phải hiểu rằng chân lý
của Tinh Độ rất rõ rệt. Nếu người nào chê bai Tịnh Độ là vẫn chưa hoàn toàn
hiểu kinh, vì cả bộ kinh thường nhắc đốn cõi tịnh, uế luôn. Mà tu hành thì phải
đi từ cõi uế đến cõi tịnh, đâu có thể chê bai tha lực được.
Ở đây, ngài Phổ Hiền nói
cõi thanh tịnh và thân thanh tịnh của ngài cũng là một. Như cõi Cực Lạc, chúng
ta coi như là thân của đức A Di Đà hay cõi của ngài cũng được. Vì thế tôi vẫn
nói, chúng ta ngồi đây là đang ngồi trong thân của ngài Quán Thế Âm vậy.
KINH: Này thiện nam tử,
ngươi nên quan sát thân thanh tịnh của ta đây. Thiện Tài quán sát tướng hảo
chi tiết nơi thân Phổ Hiền Bồ Tát. Trong mỗi mỗi lỗ lông đều có bất khả
thuyết bất khả thuyết phật sát hải. Mỗi mỗi sát hải đều có chư Phật xuất thế và
chúng hội Bồ Tát.
GIẢNG: Ở đây ngài
Phổ Hiền nói rằng, khi trước Thiện Tài quan sát chưa được kỹ lắm, nay nên đi
vào từng lỗ lông xem sao.
KINH: Và lại thấy tất cả
sát hải đó: những kiến lập…
GIẢNG: Trong kinh, đôi
khi ta gặp chữ “kiến lập” có nghĩa là tạo dựng. Cũng như trong
kinh Lăng Già, chúng ta hay gặp chữ “kiến lập” và chữ “phỉ
báng.” Kiến lập tức là khẳng định, còn phỉ báng là phủ định, (đó là
những chữ khó của kinh Lăng Già). Còn ở đây là kiến lập, là thành lập
các cõi.
KINH: Những hình trạng,
những trang nghiêm, những đại sơn bao quanh, những sắc mây che trùm hư không,
những Phật Như Lai xuất thế thuyết những pháp luân.
GIẢNG: Bao giờ cũng nói
đến “pháp luân,” bánh xe pháp.
KINH: Lại thấy ở trong
mỗi mỗi thế giới hải, Phổ Hiền xuất hiện tất cả phật sát vi trần số phật hóa
thân vân, cùng khắp thập phương tất cả thế giới giáo hóa chúng sanh khiến hướng
về vô thượng bồ đề.
GIẢNG: Tất cả đều là
những đám mây hào quang xoáy tròn hữu nhiễu tạo thành những thân đó.
KINH: Bây giờ Thiện Tài
lại thấy tự thân ở trong thân Phổ Hiền giáo hóa chúng sanh trong mười phương
tất cả thế giới.
GIẢNG: Lúc bấy giờ,
Thiện Tài tự thấy thân mình nhập vào thân ngài Phổ Hiền, vì thân ngài Phổ Hiền
tức là pháp giới. Thực tình, kinh Hoa Nghiêm không có cách gì có thể giảng rõ
được, chỉ có thể gượng giảng tạm thôi, vì tất cả vấn đề đều là sự chập chùng
thần lực của Diệu Tâm, nếu chưa đi sâu vào tâm thức, chúng ta chỉ có thể nương
theo kinh tưởng tưởng gượng thế thôi, chứ không thể giảng rõ được.
KINH: Bao nhiêu thiện
căn trí huệ quang minh của Thiện Tài đã được, khi thân cận phật sát vi trần số
chư thiện tri thức, sánh với thiện căn khi thấy Phổ Hiền Bồ tát mà được, thời
không bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn, một phần trăm ngàn
ức, nhẫnn đến không bằng một phần toán số ví dụ.
GIẢNG: Từ trước đến nay,
trong kinh nói Thiện Tài gặp năm mươi ba vị thiện tri thức, đó chỉ là những ví
dụ điển hình thôi, nhưng thực ra Thiện Tài đi gặp vô lượng vị, nhưng tất cả
thiện căn Thiện Tài đắc được trong cuộc hành trình đi gặp các vị thiện tri thức
này, nếu so với thiện căn khi gặp ngài Phổ Hiền Bồ Tát thì không bằng một phần
trăm, một phần ngàn…, nhẫn đến một phần toán số ví dụ. Tại sao lại được công
đức ghê gớm thế khi gặp ngài Phổ Hiền? Thiện Tài tu hành không biết bao nhiêu
hằng hà sa na do tha kiếp, gặp không biết bao nhiêu vị thiện tri thức, tích lũy
những thiện căn, nhưng tất cả thiện căn ấy, vẫn không bằng thiện căn khi được
gặp ngài Phổ Hiền, vì trong đạo Phật, lúc nào cũng chú trọng về cái phẩm, khi
lên đến tột bờ mé thì cái phẩm nó biến hóa rất nhiều, nó tăng cấp số nhân với
một con số không thể nghĩ bàn, vì ngài Phổ Hiền là chặng đường tột cuối của tâm
thức cao độ, nên vì vậy, thiện căn tích lũy nhiều vô cùng tận.
Nên vì vậy, tôi vẫn
thường nói ở đây, ví như một ngôi chùa có năm trăm ngàn Phật tử, chỉ đến lễ lạy
cầu phước báo hữu lậu, hay làm những phật sự thông thường, kinh kệ thì mù mịt,
chỉ lễ lạy, cầu siêu, cầu an, cầu gia nghiệp làm ăn phát đạt v.v… không bằng
một ngôi chùa có chỉ độ hai, ba chục phật tử trong đó có vài người hiểu kinh và
phát bồ đề tâm. (Đó là kinh nói, không phải tôi nghỉ ra đâu). Vì
trong vài người ấy, sau này sẽ thành Phật độ chúng sanh, còn tất cả năm trăm
ngàn người kia chỉ lăng xăng, trôi nổi lên lên, xuống xuống trong sáu nẻo luân
hồi, không bao giờ thành Phật, cũng chẳng giúp ích được cho một người nào đi
vào con được phật đạo và phát bồ đề tâm.
KINH: Trong một niệm mà
hiện nay Thiện Tài nhập sát hải của chư Phật ở trong một lỗ lông của Phổ Hiền,
sánh với thời gian từ sơ phát tâm đến nay đã nhập sát hải, thời nhiều hơn đến
số bất khả thuyết bất khả thuyết phật sát vi trần. Như nơi một lỗ lông, tất cả
lỗ lông cũng đều như vậy.
GIẢNG: Câu này cũng y
như câu trên. Trong một niệm, Thiện Tài nhập vào một lỗ lông của ngài Phổ Hiền,
tức là nhập vào tâm thức tột cao để nhập vào pháp giới, thì niệm ấy, sánh với
thời gian mới bắt đầu phát tâm bồ đề đến lúc gần nhập pháp hải, niệm này còn
dài hơn lất cả các a tăng kỳ kiếp, vì thời gian là như vậy. Khi tâm càng thanh
tịnh bao nhiêu thì thời gian càng chóng vánh bấy nhiêu, còn thời gian đục ngầu
phía dưới thì dài lê thê hơn nhiều. Như trong phẩm Thọ Lượng Như Lai có nói một
kiếp ở cõi Ta Bà này (mười sáu triệu năm), chỉ bằng một ngày
một đêm ở cõi Cực Lạc. Vì tâm thánh chúng bên ấy thanh tịnh hơn tâm chúng ta
nhiều. Vì vậy, khi Thiện Tài nhập vào lỗ lông của ngài Phổ Hiền thì tâm ngài
thanh tịnh tột bực, nên chỉ cần ngài khởi một niệm, vẫn có thể dài hằng hà sa
số kiếp ở những sát độ khác. Ngược lại, có thể thu ngắn nhiều kiếp thành một
sát na.
KINH: Trong lỗ lông của
Phổ Hiền Bồ Tát, Thiện Tài bước một bước qua khỏi bất khả thuyết, bất khả
thuyết phật sát vi trần số thế giới, đi mãi như vậy tột thuở vị lai vẫn còn chẳng
biết được thứ đệ sát hải của trong một lỗ lông, cũng chẳng biết ngằn mé của sát
hải tạng, sát hải sai biệt, sát hải phổ nhập, sát hải thành, sát hải hoại, sát
hải trang nghiêm. Cũng chẳng biết được ngằn mé của Phật hải thứ đệ, Phật hải
tạng, Phật hải sai biệt, Phật hải phổ nhập, Phật hải sanh, Phật hải diệt. Cũng
chẳng biết được ngằn mé của Bổ Tát chúng hải thứ đệ, Bổ Tát chúng hải tạng, Bồ
Tát chúng hải sai biệt, Bổ Tát chúng hải phổ nhập, Bồ Tát chúng hải tập, Bồ Tát
chúng hải tán. Cũng chẳng thể biết ngằn mé của trí nhập chúng sanh giới, biết
căn chúng sanh, giáo hóa điều phục chúng sanh, chỗ trụ thậm thâm tự tại của Bồ
Tát những địa, những đạo của Bồ Tát nhập.
GIẢNG: Đọc những câu
kinh này, có thể nói rằng ta bị đè bẹp tan hoang, vì sự mường tượng về tâm ý
ghê gớm quá. Đại ý đoạn kinh này nói rằng, trong lỗ lông của ngài Phổ Hiền, tuy
gọi là “lỗ lông’ mà nó cũng chính là pháp giới. Vì thế, Thiện
Tài ở trong một lỗ lông ấy chỉ cần bước một bước đã qua bất khả thuyết, bất khả
thuyết phật sát vi trần số thế giới. Đi mãi không biết bao nhiêu kiếp, đến tột
thuở vị lai cũng không bao giờ hết, không thấy được ngằn mé, thứ đệ của pháp
giới đó. Vì lúc đó tâm Thiện Tài vẫn còn động chuyển theo sức Đại Bi vô niệm,
nên pháp giới vẫn vô tận. Ngược lại, ngài chỉ cần khởi một tâm niệm Bát Nhã
lên, thì tất cả pháp giới ấy sẽ không còn, sẽ tắt đi và trở thành hữu tận.
Phàm phu chúng ta vì tâm
luôn luôn động nên pháp giới trở thành “không ngằn mé,” và tâm
ta động niệm theo sự thô kệch nhất của tham, sân, si. Ngược lại, chư Phật và
chư Đại Bồ Tát động niệm theo Đại Bi bình đẳng để độ sanh, nên pháp giới cũng
không ngằn mé,do Đại Bi Vô Niệm.
Trong lỗ lông của ngài
Phổ Hiền, có thể nói không gian và thời gian đều bị hóa giải, không còn nhất
định dài hay ngắn nữa. Một sát na có thể kéo dài cả nhiều kiếp, ngược lại,hằng
hà sa số kiếp có thể thu ngắn vào một sát na, tùy tâm thức của các ngài khởi
tâm niệm đại bi hay bát nhã. Vì vậy, Thiện Tài có thể bước một bước qua khỏi vi
trần số thế giới mà không biết được ngằn mé.
PHẬT TỬ: Tôi vào kinh Hoa Nghiêm cũng nhờ nhưng câu kinh khó như
thế này, khó quá! tuy không hiểu, nhưng trong tâm vẫn cứ ngờ ngờ thấỵ hay..
ĐÁP: Đúng, nhiều đoạn
trong kinh, có thể đè bẹp người đọc như bị ngạt thở, như thấy bàng hoàng, đảo
lộn. Khi đọc kinh, dù không hiểu mà cảm thấy “ngờ ngợ” hay, tức là người có
nhiều túc duyên với đại thừa.
Ông nên đọc cuốn kinh
“Đại thừa trang nghiêm bảo vương”cũng nói riêng về những lỗ lông của ngài Quán
Thế Âm Bồ Tát. Trong kinh, Phật nói đến mức hóa giải luôn về không, thời gian.
Tôi xin đọc lại cho quí
vị nghe đoạn kinh vừa đọc, không phải nghe để hiểu, (vì lời kinh khó
quá), mà nghe để thấy được sự mênh mang sâu thẳm trong lời kinh…
KINH: Trong mỗi lỗ lông
của Phổ Hiền Bồ Tát, Thiện Tài bước một bước qua khỏi bất khả thuyết, bất khả
thuyết phật sát vi trần số thế giới, đi mãi như vậy tột thuở vị lai vẫn còn
chẳng biết được thứ đệ sát hải của trong một lỗ lông, cũng chẳng biết ngằn mé của
sát hải tạng, sát hải sai biệt, sát hải phổ nhập, sát hải thành, sát hải hoại,
sát hải trang nghiêm. Cũng chẳng biết được ngằn mé của Phật hải thứ đệ, Phật
hải tạng, Phật hải sai biệt, Phật hải phổ nhập, Phật hải sanh, Phật hải diệt.
Cũng chẳng biết ngằn mé của Bồ Tát chúng hải thứ độ, Bồ Tát chúng hải
tạng, Bồ Tát chúng hải sai biệt, Bồ Tát chúng hải phổ nhập, Bồ Tát chúng hải
tập, Bồ Tát chúng hải tán…
GIẢNG: Những “thế-giới-hải-tập” thế
nào? Và “Thế-giới-hải-tán” ra sao? Cũng như trong kinh Bát
Nhã có phẩm “Tập, tán.” Khi các vi trần tụ tập lại thành
thế giới, rồi các vi trần ấy tán ra thành hư không. Nên Phật dạy, đừng tưởng
các cõi ấy đều thực có, mà chỉ do các vi trần tập hợp mà thành, vì vậy ngài nói
rằng: “Vi trần chỉ tạm gọi là vi trần, cõi tạm gọi là cõi…” và
ngay cái thân này cũng chỉ là cái pháp tích tập của những vi tế bào. Vì vậy,
khi những tế bào ấy đến lúc trở về không thì nó lại tán ra, nên không cách gì
giữ được xác thân trường tồn mãi được, vì pháp giới vận hành phải như vậy.
KINH: Cũng chẳng thể
biết ngằn mé của trí nhập chúng sanh giới, biết căn sanh, chỗ trụ thậm thâm tự
tại của Bồ Tát những địa, những đại của Bồ Tát nhập.
Nơi sát hải trong lỗ
lông của Phổ Hiền Bồ Tát, Thiện Tài đi như vậy hoặc nơi một cõi trải qua một
kiếp, nhẫn đến hoặc trải qua bất khả thuyết bất khả thuyết phật sát vi trần số
kiếp mà đi như vậy.
Cũng chẳng mất nơi đây
mà hiện nơi kia. Mỗi niệm Thiện Tài cùng khắp vô biên sát hải giáo hóa chúng
sanh khiến họ hướng về vô thượng bồ đề.
Đương lúc đó, Thiện Tài
thứ đệ được những hạnh nguyện hải của Phổ Hiền Bồ Tát, đồng với Phổ Hiền, đồng
với chư Phật một thân sung mãn tất cả thế giới…
GIẢNG:Thân ngài đầy khắp
pháp giới tức là nhập giới.
KINH: Đồng quốc độ, đồng
hạnh, đồng chánh giác, đồng thần thông, đồng pháp luân, đồng biện tài, đồng
ngôn từ, đồng âm thanh, đồng lực vô úy, đồng phật sở trụ, đồng đại từ bi, bất
tư nghì giải thoát tự tại đều đồng…
Tôi xin ngừng nơi đây.
Quí vị nào có cần hỏi gì không? Chỉ còn một bài kệ của ngài Phổ Hiền, xin để kỳ
sau sẽ giảng tiếp.
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
Ngày 7 tháng 7 năm 1991
Hôm nay, chúng ta đi vào
bài kệ cuối của Hoa Nghiêm. Trong bài kệ này, ngài Phổ Hiền nói rằng:
— Tất cả thế gian này
đều là vọng tưởng, Và chư Phật vì lòng đại bi bình đẳng hiện đủ các thứ thân để
độ chúng sinh. Vì vậy, dù là một hòn đá trước cửa nhà, trông có vẻ vô nghĩa, ù
lỳ, nhưng cũng là sự hiện tướng của pháp thân đó.
KINH: Đương lúc đó,
Thiện Tài thứ đệ được những hạnh nguyện hải của Phổ Hiền Bồ Tát, đồng với Phổ
Hiền, đồng với chư Phật một thân sung mãn tất cả thế giới…..
GIẢNG: Ngài Phổ Hiền tu
đến mức độ đó thì thân ngài lớn đồng với thân chư Phật, sung mãn cả pháp giới,
tức là nhập pháp giới trọn vẹn, không có một cọng cây, một cái lá, một đóa hoa,
một vi trần nào…, mà không có tâm và thân của ngài phổ vào.
KINH: Đồng quốc độ, đồng
hạnh, đồng chánh giác, đồng thần thông, đồng pháp luân, đồng biện tài, đồng
ngôn từ, đồng âm thanh, đồng lực vô úy, đồng Phật sở trụ, đồng đại từ bi, bất
tư nghì giải thoát tự tại đều đồng.
GIẢNG: Ngài Phổ Hiền đến
bậc này là bậc Đẳng giác vào Diệu giác.
KINH: Lúc đó Phổ Hiền
đại Bồ Tát liền nói kệ rằng:
Các ngài phải trừ những
phiền não
Nhất tâm bất loạn mà lắng nghe
Tôi nói Như Lai đủ các độ…
GIẢNG: Đủ các độ là tất
cả phật sát độ.
KINH:
Tất cả đạo chân thật
giải thoát
Xuất thế điều nhu Thắng Trượng Phu
GIẢNG: Trong phẩm thứ
mười hai, phẩm Hiền Thủ, ngài Hiền Thủ cũng nói đến công đức của chư Phật, ở
đây ngài Phổ Hiền thu tóm lại tất cả. Tại sao lại phải nói đến công đức của chư
Phật? Vì nếu không có chư Phật thì thế gian này không thể tồn tại một sát na nếu
không nương vào thần lực hải của chư Phật. Như quí vị đã biết, trong phẩm Thành
tựu thế giới, thế giới này được tạo dựng bằng ba thứ lực: Nghiệp lực hải của
chúng sanh, nguyện lực hải của chư Đại Bồ Tát và thần lực hải của chư Phật.
Nghiệp lực của chúng sanh phải nương vào thần lực và nguyện lực thì mới tạo lập
thế gian được, và chỉ cần chư Phật rút đi thần lực trong một sát na thôi, thì
tất cả thế gian này sẽ tan tành không còn lại một cái gì. Vì vậy, kinh nói đến
công đức của chư Phật là gìn giữ thế gian này. Nhưng trong kinh Lăng Già lại
nói rằng, thế gian này nở ra từ A-lại-da thức của chúng sanh, và khi a-lại-da
thức được gạn lọc đến chỗ tột cao thì trở thành Bạch tịnh thức, tức là thành
thần lực hải của chư Phật. Vì vậy, Phật và chúng sanh cũng không phải là một,
không phải là khác. Nên ngài Phổ Hiền nói rằng: “Tất cả đạo chân thật
giải thoát. Xuất thế điều nhu Thắng Trượng Phu.” Thắng Trượng Phu là
chư Phật. Trong kinh thường dùng những chữ như: Thắng Trượng Phu, Tối Thắng
Tôn…, để chỉ cho chư Phật. Còn một vị Bồ Tát tu đến mức độ cao thì gọi là Tối
Thắng Tử, người con tối thắng, hay Phật tử tối thắng.
KINH:
Trong lòng thanh tịnh
như hư không
Hằng phóng trí nhật đại quang minh
Khiến khắp quần sanh diệt si ám…
GIẢNG: Lúc nào các ngài
cũng phóng quang minh diệt si ám cho chúng ta mà ta không hề hay biết.
KINH:
Như Lai rất khó được
thấy nghe
Vô lượng ức kiếp nay mới gặp
Như hoa Ưu Đàm một lần hiện
Vì thế nên nghe Phật công đức…
GIẢNG: Công đức này là
công đức trưởng dưỡng những thiện căn của chúng sanh.
KINH:
Tùy thuận việc làm của
thế gian
Ví như thuật sĩ hiện những sự
Chỉ để làm vui lòng chúng sanh
Chưa từng phân biệt khởi tưởng niệm.
GIẢNG: Khi Phật phóng
quang minh khởi tất cả những sắc tướng độ chúng sanh, nhưng tâm niệm ngài vẫn
vô niệm. Giống như một nhà thuận sĩ (nhà ảo thuật), hiện tất
cả mọi sắc tướng mà tâm không chấp. Trong kinh Đại Bảo Tích cũng nói chư Phật
là nhà Đại Ảo Sư tạo nên thế gian để độ chúng sanh. Nên thế gian này chỉ là một
tuồng huyễn hóa, do một đại ảo SƯ bày ở ngã ba đường. Nhưng phải hiện thế để
vui lòng chúng sanh, khiến tăng trưởng lòng tin mà tu hành mới ra khỏi được
lưới ấy. Sau khi ngài Phổ Hiền nói như vậy, chư Bồ Tát nghe xong bài kệ ấy, đều
cũng khởi lòng khát ngưỡng, mà nghĩ rằng, ngài Phổ Hiền Bồ Tát đã đủ các hạnh rồi,
nay ngài nói đến công đức của chư Phật, ta phải nghe cho kỹ.
KINH: Phổ Hiền Bồ Tát
công đức trí huệ trang nghiêm đầy đủ, như hoa sen chẳng dính trần cấu tam giới.
Ngài bảo chúng Bồ Tát rằng: “Các ngài hãỵ lắng nghe, nay tôi muốn nói
tướng một giọt trong biển công đức của Phật.”
GIẢNG: Ngài nói và ngài
dùng chữ “một giọt công đức,” chứ ngài không nói đến cả biển
công đức ấy, vì tất cả lời nói đều hữu hạn, chỉ nói được phần nào mà không thể
nói đến chỗ như như tịch tĩnh, lồng lộng khôn cùng. Nhưng dù chỉ nói một giọt
thôi, cũng đủ lắm rồi, vì giọt nước trong biển ấy vẫn mang đủ những khí vị của
nước biển.
KINH: Phổ Hiền nói kệ
rằng:
Phật trí rộng lớn đồng
hư không
Khắp cùng tất cả tâm chúng sanh
Đều rõ thế gian những vọng tưởng.
GIÁNG: Những kiến chấp
của phàm phu chúng ta, của Thanh Văn của ngoại đạo v.v… đều chĩ là những vọng
tưởng.
KINH:
Chẳng khởi những phân
biệt sai khác…
Một niệm đều biết pháp tam thế
Cũng rõ tất cả căn chúng sanh
Ví như nhà ảo thuật thiện xảo
Mỗi niệm thị hiện vô biên sự
Tùy tâm chúng sanh hiện những hạnh
Thuở xưa các nghiệp, sức thệ nguyện
Khiến họ thấy, biết đều chẳng đồng
Mà Phật bổn lai không động niệm
Hoặc có xứ xứ thấy Phật ngồi
Sung mãn thập phương các thế giới
Hoặc có chúng sanh tâm bất tịnh
Trong vô lượng kiếp chẳng thấy Phật
GIẢNG: Ở đây ngài
nói đến các loại căn cơ chúng sanh. Những người tu hành cao, có tín giải thì sẽ
thấy xứ xứ đều có Phật sung mãn thập phương thế giới. Trái lại,những chúng sanh
tâm ý bất tịnh, không tin, không chịu tu hành, thì trong vô lượng kiếp cũng không
thể thấy Phật được, vì không cảm thì không có ứng.
KINH:
Hoặc có tín giải rời
kiêu mạn
Phát ý liền được thấy Như Lai
GIẢNG: Chúng sanh nào có
tín giải, tâm lại thanh tịnh không kiêu mạn, thì người đó chỉ cần phát ý (khởi
niệm) là thấy được Như Lai. Như nếu chúng ta có lòng tin sâu chắc, tâm
ý lại thanh tịnh, thì chỉ cần một niệm mong được thấy đức A Di Đà thì ngài sẽ
hiện đến.
KINH:
Hoặc kẻ siểm cuống tâm
bất tịnh,
Ức kiếp tìm cầu chẳng thấy Phật
GIẢNG: Những kẻ nào tâm
còn bất tịnh thì trăm ngàn ức kiếp có tìm cầu hoài cũng không thấy được Phật.
KINH:
Hoặc người mọi xứ nghe
tiếng Phật
Âm thanh mỹ diệu làm tâm vui
Hoặc kẻ trăm ngàn muôn ức kiếp
Vì tâm bất tịnh chẳng được nghe
Hoặc thấy thanh tịnh đại Bồ Tát
Đầy khắp tam thiên đại thiên giới
Đều đã đầy đủ hạnh Phổ Hiền
Trong đó Như Lai nghiễm nhiên tọa
GIẢNG: Những vị tu hành
cao, tâm ý thanh tịnh, luôn luôn thấy được Như Lai.
KINH:
Hoặc thấy cõi nầy diệu
vô tỷ
Phật vô lượng kiếp đã nghiêm tịnh
GIẢNG: “Diệu vô
tỷ,” là diệu trang nghiêm không thể so sánh được. Trong kinh Duy Ma
Cật, ngài Xá Lợi Phất nghĩ rằng, không biết tại sao cõi Ta Bà của đức Thích Ca
xấu xí thế. Liền đó Phật Thích Ca chỉ cần lấy chân ấn đất thì ngài Xá Lợi Phất
thấy cõi Ta Bà thanh tịnh ngay. Đủ biết sở dĩ ta thấy đầy hầm hố, chông gai,
chỉ là vì nghiệp của chúng ta quá nặng nề, nhưng nếu tâm thức ta thanh tịnh thì
cõi Ta Bà này trở thành tịnh độ.
KINH:
Tỳ Lô Giá Na Tối Thắng
Tôn
GIẢNG: “Tối
Thắng Tôn” là tên gọi của chư Phật.
KINH:
Trong đây đại ngộ thành
chánh giác
Hoặc thấy Liên Hoa cõi thắng diệu
Hiền Thủ Như Lai ở trong đó.
GIẢNG: Đoạn kinh này
ngài nói về cõi tịnh độ của ngài Liên Hoa Hiền Thủ, còn thanh tịnh hơn cõi của
đức A Di Đà nhiều lắm. Kinh Hoa Nghiêm có dạy rất rõ về các từng lớp thanh tịnh
của các cõi tịnh độ, sự thanh tịnh tột cùng là cõi tịnh độ Liên Hoa, ở đó,những
đại Bồ Tát như ngài Phổ Hiền ngồi đầy khắp trong hoa sen. Cõi Cực Lạc của Đức A
Di Đà vẫn còn có hàng Thanh Văn và phàm phu, còn phải nghe pháp để đắc cái này,
cái nọ. Nhưng sở dĩ chúng ta cầu vãng sanh Cực Lạc íà vì căn cơ chúng ta chỉ có
được từng đó thôi, thứ nữa cõi ây gần chúng ta hơn và có nhiều tầng lớp để
chúng ta có thể dần dần tu lên nữa. Còn những cõi tịnh độ kia thì cao quá, căn
cơ chúng ta không thể với nổi. Và trong kinh thì lúc nào cũng nói trùng trùng
những cõi tịnh và uế, và nói rất rõ. Ây vậy mà vẫn còn có những vị tu hành vẫn
bài bác tịnh độ và không chịu tin, lại còn chê những người tu theo pháp môn
tịnh độ là những người ngu xuẩn, chỉ dành cho những bà già nhà quê. Đó là một
điều sai lầm và đáng tiếc!
KINH:
Vô lượng Bồ Tát chúng vi
nhiễu
Thảy đều siêng tu hạnh Phổ Hiền
Hoặc có thấy Phật Vô Lượng Thọ
(tức là ngài A Di Đà)
Quán Âm, Thế Chí hầu hai bên
Đều bậc quán đảnh bổ xứ cả
Sung mãn mười phương các quôc độ.
GIẢNG: Trong đoạn kinh
này, ngài lại tả sự thanh tịnh bên cõi Cực Lạc của đức A Di Đà, có ngài Quán Âm
và ngài Thế Chí hầu hai bên.
KINH:
Hoặc có thấy cõi đại
thiên này
Thanh tịnh trang nghiêm như Diệu Hỷ
A Súc Như Lai ngự tại đây
Chúng đại Bồ Tát bao quanh Phật
GIẢNG: Ở phương tây
có đức A Di Đà. Phương đông có đức Diệu Hỷ Như Lai. Trong kinh Đại Bảo Tích có
nói rõ các vị Phật bốn phương. Nhưng thường thường chúng ta xin vãng sanh Cực
Lạc vì ngài A Di Đà có túc duyên lớn với chúng ta, ngài phát thệ bốn mươi tám
nguyện lớn để độ chúng sanh. Thứ nữa nước Cực Lạc cũng gần hơn những cõi thanh
tịnh khác. Vì vậy, nên Phật khuyên chúng ta nên cầu xin vãng sanh Cực Lạc.
KINH:
Hoặc thấy Nguyệt Giác
Danh xưng Phật
Cùng Kim Cang Tràng chư Bồ Tát
Ở cõi Viên Cảnh diệu trang nghiêm
Khắp đến mười phương các quốc độ
GIẢNG: Đây cũng là một
cõi tịnh độ lớn.
KINH:
Hoặc thấy Nhựt Tạng Phật
Thế Tôn
Ở cõi thanh tịnh Thiện Quang Minh
Cùng với quán đảnh chư Bồ Tát.
Sung mãn mười phương mà thuyết pháp.
GIẢNG: Có những cõi mà
chúng Bồ Tát đều là nhứt sanh bổ xứ, có những cõi đều có những vị quán
đảnh. (Những vị quán đảnh này đều là đệ thập địa Bồ Tát).
KINH:
Hoặc thấy Kim Cang Đại
Diệm Phật
Câu hội với Trí Tràng Bồ Tát
Châu hành tất cả cõi quảng đại
Thuyết pháp diệt trừ chúng sanh mê.
GIẢNG: Ngài giảng nói
toàn những cõi tịnh độ.
KINH:
Mỗi mỗi đầu lông bất khả
thuyết
Chư Phật tướng hảo ba mươi hai
Bồ Tát quyến thuộc đồng vây quanh
Vì độ chúng sanh luôn thuyết pháp.
GIẢNG: Trên kia, ngài
nói đến các cõi tịnh độ lớn, còn ở đoạn kinh này ngài nhắc lại rằng trong những
lỗ lông có vô lượng cõi. Đủ biết rằng, khi tâm thức lên đến mực độ ấy thì không
gian bị hóa giải, không còn có cái lớn, bé như con mắt phàm nữa. Như lúc đầu,
Thiện Tài mong cầu thấy ngài Phổ Hiền mà chỉ thấy các tinh vân, tinh tú, nhật,
nguyệt v.v.., sau đó mới nhìn thấy ngài Phổ Hiền ngồi cạnh đức Phật Thích Ca
trong bồ đề đạo tràng.
Lúc ấy, kinh lại không
tả ngài Phổ Hiền hình dáng ra sao theo lối mắt nhìn của chúng ta mà chỉ mô tả
ngay vào lỗ lông của ngài, từ mỗi lỗ lông cổ trăm vạn thân vân, mỗi thân vân
lại khởi lên tạo thành những tinh tú, nhật, nguyệt, hoặc cõi này, cõi khác v.v…
ở đây, cũng như thế, nói đến những cõi tịnh độ: “Mỗi mỗi đầu lông bất
khả thuyết…”
KINH:
Hoặc có xem thấy một lỗ
lông
Đầy đủ cõi trang nghiêm quảng đại
Vô lượng Như Lai đều ở trong
Thanh tịnh phật tử đều sung mãn
Hoặc có thấy trong một vi trần
Có đủ hằng sa Phật quốc độ
Vô lượng Bồ Tát đều sung mãn
Bất khả thuyết kiếp tu các hạnh
Hoặc có thấy chỗ một đầu lông
Vô lượng trần sa những sát hải
Bao nhiêu nghiệp khởi đều sai khác
Tỳ Lô Giá Na chuyển pháp luân.
GIẢNG: Trên kia, phần
nhiều kể những cõi tịnh. Còn đến đoạn kinh tiếp theo đây ngài lại kể những cõi
uế.
KINH:
Hoặc thấy thế giới chẳng
thanh tịnh
Hoặc thấy thanh tịnh báu làm thành
Như Lai trụ thọ lâu vô lượng.
GIẢNG: Ở đây, ngài
chỉ nói một câu có thế giới uế thôi, sau đó lại nói đến những thế giới thanh
tịnh.
KINH:
Nhẫn đến Niết Bàn đều
hiện đủ
Cùng khắp mười phương khắp thế giới
Thị hiện nhiều thứ bất tư nghì
Tùy các chúng sanh tâm trí nghiệp
Thảy đều hóa độ khiến thanh tịnh
Vô Thượng Đạo Sư như vậy thảy
Sung mãn thập phương các quốc độ
Thị hiện nhiều loại thần thông lực
Tôi nói một ít ngài nên nghe.
GIẢNG: Trong đoạn kinh
này có điều lạ là ngài chỉ nói một câu “hoặc thấy thế giới chẳng thanh
tịnh,” sau đó ngài lại nói đến những thế giới thanh tịnh ngay. Có lẽ
là vì trong phẩm “Hoa tạng thế giới thành tựu” ngài đã tả về
những uế độ nhiều rồi, nên ở đây, khi một hành giả tu đến mức gần cuối cùng thì
ngài thường nói đến cõi thanh tịnh nhiều hơn. Nếu ta đọc lại kinh Hoa Nghiêm sẽ
thấy rằng, ở chỗ nào ngài cũng hay nói đến những cõi tịnh, uế. Vì thế, không
thể nào không tin là có cõi tịnh độ được. Vì như thế mới hợp lý. Tu hành là gì?
Là chúng ta tu từ cõi uế sang cõi tịnh. Nhưng nếu ta cứ khăng khăng, bướng bỉnh
mà cho rằng, “không cần sang tịnh độ” thì đó chính là tự cô
phụ mình vậy. Rồi khi sang được cõi tịnh, tu hành đắc đạo lại trở lại cõi uế độ
sanh. Muốn nhưthế, trước hết ta phải ra khỏi dục giới đã.
KINH:
Hoặc thấy Thích Ca thành
Phật đạo
Đã trải kiếp số bất tư nghì
Hoặc thấy nay mới làm Bồ Tát
Mười phương lợi ích các chúng sanh.
GIẢNG: Ở đây, chúng
ta phải trở lại phẩm “Thọ lượng Như Lai” trong kinh Pháp Hoa.
Trong đó Phật nói ngài thành đạo từ lâu xa lắm, hoặc nói bây giờ ngài mới thành
đạo là tùy theo mức độ tâm thức từng loài chúng sanh nhìn. Nếu chúng sanh nhìn
với tâm nhãn cao, sẽ thấy Phật thành Phật từ rất lâu xa về quá khứ, nhưng với
con mắt thịt đương thời của phàm phu chúng ta thì sẽ thấy, ngài mới thành Phật
khoảng hai ngàn năm trăm năm trước. Thường thường, các ngài thị hiện như vậy để
chúng sanh nghĩ rằng: “Thì ra, vị Phật ấy là một Thái Tử, giống như
những người thường, cũng có vợ, con. Sau đi tu thành Phật được, thì ta đây tu
một thời gian cũng có thể thành Phật được.” Đó là phương tiện thiện
xảo của các ngài thị hiện để độ sanh.
KINH:
Hoặc người lại thấy
Thích Sư Tử
(Thích Sư Tử cũng là một vị Phật)
Cúng dường chư Phật tu đạo hạnh
Hoặc thấy Thế tôn đủ phước trí
Hiển hiện những sự đại thần thông
Hoặc thấy bố thí, hoặc trì giới
Hoặc nhẫn, tinh tấn, hoặc thiền định
Bát nhã, phương tiện, nguyện, lực, trí
Tùy tâm chúng sanh đều thị hiện.
GIẢNG: Ở mỗi cõi,
tùy theo chúng sanh chấp trước cái gì, thích gì, ngài hiện ra như vậy. Nếu có
chúng sanh chấp mình là người tu hành, thì ngài hiện thân người tu hành thành
đạo. Nhưng nếu trong các cõi như sắc cứu cánh, là một cõi tâm thức chúng sanh
đã cao rồi, thì ngài lại nói thẳng rằng ngài đã đắc đạo từ vô lượng kiếp, và
trong cõi đó ngài lại thị hiện thành Phật nhưng dưới một hình thức khác.
Nhân đây, tôi cũng xin
nói qua về con đường tu chứng của chúng ta ra sao. Ban đầu chúng ta tu hành là
phát bồ đề tâm, làm những hạnh lành và tất cả đều hồi hướng Cực Lạc, sang đó để
đắc được năm thứ tam muội. Sau đó lên được mức Vô sanh pháp nhẫn (đệ bát
địa) và được chư Phật thọ ký. Lúc đó, có thể ta sẽ ở luôn đây để
tu hành, hoặc có thể ta có những hạnh nguyện trở về những cõi uế để độ sanh mà
không bị nhiễm, vì lúc đó ta đã ở mức vô sanh pháp nhẫn rồi, và sắc thân lúc đó
không còn là thai sanh máu mủ nữa mà là “pháp thân đại sĩ.” Sau
đó, trải qua nhiều kiếp tu hành về các hạnh “ba la mật,” đến
khi vào đến đệ thập địa thì lúc đó Đại Bồ Tát ấy sẽ lên cung trời sắc Cứu
Cánh (như trong kinh Tâm Địa Quán hay Lăng Già dạy thế). Lúc đó,
Đại Bồ Tát sắp nhận sự quán đảnh của Chư Phật, ngài ngồi trên một bông đại bửu
liên hoa, phóng hào quang khắp thập phương thế giới, các chư Bồ Tát từ các nơi
vân tập về để dự lễ thọ chức của vị Đại Bồ Tát này, lúc đó ngài đã gần đồng như
Phật.
Sau khi thọ lễ quán
đảnh, ngài có thể vẫn ở trên đó, tu dần đến Đẳng giác và Diệu giác, hoặc ngài
có thể thị hiện xuống nhân thế để độ sanh. Khi ấy, ngài sẽ xuống cõi trời Đâu
Suất như ngài Di Lặc, ngồi đó, chờ thời tiết chín mùi, chờ cõi nhân thế, và tâm
thức của chúng sanh chín mùi, đáng được gặp một vị Phật. Rồi chọn xem gia đình,
quyến thuộc nào đáng được mang thai Phật, thường là gia đình được chọn đều đã
theo ngài tu hành nhiều kiếp rồi, và nhất là người đàn bà mang thai Phật đều là
bậc đại Bồ Tát lớn có nguyện mang thai Phật, như ngài Ma Gia thị hiện xuống
trần để cho ngài gá vào. Nhưng người trần gian lại cứ tưởng rằng ngài cũng là
thai sanh như họ. Ngài làm những việc đó, tìm những quyến thuộc của mình, đồng
thời cùng những vị đệ tử của ngài từ nhiều kiếp để cùng xuống trần như một chùm
nho vậy. Như ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, đi vào ngoại đạo, hoặc ngài Ca
Diếp đi tu thờ thần lửa v.v…
Chư Phật không bao giờ
đản sanh mà không có rất nhiều quyến thuộc đi theo. Từ chư thiên cõi sắc và cõi
vô sắc đều đi theo hộ trì và nghe pháp. Ngay khi ngài nhập thai, các vị chư
Thiên và Đại Bồ Tát cũng vẫn ở nơi bụng ngài Ma Gia để nghe pháp, đồng thời tất
cả những vị có cơ duyên đều cũng thọ sanh cùng thời với ngài. Vì vậy, những
người vợ của đức Thích Ca như Da-Du-Đà-La và Thích-Nữ-Cù-Ba chỉ xuống thị hiện
làm vợ ngài thôi. Thực ra các ngài đều là những bậc tu hành lớn. Bà Cù-Ba là
một vị đại Bồ Tát địa thứ mười. Còn bà Da Du Đà La với Phật chắc đã nhiều kiếp
làm vợ chồng rồi, có thể các ngài làm chồng vợ với nhau đến năm trăm kiếp, (như
ngài A Nan và Ma Đăng Già), lúc bấy giờ thì chuyển tình đời sang tình
đạo, cùng nhau đi trong sanh tử mà không bị sanh tử làm đắm nhiễm. Trong kinh
kể những mốì tình như thế rất nhiều, như trong kinh Hoa Nghiêm cũng vậy, có vị
Bửu Nữ Cụ Túc Diệu Đức và Thái Tử Đại Quang (nếu tôi nhớ tên ngài không
lầm) cũng thế. Nên phải hiểu rằng, có những cặp nam nữ, có duyên với
nhau từ nhiều kiếp, cùng làm vợ chồng, rồi đến một lúc nào đó thì tình đời
chuyển thành tình đạo, sau đó hai người cùng lên cao, những vọng tưởng sẽ trở
thành Bát Nhã, vọng tình sẽ trở thành Đại Bi, lên đến tột bờ mé thì cùng nhập
lại để vào Niết Bàn tịch tĩnh của chư Phật. Nên sự chuyển biến từ tình đời sang
tình đạo đều được chuyển theo hình xoáy trôn ô’c, vọng tình sau trở thành đại
bi, vọng tưởng trở thành bát nhã.
Trên đây là con đường tu
chứng mà ta cần phải biết qua, và cần phải cầu xin vãng sanh Cực Lạc, cốt nhất
là để đắc “Vô sanh nhẫn,” tức là đệ bát địa. Ở địa này, hành
giả đã được mức độ bất thối chuyển, đã có ngũ thông, và nhiều tam muội, tự tại
lực, lúc đó hành giả có thể thong dong đi xuống trần thế độ sanh, xuống đây, có
thể làm đủ hạnh, như lấy vợ, sinh con, làm đủ nghề thế gian mà không bị nhiễm
đắm, vì lúc đó hành giả đã là pháp thân bồ tát rồi. Làm những hạnh độ sanh đủ
lục ba la mật rồi, lúc đó hành giả lên cõi trời sắc cứu cánh, vào đệ thập địa,
rồi thành Phật. Hay xuống cung Đâu Suất, nhìn xuống nhân gian chọn nơi thọ sanh
và thị hiện thành Chánh Giác. Đó là lịch trình tu chứng của một vị Bồ Tát. Nên
chúng ta phải đọc nhiều kinh rồi nối lại mới có thể hiểu rõ.
Như chuyện thành Phật ở
trời sắc cứu cánh là lộ trình mà trong kinh Tâm Địa Quán đã dạy rõ, mà trong
kinh Lăng Già cũng nhắc lại điều ấy. Khi ngài Đại Huệ hỏi đức Phật rằng: Tại
sao không thành Phật ở tầng trời sắc Cứu cánh mà lại thành Phật ở nhân gian?
Nhưng chính ra, các ngài thành Phật ở trời sắc cứu cánh, còn xuống nhân gian
chỉ là thị hiện thành Phật mà thôi. Mỗi kinh, nói từng phần một, vì Phật thuyết
pháp là tùy theo người hỏi mà trả lời, nên khi ta đọc kinh, ta phải biết nối
lại từ đoạn này đến đoạn kia, như những ngọn hải đăng lập lòe trên biển sương
mù, khi biết nối lại rồi thì tất cả các kinh đều thông suốt lẫn nhau mà không
hề mâu thuẫn cả. Sở dĩ đôi khi đọc kinh ta thấy như có sự mâu thuẫn vì không
hiểu kinh và không biết cách nối mà thôi.
Trong bộ Đại Trí độ
luận, ngài Long Thọ nói rất kỹ về thế nào là Bồ Tát vị, thế nào là đắc vô sanh
pháp nhẫn, thế nào là bất thối chuyển, có bao nhiêu thứ thọ ký v.v… tất cả
những thứ ấy, chúng ta phải hiểu qua. Theo ý tôi, nếu vị nào tu học đại thừa
cẩn thận, phải đọc bộ Đại trí độ luận (do cụ Thích Trung Quán dịch), giảng
về Đại Bát Nhã.
Nay trở lại ngài Thiện
Tài.
KINH:
Hoặc hiện tu hành vô
lượng kiếp
Trụ nơi Bồ tát, bậc kham nhẫn
Hoặc hiện trụ nơi bực bất thối
Hoặc hiện pháp thủy rưới trên đầu…
GIẢNG: ” Pháp
thủy rưới trên đầu..” là lễ quán đảnh.
KINH:
Hoặc hiện thân Phạm,
Thích, Tứ Vương…
GIẢNG: Thân Phạm là thân
Phạm Thiên. Thích là thân trời Đế Thích. Tứ Vương là thân Tứ Thiên Vương.
KINH:
Hoặc hiện Sát Lợi, Bà La
Môn…
GIẢNG: Sát Lợi là thân
Sát Đế Lợi. Bà La Môn là thân các vị Bà La Môn ngoại đạo.
KINH:
Nhiều loại sắc tướng
thân trang nghiêm
Dường như thuật sĩ hiện hình tượng…
GIẢNG: Riêng bài kệ này
đã dùng ba lần chữ “thuật sĩ.” Tôi đã đọc cho quí vị nghe một
đoạn trong kinh Đại Bảo Tích nơi phẩm “Đại ảo sư Bạt Đà La” ở đạo
tràng này rồi, trong đó Phật tự nhận mình là một Đại Ảo Sư. Nên sự quán chiếu
về ảo rất quan trọng, ta nên thực hành sự quán chiếu ấy, vì không có gì lợi hơn
và khi quán lâu, những ý tưởng đó sẽ thấm dần vào chúng ta,rồi đi đâu, thấy
cảnh giới gì cũng thấy chẳng thật, chẳng hư, tất cả chỉ là một tuồng huyễn ảo,
dần dần nó sẽ trừ được nhiều thứ phiền não và hệ lụy. Đến khi quán chiếu ngay
cái thân ta cũng là ảo thì ở mức độ này, ta cũng có thể đối phó ít nhiều với
bệnh tật được rồi, có thể sẽ không còn cảm thấy đau đớn mấy đỗi, và khi tâm
thức chuyển dần lên cao thì bệnh tật không còn có thể móc vào ta được nữa.
KINH:
Hoặc hiện Đâu Suất mới
giáng thần
Hoặc hiện trong cung thọ dục lạc.
GIẢNG: Các ngài
có thể thị hiện thọ đủ những dục lạc của thế gian, như ăn uống, ngủ nghỉ và
ngay cả đến vấn đề nam nữ v.v.., nhưng vẫn không nhiễm đắm.
KINH:
Hoặc thấy rời bỏ những
vinh hoa.
Xuất gia lìa tục đi học đạo
Hoặc thấy mới sanh hoặc thấy chết
Hoặc thấy xuất gia học dị hạnh.
GIẢNG: Tất cả những gì
gọi là “dị” có nghĩa là ngoại đạo, và các ngài thị hiện đi vào
ngoại đạo để học, nhưng chính thật để chỉ cho ngoại đạo biết rằng, con đường tu
của họ vẫn chưa đến mực giải thoát rốt ráo. Còn tất cả chúng sanh chưa hiểu đạo
thì gọi lá “dị tánh”.
KINH:
Hoặc thấy ngồi dưới cội
Bồ Đề
Hàng phục ma quân thành chánh giác
Hoặc lại thấy Phật mới Niết Bàn
Hoặc thấy dựng tháp khắp thế gian
Hoặc thấy trong tháp thờ tượng Phật
Vì biết thời cơ hiện như vậy
Hoặc thấy Như Lai Vô Lượng Thọ
Phật thọ ký cho chư Bồ Tát
Mà thành vô thượng Đại Đạo Sư
Kế bổ nhậm ở cõi An Lạc
Hoặc thấy vô lượng ngàn ức kiếp
Phật sự đã xong nhập Niết Bàn.
GIẢNG: Trong tất cả các
đức Phật, riêng có ngài Đa Bảo là ngài không thuyết pháp, sau khi thành Chánh
giác ngài nhập Niết Bàn ngay, và ngài để lại toàn thân sá lợi, thì đó cũng là
một cách thuyết pháp. Còn đức Thích Ca để toái thân sá lợi (sá lợi nát ra
từng viên một).
KINH:
Hoặc thấy nay mới thành
bồ đề
Hoặc thấy chánh tu những diệu hạnh
Hoặc thấy Như Lai Thanh Tịnh Nguyệt
Ở tại Phạm Thế và Ma Cung.
GIẢNG: Đức Như Lai ở
trên trời Phạm thế và ngay cả cung điện của Ma nữa.
KINH:
Tự Tại thiên Cung, Hóa
Lạc Cung
Thị hiện thần thông những biến hóa.
GIẢNG: Lúc nào kinh cũng
nói sự biến hóa.
KINH:
Hoặc thấy ở tại cung Đâu
Suất
Vô lượng chư Thiên đồng vây quanh
Vì họ thuyết pháp cho hoan hỉ
Chư Thiên phát tâm cúng dường Phật
Hoặc thấy ở tại Dạ Ma Thiên
Đao Lợi, Tứ Thiên, cung Long Thần
Nơi cung điện Thiên, Long, Bát Bộ
Không chỗ nào Phật chẳng hiện thân.
GIẢNG: Ở chỗ nào Phật
cũng hiện thân. Ngay ở đây ngài cũng hiện thân mà chúng ta không nhìn nổi. Nếu
có một vị tu hành cao, ngồi tụng kinh với tâm thanh tịnh, tụng độ ba ngày vào
được định thì sẽ thấy Phật đang ngồi thuyết pháp. Vì thế, chúng ta cần ý thức
rằng chung quanh đây đều bao bọc bởi thế giới vô hình, rất ghê gớm, chỉ cần có
cơ hội là những lực vô hình có thể lọt vào được thân tâm ta rồi. Thí dụ như
người tu, chỉ cần khởi một tâm kiêu mạn, hay tâm tham dục thì ma lợi dụng ngay
kẽ hở đó để hại được họ rồi, vì vậy có rất nhiều trường hợp bị ma nhập, nhưng
thế gian không muốn nói đến mà cứ lờ đi. Ngược lại, nếu hành giả ấy không có
tâm kiêu mạn, tham dục hay mong cầu sự chứng đắc nào, thì chư Phật lại hiện ra
đối trước người ấy. Nên ta lúc nào cũng phải ý thức đến thế giới vô hình. Thí
dụ như ta làm một việc nào mà nghĩ rằng không có ai biết cả, nhưng các vị quì
thần đều biết hết, nghĩ như thế sẽ bớt đi những ý nghĩ cuồng ngông vô ý thức.
KINH:
Ở chỗ Nhiên Đăng Phật
Thế Tôn
Rải hoa, trải tóc để cúng dường
Từ đây biết rõ pháp thâm diệu
Hằng dùng đạo này độ quần sanh.
GIÁNG: Đoạn kinh này
nhắc lại một thuở quá khứ của đức Phật Thích Ca cúng dường Phật Nhiên Đăng. Lúc
đó ngài là một vị Bà La Môn tên Mê Già, đi cúng dường ngài Nhiên Đăng, gặp cô
con gái cầm hoa, hai người rủ nhau cùng mang hoa này cúng dường Phật. Sau khi
ngài rải hoa, ngài lại trải tóc, và trải cái áo da hưu xấu của mình để đức Phật
dẵm lên. Khi Phật dẵm lên chiếc áo ấy, ngài Mê Già đắc ngay vô sanh pháp nhẫn,
bay lên hư không nói kệ tán thán Phật Nhiên Đăng. Nên chúng ta phải có lòng tin
sâu chắc, tin chắc rằng, nếu có tu hành thì sẽ có ngày chứng đắc, như trong mây
câu kệ cuối cùng ngài Phổ Hiền dạy…
KINH:
Nếu ai nghe biển công
đức này
Mà sanh lòng vui mừng tin hiểu
Tất sẽ được những công đức này
Thận trọng chớ sanh lòng ngờ vực.
GIẢNG: Ngài Phổ Hiền dặn
dò chúng ta thế, vì biết phàm phu chúng ta hay khởi tâm nghi ngờ lắm. Không nên
khởi tâm nghi như vậy, phải tin chắc rằng một ngày kia, đức Phật sẽ dẵm lên
lưng ta, đắc ngay được vô sanh pháp nhẫn, bay lên hư không cao bảy cây đa la
nói kệ tán thán đức Phật. Chắc chắn sẽ như thế! Nên ta phải có lòng tin và sự
chuyên cần, đừng nhìn vào vật nhiều quá, vì khi nhìn vào vật nhiều sẽ là những
cơ duyên làm ta bị lùi lại mất vài ngày, vài năm, nhẫn đến vài kiếp trên con
đường tu chứng của ta. Hãy quay trở lại nhìn vào tâm, lúc đầu có thể chúng ta
sẽ ngơ ngác, sau quen dần, lúc đó sẽ nhìn thấy được nhiều điều kỳ diệu.
KINH:
Hằng dùng đạo này độ
quần sanh
Hoặc người thấy Phật lâu Niết Bàn
Hoặc thấy Phật mới thành bồ đề
Hoặc thấy Phật trụ vô lượng kiếp
Hoặc thấy giây lát liền nhập diệt
Thân tướng quang minh cùng thọ mạng
Trí huệ bồ đề và Niết Bàn.
Chúng hội được độ tiếng oai nghi
Mỗi mỗi như vậy đều vô số
Hoặc hiện thân mình rất rộng lớn
Như núi Tu Di đại bửu sơn
Hoặc thấy Phật ngồi chẳng động la
Sung mãn vô biên những thế giới.
GIẢNG: Ngài có thể hiện
ra như một hạt bụi, mà cũng có thể ngài ngồi kiết già, thân choán cả hư không.
KINH: Hoặc thấy viên
quang lượng một tầm…
GIẢNG: Tức là thân ngài
phóng quang minh ra khoảng một tầm. Tại sao chư Phật và đức Thích Ca chỉ hiện
quang minh một tầm thôi, trong khi ngài có thể hiện hào quang sáng chói mọi cõi
nước? Vì với chúng sanh như chúng ta nếu ngài phóng hào quang lộng lẫy chói
sáng quá ta sẽ khởi tâm sợ hãi, hơn nữa nghiệp chúng sanh chỉ đáng được như thế
thôi, nên ngài chĩ hiện một tầm thôi. Nhưng nếu một vị Bồ Tát cần phải hiện
mười tầm thì lúc đó ngài sẽ hiện mười tầm hay hơn nữa.
KINH: Hoặc thấy ngàn vạn
ức do tuần…
GIẢNG: Hoặc ngài có thể
phóng quang minh xa đến ngàn vạn ức do tuần. (Mỗi một do tuần khoảng
bốn mươi dặm).
KINH:
Hoặc thấy chiếu khắp vô
lượng cõi.
Hoặc thấy sung mãn tất cả cõi.
Hoặc thấy Phật thọ 80 năm (như Phật Thích Ca)
Hoặc thấy thọ ngàn muôn ức tuổi.
GIẢNG: Tùy theo thời
tiết và căn cơ của chúng sanh thì thọ mạng của chư Phật cũng thế. Thí dụ như
trong một cõi nào, thọ mạng chúng sanh lên đến tám ngàn tuổi thì ngài cũng thị
hiện thọ mạng dài như thế.
KINH: Hoặc thọ bất khả
tư nghì kiếp…
GIẢNG: Vì tất cả chỉ là
biến hóa của tâm, mọi sự đều có thể biến hóa ra được. Nhưng chúng ta lại không
biết được điều đó, suốt mấy chục năm sống, chỉ nhìn thấy những việc rất hữu
hạn, và tin chắc vào những điều mắt thấy, tai nghe ấy. Như cứ tin chắc rằng, người
thì phải chui từ bào thai ra mà không bao giờ nghĩ rằng có những trường hợp hóa
sanh, hoặc nghĩ rằng phải đi làm mới có tiền, phải ăn cơm, ăn thịt mới thấy no,
mà không biết rằng có những loài chúng sanh ăn bằng nhiều loại khác nhau, như
chỉ cần suy tư cũng no (tư thực), hay chỉ cần ngửi mùi
hương (xúc thực), và tuyệt nhiên không bao giờ hiểu rằng, thức
có thể nuôi sống thọ mạng được (thức thực). Khi chúng ta hết
được những tham dục thì sẽ được thọ sanh trong hoa sen, hay trong bông soài.
Những Phật tử tu theo
tịnh độ, thường tu theo hai cách. Thứ nhất là tu niệm Phật cho đến khi nhất tâm
bất loạn. Nhưng lối niệm Phật này rất khó, vì phải giữ sao cho tâm thật yên
tịnh, nhưng ngoài ra, chúng ta cũng có thể tu theo pháp môn “tán môn,” tức
là niệm Phật một ít, suy nghĩ về kinh một ít. Nhất là hiểu được tất cả thế gian
này đều là huyễn ảo, kể cả ngài A Di Đà và cõi Cực Lạc, thì có thể có hy vọng
vãng sanh. Hiểu được điểm then chốt ấy (về chữ ảo) chúng ta sẽ
bớt đi rất nhiều phiền não, bớt được nhiều tham dục, sân, si, và đồng thời
trưởng dưỡng được lòng từ bi bình đẳng.
KINH:
Hoặc thọ bất khả tư nghì
kiếp
Như vậy lần lượt bội hơn đây
Phật trí thông đạt tịnh vô ngại
Một niệm biết khắp pháp tam thế.
GIẢNG: Như tôi vẫn nói
đến vấn đề thời gian. Chúng ta luôn thấy có quá khứ, hiện tại, vị lai. Nhưng
chư Phật chỉ cần một niệm là có thể thấy tam thế hiện tiền (hiện
ra trước mắt), từ vô lượng kiếp về trước, nhẫn đến vô lượng kiếp về
sau.
KINH:
Một niệm biết khắp pháp
tam thế
Đều từ tâm thức nhơn duyên sanh
Sanh diệt vô thường không tự tánh.
GIẢNG: Đoạn này giảng
cũng giống như kinh Lăng Nghiêm, trong kinh nói “tâm ảnh ra sắc.” Còn
kinh Lăng Già lại nói tất cả từ do tâm ánh ra, từ A-lại-da thức phát khởi lên,
ánh ra thành sắc. Khi thọ sanh, chủng tử nở ra cái gì, lập tức ta sẽ lọt vào
cảnh giới y báo ở ngoài đúng y như thế. Như một người có những chủng tử nhiều
phước đức, nhiều trí huệ nở ra, thì lập tức thần thức sanh vào một y báo rất
tốt, vào một gia đình quyền quý, chung quanh đều bằng vàng ngọc, lưu ly. Ngược
lại, nếu những chủng tử ngu si, ít trí huệ, không có phước đức hay thiện căn,
thì thần thức ấy sẽ chui vào một gia đình bần cùng, hèn kém, không biết Phật,
pháp, tăng. Vì vậy trong kinh có câu: “Các chúng sanh đều là những
người nghèo cùng.” Nghèo cùng về thiện căn, về phước đức, và trí huệ.
Dù rằng có thể được làm vua có nhiều tiền bạc, nhưng cái tiền ấy chỉ đem lại
một ít vật chất trong kiếp này thôi, rất hữu hạn. Còn cái từ bi và trí huệ thì
đi qua nhiều kiếp tiêu xài cũng không hết. Vì vậy, giữa tiền bạc, của cải và
trí huệ, từ bi ta nên chọn cái trí huệ và từ bi ấy.
KINH:
Tất cả vào một, một vào
khắp
Tùy tâm chúng sanh đều thị hiện.
GIẢNG: Trong đạo Phật,
ta luôn luôn nên nhớ chữ “tùy tâm.” Vì có thân căn đẹp, xấu
thế nào, bị đui mù, hay những y báo bên ngoài, những quyến thuộc, bố, mẹ, vợ
con, sang trọng hay nghèo hèn v.v… đều tùy ở tâm thanh tịnh hay nhơ uế. Tâm ta
thế nào thì cuộc đời đãi ngộ đúng y như vậy, hiện ra như vậy.
HỎI: Lúc nãy ông có nói
rằng, tùy theo phước đức và trí huệ của mình thì sẽ sanh gia đình giàu có, còn
kém phúc thì sanh vào nhà bần hàn. Thì tại sao có những trường hợp người ta
sanh vào nhà bần hàn sau làm thủ tướng, tể tướng, hay làm quan lớn, hoặc làm
thương gia giàu có? Nếu nói rằng một người rất ít phước, rất ít trí huệ phải
sanh vào nhà bần cùng thì tại sao sau này họ lại được nhiều cơ duyên sung sướng
như thế?
ĐÁP: Quí vị nghĩ sao về
câu hỏi này? Khi một thần thức sắp thọ sanh, trong a lại da thức của người ấy
có những chủng tử nợ nần, hay những chủng tử ít thiện căn nở ra trước nên phải
chui vào nhà bần hàn đã, sau những chủng tử thiện, hay phước đức nở ra sau, nên
cuộc đời của họ biến chuyển theo phước đức ấy. Đó là vấn đề thời tiết, căn cơ
chín mùi ra sao thì sẽ như vậy, không phải tất cả những chủng tử đều nở tóe ra
cùng một lúc được. Nói về nghiệp lực thì thật trùng trùng, đan nhau chằng chịt,
chỉ có tuệ giác của Phật mới có thể nhìn thấy hết.
HỎI: Nếu nói về nghiệp
lực, thì một người kiếp trước phải tích đức nhiều, nếu kiếp này vì còn rơi rớt
những chủng tử xấu, hay còn nợ nần nhiều người thì phải chui vào nhà bần cùng
để trả nợ, cũng có nghĩa rằng, đó cũng là do nghiệp xấu của kiếp trước chi
phối, như vậy cũng là kém rồi.
ĐÁP: Tâm thức của chúng
sanh là một tiến trình triển chuyển luôn luôn. Nó không phải là một cái gì cố
định, ù lỳ. Nói cách khác, không phải người sanh trong nhà khá giả phải nhất
định là phước đức hoàn toàn, vì trong a lại da thức, từ nhiều kiếp nó huân tập
tất cả những chủng tử, từ những chủng tử tốt, xấu, phước đức, bất hạnh v.v… mà
không chừa một loại chủng tử nào. Đến khi đi thọ sanh, những chủng tử nào nở
trước thì y báo tương ưng sẽ hiện ra. Vì vậy, trong đạo phật, cũng có tướng số,
có thiên văn và đủ mọi thứ, vì Phật pháp chính là thế gian pháp. Nhưng đừng bị
vấp vào đó để cản trở con đường tu hành của mình, vì khi ta bị vấp vào những
cái tử vi, quẻ số, tiên đoán những hên sui trong tương lai, lúc đó tâm ta sẽ
bận bịu suốt ngày về những thứ ấy, rồi quên mất mục đích chính của mình là trở
về Tâm, tìm cầu sự giải thoát.
Trong bộ Đại Trí Độ luận
kể một câu chuyện rằng:
Có một vị tu sĩ khổ hạnh
tu trong một khu rừng, mỗi ngày ra suối tắm và giặt quần áo mà thỉnh thoảng
trong quần áo ấy, nhiều khi vị tu sĩ bị mộng tinh nên những tinh khí rơi rớt ra
trong khi giặt, sau đó có một con hưu cái đến uống nước ấy, sau đó thọ
thai. (Ta phải hiểu rằng, không nên xét nhãn quan về pháp giới này một
cách hạn hẹp, gần gần, vì có nhiều kiếp xa xôi về trước có sự thọ thai, hay
sinh nở cũng rất lạ.) Đến thời kỳ sanh con, hưu cái trở lại nơi nó thụ
thai kêu la thảm thiết rồi sanh ra một đứa bé, sau đó nó bỏ đi. Vị tu sĩ nghe
tiếng kêu la, chạy ra thấy một đứa bé nằm trên phiến đá, thương tình ông mang
về nuôi. Thằng bé lớn lên rất thông minh, nhưng nó lại mang hai cái chân hưu,
sau rất giỏi về thiên văn, rồi gặp được Phật xin xuất gia, và đắc quả A
la hán. Một hôm, hai thầy trò đi đến một vùng làng mạc vào một buổi
chiều, cả hai ngồi xuống một ven rừng nghỉ chân, vị tỳ kheo chân hưu nhìn tinh
tú một hồi và nói rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, thật là nguy, con xem tinh tú và
biết rằng xứ Ma Gia Đà này sẽ bị mưa liền trong mười hai năm trời, tất cả mùa
màng đều hỏng, tật bệnh, đói kém xảy ra khắp nơi, sẽ có rất nhiều người chết.” Đức
Phật không nói gì, ngài chỉ ngồi im lặng một lúc, sau đó ngài bảo: “Bây
giờ ông thử coi lại tinh tú xem sao?” Vị Tỳ kheo chân hưu coi lại bảo
với Phật rằng: “Bạch Thế Tôn, lạ quá, con coi lại thì các tinh tú đã
chuyển đường hướng vận hành, mưa chỉ còn lại có bảy ngày thôi.” Thì
ra, chính Phật đã dùng thần lực chuyển tất cả đường đi của tinh tú, đồng thời
ngài phải gánh cái nghiệp mười hai năm đói kém cho dân chúng miền đó.
Đó là về thiên văn,
tướng số trong đạo phật. Trong Đại Bảo Tích cũng có kể một câu chuyện, một vị
tu sĩ tu trong núi Tuyết Sơn mấy chục năm ròng rã, lúc nghe Phật đi ngang qua
miền ấy, ông ta bèn xuống núi gặp Phật để tranh luận với ngài, ông ta hỏi Phật
rằng: “Ngài là ai? Ngài có biết về pháp môn Tinh tú học không?” Phật
ngồi im một hồi rồi bảo rằng: “Cái đó tôi có thể biết được, nhưng ông
tu về tinh tú mấy chục năm nay, cũng tốt đấy, nhưng những thứ đó chỉ làm cho
ông thêm bận tâm mà không đưa ông đến được sự giải thoát nào, ông phải nên nhớ
trong đời này, cái may, sự rủi đều không quan trọng, cái quan trọng nhất là làm
sao cho tâm ta thanh tịnh, an nhiên.”
Trong cuộc đời chúng ta,
ai cũng chỉ thích sự may mắn mà không bao giờ chấp nhận sự rủi ro, nhưng tất cả
những thứ ấy chỉ là những cặp đối đãi do vọng tưởng tạo thành, không có gì là
chắc thực cả. Vì khi cái may nó đến thì âm đức lại kém đi, còn gặp cảnh rủi ro
thì nghiệp vơi đi, thì có gì cần và quan trọng đâu, tất cả đó chỉ là do nghiệp
tắc nhân quả mà thành. Thí dụ như một người giỏi về bói toán hay tướng số, suốt
ngày ngồi trong nhà, có một con chim khách bay qua hót lên ba tiếng, ông vội vã
ngồi bấm độn xem số mạng ấy thế nào. Rồi cả ngày chỉ bận rộn vào ba cái hào,
cái quẻ, tất nhiên tâm lúc nào cũng bận, thì làm sao có trí huệ, làm sao tâm
được thanh tịnh, yên vui? Vì vậy, một số người tu hành, đến một mức nào đó,
hiểu về pháp giới được một ít, cho là đủ, suốt ngày bận bịu với những thứ ấy,
không biết rằng tất cả những thứ đó chỉ là sự biến hiện của tâm, chỉ dạy những
thứ đó, mà quên mất Tâm. Muốn biết được tất cả phải buông bỏ mọi nhân duyên,
càng buông thì tâm càng lớn, đến tột bờ mé, nhập vào pháp giới với tâm là một.
Đó mới chính là bản hoài của chư Phật.
Nên trong đạo Phật, nho,
y, lý, số v.v… đều có, nhưng đó chỉ là những biện pháp tạm thời ở một mức
độ tu chứng nào đó thôi, nếu còn chấp và đó thì chỉ làm bận tâm hành giả, mà
không đưa hành giả đến được cái tâm như như bất động được.
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
Ngày 21 tháng 7 năm 1994
Hôm nay là buổi thuyết
giảng thứ một trăm ba mươi mốt về kinh Hoa Nghiêm tại chùa này, đồng thời cũng
là buổi thuyết giảng thứ mười tám của Đại Bát Nhã. Nhưng trước khi vào kinh,
chúng tôi muốn thông báo cho quí vị mấy điểm. Tới ngày mùng 7 tháng 8, trong ban
kinh này có bốn người, tôi, ông Minh Đạo, ông Đính và bà Định làm một cuộc hành
hương sang Ngũ Đài Sơn. Chúng tôi có làm một bản khấn nguyện, (cũng như
trước kia chúng ta có làm một bản khấn nguyện ở núi Linh Thứu vậy), nếu
quí vị nào có muốn ký tên, cùng khấn nguyện thì xin ký vào đây.
Trong đời mạt pháp này,
chúng ta tu hành thực ra không được tinh tấn lắm, vì nghiệp chướng còn sâu dày,
phước đức cạn mỏng, nên đôi khi muốn dâng những sớ ngay ở các Thánh địa nhờ chư
Phật và chư Đại Bồ Tát gia hộ. Theo tôi biết, ở núi Linh Thứu có ngài Mật Tích
Kim Cang Bồ Tát mà chúng ta có thể nương về được. Còn ở Ngũ Đài Sơn có
ngài Thanh Lương, là một vị tổ của tông Hoa Nghiêm và trên đó lại còn có đức
Văn Thù hay hiện thân. Tôi xin đọc bản khấn nguyện như sau:
Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ
Tát.
Nam mô Thanh Lương Hoa Nghiêm Bồ Tát.
Chúng con là những Phật
tử trong ban Hoa Nghiêm tại chùa Trúc Lâm Yên Tử, vùng Santa Ana, tiểu bang
California, Hoa Kỳ. Xin kính cẩn đề trình bản khấn này. Cầu xin cho thế giới
được an bình, bớt thiên tai và chiến tranh, cầu xin gia bị cho chúng con, đọc
tụng và giảng nói bộ kinh Đại Bát Nhã ba la mật đa. Lấy công đức hồi hướng cho
tất cả để làm tư lương vãng sanh Tịnh Độ.
Bản khấn nguyện chỉ có
thế, lát nữa, sau buổi giảng, vị nào muốn ký tên vào bản khấn nguyện này xin
ghi vào.
Nay ta trở lại kinh…
Vừa rồi chúng ta tụng
một phẩm Bát Nhã, trong đó Phật dạy rằng, mỗi khi có người tụng, hay giảng nói
Bát Nhã ba la mật đa tâm kinh thì vô lượng chư Thiên tới nghe. Vì thế, chúng ta
phải cố gắng mà tụng, đừng khởi tâm giải đãi, lấy công đức đó hồi hướng cho tất
cả làm tư lương vãng sanh Cực Lạc.
Trong kinh lại nói thêm
rằng, khi vô lượng chư Thiên tới nghe, thường thường có hào quang, nhưng mắt ta
kém cỏi nên không nhìn thấy, và có mùi hương lạ, nhưng dĩ nhiên chúng ta cũng
không ngửi thấy. Nhưng khi các vị chưThiên đến thì các tiểu quỷ phải đi xa
ngay.
Về kinh Hoa Nghiêm,
chúng ta giảng đã gần xong, nên trước khi giảng nốt nửa bài kệ ấy, tôi xin
giảng qua một ít về Bát Nhã.
Chúng ta đang ở trong giai
đoạn tiền bát nhã, tức là giai đoạn chuẩn bị để đi vào kinh thôi. Trong Bát Nhã
có ba giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất
là Văn tự bát nhã. Văn tự, là trong một, hai kỳ nữa chúng ta
sẽ đi vào những lời kinh xem ngài dạy thế nào, ngài nói những gì là vô sỡ đắc,
các gì là vô sở hữu v.v…, chúng ta sẽ được nghe những lối lập luận của ngài Tu
Bồ Đề, Xá Lợi Phất như thế nào. Thực ra, trong kinh, Phật nói rất ít, để cho
mấy vị đại đệ tử nương vào thần lực của Phật luân phiên giảng nói về Bát Nhã.
Thường là ngài Tu Bồ Đề, Xá Lợi Phất, Phú Lâu Na, Thiên Đế (Ngọc Hoàng
Thượng Đê) luân phiên nhau nói. Vì vậy, các chư thiên tề tựu rất đông.
Chúng ta khởi sự đi vào kinh cho quen dần lời kinh, vì lời kinh lúc nào cũng
nói đến chữ “ly”,đến mức độ sau này đọc không còn thấy vướng nữa, lúc đó tâm đã
hơi thuần thục rồi, kinh gọi là “nhu nhuyễn.” Đó là giai đoạn
văn tự bát nhã.
Giai đoạn thứ hai, là
chúng ta có thể học tại chùa này, hoặc khi về nhà, hay ở bất cứ nơi chốn nào,
tùy tâm thức mỗi người, ta phải tu tập “Quán chiếu bát nhã.” Vậy
thế nào là Quán chiếu bát nhã? Thường thường trong kinh dạy,
đầu tiên là ta phải quán vô thường, mọi sự mọi vật đều vô
thường biến đổi, không có cái gì là thường còn mãi mãi cả. Thứ hai, lên cao hơn
một bậc là ta phải quán lý nhân duyên, thấy tất cả các pháp
đều là những nhân duyên hội tụ lại, như thân căn này nó không thực có, chỉ là
sự hội tụ của vô số tế bào, hộ trùng kết thành thân căn này, đến khi những con
hộ trùng và các tế bào ấy hết duyên nghiệp, thì nó tách rời ra, mỗi đứa đi một
đàng, đứa đi ngược, đứa đi xuôi, lúc đó ta sẽ mất đi cái thân này, vì thế gọi
là không. Mà tất cả các pháp đều như thế, thân căn chúng ta, bàn này, ghế kia,
chùa chiền v.v… đều là do vô lượng những nhân duyên hội tụ lại, kết lại do
những nghiệp cũ, khi kết lại đúng thời gian thì nghiệp lực giữ nó lại, làm
thành hiện hữu một thời tiết dài, ngắn nào đó, khi hết nghiệp thì tự nhiên nó
rũ ra, thì cái pháp ấy không còn nữa. Thứ ba, chúng ta quán lên cao nữa là quán
theo lối như huyễn. Rồi thứ tư là hành giả sẽ quán đến chỗ như như tịch tĩnh,
trạm nhiên tịch chiếu, đó chính là cái tâm của mình. Đó là giai đoạn quán
chiếu bát nhã. Thì tùy mỗi người, sau khi đọc kinh, thấy ta hợp với
lối quán chiếu nào nhất thì hành theo lối ấy, thích quán theo lối nhân duyên,
hay như huyễn, hoặc tu tâm từ v.v… thì làm theo thế ấy. Riêng tôi, tôi chọn cái
quán nhưhuyễn. Như tôi đã thường nói nhiều lần ở đây, lối quán chiếu này, theo
tôi dễ thực hiện hơn cả. Như khi ta đi chơi ngoài phố, đến công viên, trông
thấy một cái cây mọc lên, ta quán chiếu rằng cái cây đó cũng mọc trong tâm của
ta mà ra cả. Hoặc trông một chiếc lá lắt lay, rung động, ta nghĩ rằng, cái tâm
ấy cũng đang lắt lay rung động vậy. Hay ta xuống phố, vào trong khu Phúc Lộc
Thọ ngồi ăn, thấy lao xao chung quanh những người nào ăn, nào uống, nào trẻ con
chơi nghịch, người lớn cười đùa, đôi khi cãi vả ồn ào, mà lúc đó ta vẫn giữ
được tâm bình lặng và quán chiếu rằng: Tất cả những thứ đó đều “hiện-trong-tâm
mình, chứ không- phải-ngoài-tâm”. Hay những lần ra biển chơi, trông thấy nước
bao la trùng trùng, nhiều khi khỏi tâm sợ hãi, nhưng rồi cũng phải quán rằng,
tất cả cũng đều nổi lên trong tâm mình mà thôi. Vì trong kinh Lăng Nghiêm dạy
rằng, tất cả sơn hà đại địa của vũ trụ này đều nổi lên trong tâm tương tự như
áng mây xanh trên bầu trời. Lối quán chiếu này đi đâu, làm gì, cũng đều làm
được cả, đồng thời chúng ta cũng có thể mỗi ngày đề khởi tâm Từ khoảng
mười lăm hay ba mươi phút. Đề khởi tâm Từ để làm gì? Để cho
tâm ta mềm lại, nhu nhuyễn hơn, vì tâm ta bây giờ rất thô tháo, cứng ngắc, vì
từ nhiều kiếp nó chỉ thích chạy theo ngoại vật, vì nó chấp ngã một cách kiên
cố, người nào nói chạm đến mà không hợp ý là ta nổi sân lên ngay. Đó là tâm
thô, không có mềm mại. Nên ta phải đề khởi tâm từ mới làm bớt đi được tham,
sân, si, ngã mạn…, lúc đó mới có thể đi sâu vào vô thức.
Vì vậy, trong kinh Pháp
Hoa, có ngài Thường Bất Khinh, gặp ai cũng lạy. Đó chính là vì ngài quán cái
tâm ấy, trông người kia xấu xí, tật nguyền, nhưng ngài biết được người ấy cũng
có phật tánh trong tâm, cũng từ một biển diệu tâm mà ra, nên lễ lạy chính là lễ
lạy cái tâm ấy, cái Phật tánh ấy.
Giai đoạn thứ ba là giai
đoạn “chứng nhập”. Chứng nhập thì ghê gớm quá, chúng ta chưa
cần phải nói đến, vì chưa ai đến mức độ đó cả.
Nhưng hôm nay, tôi
muốn nêu lên một vấn đề, có lẽ vấn đề này nhiều người đã nghe qua, nhưng
chưa có thì giờ hoặc có dịp để suy nghĩ kỹ. Trong đạo Phật có hai chữ mà chúng
ta luôn luôn nghe nhắc tới, nhưng có thể chúng ta chưa hiểu rõ, mà hai chữ này
rất cần hiểu rõ để sau này biết được trình độ tu chứng của chính mình và những
người khác. Chữ thứ nhất là chữ “NGỘ,” chữ thứ nhì là chữ “GIÁC.” Vậy thì thế
nào là ngộ, và thế nào là giác? Trong kinh Pháp Hoa nói đến bốn chữ: KHAI,
THỊ, NGỘ, NHẬP, thì chỉ có chữ ngộ mà không có chữ giác, vậy
chữ giác trong bốn chữ này là chữ nào?
Chữ “giác” chính
là chữ “nhập.”
PHẬT TỬ: Nếu theo như
lời ông giảng, tôi nghĩ như vậy chữ “ngộ” là chỉ cho con đường mới chớm hiểu về
pháp giới. Còn chữ “Giác” là… chắc là phải hiểu sâu lắm rồi, có phải chăng?
ĐÁP: Đức Phật ngài là
bậc giác ngộ. Nhưng thường chúng ta gọi ngài là bậc Đại Giác mà không dùng chữ
ngộ. Và ngài Thiện Tài đồng tử mà chúng ta đang học, thì ta lại gọi là bậc Đại
Ngộ hay bậc Đại Giác? Theo ý tôi, kinh Hoa Nghiêm là kinh của nhập pháp giới,
ít khi dùng chữ ngộ…
HỎI: Vậy xin hỏi, ngộ là
gì?
ĐÁP: Ngộ là nhận ra.
HỎI: À…, hóa ra chữ ngộ
chỉ có nghĩa là “mới gặp thấy” thôi, chữ ngộ còn kém chữ “đắc,” vì theo như tôi
suy luận, chữ đắc nó sâu xa hơn, có phải không?
ĐÁP: Đắc là một danh từ
gọi chung. Thí dụ một hành giả đắc được một quả vị thấp nào đó cũng gọi là đắc,
hoặc một quả cao nào đó cũng gọi là đắc. Trở lại chữ ngộ, nó không có nghĩa là
“gặp gỡ” đâu, mà nó có nghĩa là “nhận ra.” Khi một hành giả tu đến mức nhận ra
cái tâm của mình thì gọi là “liễu ngộ” đến khi vào được lớp ngoài của tàng thức
sơ năng biến, tức là chớm bước vào không hải thì gọi là “đại ngộ,” nhưng nếu
hành giả không dừng ở bờ mé ấy mà lặn sâu xuống đáy, đến chỗ tột không, khởi
lên tất cả những giả hữu để độ sanh thì đó mới gọi là giác và đại giác. Vậy
thì, các vị Bồ Tát là những bậc đã vào được đến tàng thức rồi, nhưng còn tùy
theo mức độ nông, sâu. Trong con đường lặn sâu vào tàng thức, cũng có nhiều
giai đoạn, khi vượt một phần thì gọi là “tương tợ giác” (ngờ ngợ biết được pháp
giới), sâu hơn nữa thì gọi là “phần giác” (biết được một phần pháp giới), và
lặn đến tột đáy tàng thức ấy thì gọi là “đại giác” (biết được toàn thể pháp
giới, hay nhập pháp giới trọn vẹn)
Quý vị phải nhớ rõ con
đường đi vào tâm thức bằng những danh từ này: Liễu ngộ, chứng ngộ,
tương tợ giác, phần giác và đại giác. Nên ngài Thiện
Tài trong Hoa Nghiêm không thể gọi là ngộ được mà đến đoạn cuối, lúc ngài gặp
ngài Phổ Hiền thì ở mức độ gần như Đại Giác rồi. Hơn nữa, có thể nói tất cả
những nhân vật trong Hoa Nghiêm ta cũng không thể dùng chữ ngộ được, vì các
ngài toàn là những bậc ở mức độ phần giác hay đại giác cả.
Vậy thì những vị nào hay
dùng chữ ngộ nhất? Đó là những vị tu thiền. Như tông pháp của Thiền đốn ngộ
chẳng hạn. Nhưng hai mươi tám tổ sư thiền bên Ấn (Tây độ) là
những vị thiền sư rất cao, mà không bao giờ các ngài tự nhận mình giác hay tự
nhận mình là Phật cả. Còn nói về năm vị tổ thiền đầu tiên bên Trung Hoa (Đông
độ), là những ngài Đạt Ma, Huệ Khả, Tăng Xán, Đạo Tín và Hoằng Nhẫn
cũng không bao giờ nói về mình, không tự cho mình là những bậc đại giác. Tôi
cho rằng các vị như Hoằng Nhẫn, Hám Sơn và Hư Vân các ngài không phân biệt tông
với giáo. Ngài Hám Sơn và ngài Hư Vân cũng niệm Phật. Riêng có ngài Hoằng Nhẫn,
ngài viết cuốn sách “Tối thượng thừa luận” thì ngài nói một
câu rất khiêm tốn, không bao giờ khoe mình, vì trong trang cuối của cuốn sách,
ngài nói với Phật rằng: “Con viết bộ luận tối thượng thừa này, là con y văn,
nhận nghĩa, chứ không phải là do sự chứng đắc.” Từ ngài Huệ Năng trở
về sau, thiền Đông độ đi vào một khúc rẽ. Thứ nhất là các ngài có vẻ Trung Hoa
hóa vấn đề thiền, đồng thời đưa đến bát nhã, nhưng bát nhã đã đượm mầu sắc vô
vi của Lão, Trang, về sau, lại xiển dương những thứ đó thành những công án và
thường thường các ngài chỉ nhấn mạnh chữ “ngộ” thôi. Vì các ngài lập luận rằng,
các thiền khác của nhà Phật gọi là “Như Lai thiền” thì các
ngài không theo những lốì thiền ấy, mà lại theo Tổ sư thiền, mà
Tổ SƯ thiền bắt nguồn từ điển tích “Niêm hoa vi tiếu,” tức là
khi đức Phật ngồi ở Linh Sơn, đưa cành hoa lên ngài Ca Diếp hiểu được ý
Phật nên mỉm cười. Có nghĩa là “lấy tâm truyền tâm.” về sau, các vị thiền
sư Đông độ đưa cái đó lên, và cho rằng TỔ sư thiền hơn Như
Lai thiền. Điều đó, tôi nghĩ chưa hẳn là đúng. Lại còn nói rằng, Như
Lai thiền được dạy trong các kinh, còn riêng Tổ sư thiền thì
không có trong các kinh, chỉ lấy “tâm truyền tâm” mà thôi. Thí
dụ như trong Hoa Nghiêm, có một lối thiền gọi là “Quán pháp giới,” mà
ngài Đỗ Thuận và ngài Thanh Lương chủ trương, nhưng lối thiền ấy, sau này không
có mấy người theo, vì không mấy người đọc nổi Hoa Nghiêm. Đồng thời lại có kinh
Lăng Nghiêm đưa ra phép quán “Như huyễn tam ma đề” phép quán
này có ba giai đoạn: không, giả và trung. Trước hết đi vào không
hải, đó là lịch trình mà hành giả phải đi qua sắc ấm, qua các cảm giác (thọ
ấm), rồi vượt qua những tâm tưởng (tưởng ấm), hóa
giải tất cả những thứ đó, rồi qua hành ấm chấp ngã, hóa giải luôn cái ngã ấy,
rồi đi vào thức ấm sơ năng biến. Lúc đó, hành giả đã bắt đầu đi vào biển tàng
thức lung linh kỳ diệu, cái không hải của tâm thức. Trong lúc quán chiếu đi vào
không hải, khi vào được tàng thức sơ năng biến, hành giả không được dừng lại ở
đó. Thường những vị đã vào được tàng thức sơ năng biến là tương đương gần như
một vị A La Hán, đã đi qua được tứ thiền, tứ không định, rồi qua luôn diệt thọ
tưởng định để vào tàng thức sơ năng biến. Vào trong đó rồi, các ngài gột nốt
những phiền não chướng để thành quả A La Hán. Còn những vị tu theo pháp môn
Tịnh Độ thì theo hạnh nguyện sẽ thây đức A Di Đà. Ta nên nhớ rằng tất cả con
đường tu tập thiền hay tịnh, đều phải đi vào tàng thức sơ năng biến, dù là
thiền đốn ngộ, nghi tình, công án hay thiền theo lối Thiên Thai v.v… cũng phải
đi vào tàng thức sơ năng biến ấy. Nhưng phương tiện dùng thì khác nhau. Đây
cũng chính là con đường quán chiếu bát nhã.
Nay, tôi xin đơn giản
hóa và tóm lược lại cho quí vị nắm được những ý chính. Trong nhà thiền, đại
khái là có một pháp môn là “Như Lai thiền” dạy trong các kinh, và
một phương pháp khác là “Thiền đốn ngộ,” Tổ sư thiền mà bây giờ có
nhiều người theo học, phương pháp thiền đốn ngộ này là bất lập văn tự, không
quan tâm đến kinh sách nhiều. Nay, ta nói đến Như Lai Thiền trước,
xem sự khác biệt như thế nào.
Các vị Bồ Tát tu tập đi
vào không hải, vào được đến đó thì phải LẶN SÂU XUỐNG để khởi lên những cái giả
độ sanh và trung quán song chiếu để thành Phật. Còn các vị Thanh Văn thì đầu
tiên các ngài tu tứ niệm xứ, sau đó đến 37 phẩm trợ đạo, rồi tu tứ thiền, vào
bốn không định bằng cách quán tứ đế và thập nhị nhân duyên để vào được diệt
tưởng định, sau đó rồi sẽ vào được không hải. Không hải ở đây là cái rỗng không
của tâm thức, nhưng các vị Thanh Văn chỉ mới chớm bước vào không hải thôi, chưa
lặn sâu. Ở đây, các ngài ngồi quán chiếu để tiêu dung đi tất cả phiền não
chướng như: Tham, sân, si rồi thành quả A La Hấn, dứt được phân đoạn sanh tử,
không phải thọ sanh trở lại nữa.
Còn thiền của đại thừa
thì có những ngành thiền nào? Như bên Trung Hoa, có một ngành thiền tạm gọi
là Hoa Nghiêm thiền. Tổ của ngành này là ngài Đỗ Thuận và
Thanh Lương, nhưng rất tiếc ngày nay không còn được truyền thừa nữa, vì lúc
đầu, các vị trí thức bên Tầu theo Hoa Nghiêm rất nhiều, nhưng sau thấy quá khó,
kinh lại dài gần năm ngàn trang tụng mãi không hết, nên càng ngày càng thưa
dần. Và còn có một ngành thiền khác bên Trung Hoa, đi khá đúng như trong kinh
đó là ngành thiền Thiên Thai, do ngài Huệ Tư và Trí Giả Đại Sư
ở núi Thiên Thai lập nên. Các vị tổ này cũng đồng thời với ngài Huệ Năng bên
thiền đốn ngộ. Trong ngành này, Tổ Thiên Thai cũng lập theo lốì không, giả,
trung, và nói đến “nhất tâm tam quán.” Trước hết phải quán
không, đi vào bát nhã, sau quán giả để đi vào đại bi, sau đó là “không-giả” song
quán. Trong con đường thiền định của ngành này, ta thấy đi đúng như trong kinh.
Vì trong Lăng Nghiêm cũng nói rằng, có ba giai đoạn tu “như huyễn tam
ma đề” là: Samatha (không quán), Sa-ma-bát-đề (giả
quán) và thiền na (trung đạo song chiếu). Nhưng bên ngành
thiền đốn ngộ lại đưa ra một lối lập luận khác, tuyên bố rằng, không cần phải
lập văn tự, chỉ cần “trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành Phật.” Vậy
thì câu “kiến tánh thành Phật” là câu mà chúng ta cần phải xét
kỹ. Thực ra, các vị Tổ thiền sau ngài Huệ Năng chỉ nhận mình là ngộ, đâu dám nói
đến chữ “giả.” Đủ biết rằng, những giai đoạn của ngành tu thiền đốn ngộ, thí dụ
như hành giả đề khởi nghi tình, hay quán thoại đầu để đi vào không hải, mà vào
đến đó cũng chưa xong chuyện, (chứ đừng nói đến chuyện thành Phật), vì
chính trong nhà thiền, cũng có một chữ gọi là “bảo nhậm.” Bảo
nhậm có nghĩa là khi một hành giả mới lọt vào không hải thì phải “bảo
nhậm” cái kiến tánh đó, vì cái đó chỉ là một sự “thoáng nhìn
thấy” (glimpse) không hải của tâm, chưa đến được mức độ nhìn thấy
thường trực. Vì vậy, phải vào rừng sâu, tu 30 năm để bảo nhậm cái đó. Nói một
cách dể hiểu, hành giả phải tập sông không lìa tánh, giữ cái tánh đó thường
trực hiện hữu, sau đó mới đi vào quán giả. Nên các vị thiền Trung Hoa, thường
hay nói một cách phóng khoáng, và tuyên bố câu “kiến tánh thành Phật”. Nhưng
thực ra, từ kiến tánh đến thành Phật là cả một đoạn đường dài xa cần khổ, vì
kiến tánh chỉ mới thành tựu được không quán, (một phần ba đường tu) mà
các ngài còn phải đi nốt con đường giả quán và trung đạo song chiếu. Mà trong
hai phần ba đoạn đường cuối cùng này, giả quán và trung đạo song chiếu, phải
đạt nhiều thần thông biến hóa thì mới tới được mục đích tối hậu. Một điều nữa
cần để ý, các vị thiền sư Trung Hoa ít có vị nào có thần thông, nếu có người
hỏi đến thần thông thì các ngài lại bác, chỉ nói rằng ta kiến tánh diệu dụng vô
cùng mà không cần thần thông. Nhưng chính trong kinh Hoa Nghiêm dạy, phải có
thần thông mới độ sanh được. Nên tôi nghĩ rằng, các vị bên thiền đốn ngộ, sau
này ăn nói một cách quá bát nhã, phóng khoáng, cứ nói vô trụ, vô tâm, kiến tánh
thành Phật v.v… như chuyện kiến tánh là thành Phật rất dễ, nên gieo lại nhiều
sự ngộ nhận cho người đời sau. Các ngài quên rằng, tập khí của một chúng hữu
tình rất sâu xa ghê gớm, vì nhiều khi một hành giả đã trừ được những tâm niệm
thô, lúc đó tâm đã được tĩnh lặng đôi chút, nhưng ở trong, tập khí biến dịch
sanh tử còn nhiều. Chẳng cần phải tìm đâu xa, ta cứ xét chính mình cũng biết
ngay. Lúc ta đọc kinh, hay giảng một bài pháp, thì lúc đó ta có vẻ từ bi, tự
tại lắm, có vẻ không lấy gì tham, sân nhiều. Nhưng nếu có một người nào dè bỉu,
chê bai thì lúc đó tập khí lại nổi lên ầm ầm, chẳng có gì là từ bi,tự tại. Hơn
nữa, tập khí chấp ngã rất kiên cố, đừng tưởng chỉ cần một sớm, một chiều, một
vài tháng, một vài năm mà có thể tiêu trừ được. Vì vậy, trong Thiền đốn ngộ,
chuyện kiến tánh là chỉ giai đoạn “mới-chớm-vào-không-hải” thôi,
còn hai phần ba con đường phải đi. Nên sau khi kiến tánh rồi, cần phải đi vào
rừng sâu, tu ba mươi năm để bảo nhậm cái đó, cho kiến tánh ấy không bị lu mờ.
Và chính Tổ Đạt Ma cũng dạy tu theo lối quán không, trung,giả, bằng cớ là câu
chuyện của ngài Huệ Khả đến cầu pháp mà tôi đã kể một lần ở đây
rồi. Khi Tổ Đạt Ma hỏi ông đến đây đề cầu gì? “Thưa thầy, con chỉ xin
thầy an tâm cho con”. “Vậy ông đưa cái tâm đây ta an cho”. Lúc đó Huệ
Khả đứng suy nghĩ một lúc, thấy rằng cái thân này không phải là tâm, lên đến
những cảm giác phù du hư ảo cũng không phải là tâm, lên đến những tâm tưởng
cũng chỉ là những vọng tâm, không phải là chân tâm, rồi lên đến cái ngã cũng
không thấy có nữa, nên thưa rằng: “Con không thấy tâm ở đâu cả. “Vậy là
ta đã an tâm cho ông rồi đó”. Tức là ngài đã đưa ngài Huệ Khả vào nơi
không hải, thành tựu giai đoạn không quán. Tu một ít lâu nữa, thì ngài Huệ Khả
lại trình lên Tổ Đạt Ma rằng: “Thưa thầy, con đã buông bỏ muôn duyên
rồi,” buông bỏ muôn duyên tức là ngài Huệ Khả đang bơi lội trong không
hải ấy, không còn một duyên gì vướng ngại nữa. Lúc đó, Tổ Đạt Ma bèn dặn
rằng: “Cẩn thận, chớ rơi vào đoạn diệt, hãy đi vào diệu hữu.” Ý
nói rằng, ông đã vào được không hải đó rồi, nhưng đừng trụ vào cái không ấy, mà
khởi giả quán để đi vào diệu hữu. Nên ta thấy rõ, từ sau ngài Huệ Năng, các vị
thiền sư Trung Hoa rơi vào cái đà mê say, muốn Trung Hoa hóa ngành Thiền đốn
ngộ, đồng thời nhuộm thêm mầu sắc vô vi của Lão, Trang. Nên các ngài ít nhắc
tới quán giả và quán trung mà chỉ nói đến phép đi vào kiến tánh thôi, tức là đi
vào không hải. Do đó, các vị thiền sư không bao giờ gọi là giác mà chỉ gọi là
ngộ thôi.
Còn tu theo lối Tịnh Độ
của chúng ta thì sao? Thì thấy rõ rằng, lối tu tịnh độ chẳng có gì kém thiền,
hơn thế nữa, cũng có thể gọi là “Đốn-ngộ-trực-chỉ.” Vì khi ta
chuyên tâm niệm Phật vào đến niệm Phật tam muội, đó cũng là con đường đi vào
không hải, lọt vào đó thì bên thiền tông sẽ kiến tánh, còn Tịnh Độ sẽ thấy được
đức A Di Đà. Một đằng là phi thần hóa (thiền),một đằng là thần hóa (Tịnh
Độ). Một hành giả tu Tịnh Độ sẽ thấy được đức A Di Đà khi vào không
hải ấy. Nhưng lúc chết, ta có thể thấy được ngài là vì bất cứ ai chết cũng phải
có một lúc thần thức được rút lên lọt vào không hải ấy, đó là một cơ hội tự
nhiên mà ta có thể thừa dịp để được giải thoát dễ dàng. Phương pháp Tịnh Độ có
điểm rất hợp cho thời mạt pháp là người tu có thể tu theo
cách “tán môn” cũng có thể được vãng sanh, mà không cần phải
niệm đến mức nhất tâm bất loạn. Thứ nữa, theo như bên Mật Tông của Tây Tạng
dạy, thì mỗi người khi chết đều có một cơ hội tự nhiên để được giải thoát. Có
hai cơ hội tự nhiên con người có thể được giải thoát. Cơ hội thứ nhất là trong
kiếp hoại, khi thế giới này băng hoại đi, lúc đó tự nhiên trên trời có tiếng
nói: “Các chúng sanh nào ở dục giới sẽ lên sơ thiền”. Rồi có những
cơn phong luân đưa chúng sanh lên sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền. Đó
cũng gọi là “Đốn,” tức là biến thể. Cơ hội thứ hai là khi
chết, (theo như trong Mật tông Tây Tạng) thần thức bị rút lên
trên, qua bình diện sắc ấm, qua thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và lọt vào tàng thức
sơ năng biến. Vào đến đó thì tùy theo mức độ thanh tịnh của người chết, có
người chỉ trụ trong đó một giây, có người trụ được một, hai giờ, nhẫn đến vài
ngày. Lúc đó, nếu người nào có sự tập luyện, biết niệm Phật, biết quán như
huyễn, sẽ có thể nắm ngay cơ hội ây.
Tâm thức chúng ta luôn
luôn phân tán, lúc nghĩ thế này, sau lại nghĩ thế khác. Nhưng trong thiền tông,
hành giả dùng định lực để cột tâm lại bằng cách “đề khởi nghi
tình.” Vì pháp tu nào cũng là “nhất niệm vi mật hiện tiền an
trụ tịch tĩnh,” bên Tịnh Độ niệm Phật cũng thế, nhưng bên tịnh độ có
rất nhiều cái lợi như tôi đã nói hồi nãy. Bây giờ ta hãy trở lại bên thiền tông
với những công án, và đề khởi nghi tình. Vậy thì đề khởi nghi tình là như thế
nào? Thường thường thiền sinh hay quán những công án như sau: “Niệm
Phật là ai?” “Vô,” hay “Muôn pháp qui về một, thì cái một ấy
qui về đâu?” v.v…, còn có rất nhiều công án khác, mà các vị thiền sư
tùy theo căn cơ của thiền sinh mà đặt thêm ra. Nhưng công án thông dụng nhất có
lẽ là “Niệm Phật là ai ?” Ai khởi lên câu niệm Phật ấy ? Có
phải là Ông Nguyễn? Bà A? Có phải là cái thân của tôi không? Nói tóm lại, phải
quán chữ “AI” đó, mà chữ “ai” ấy chính là quán cái tâm của ta
vậy. Như thế, thiền sinh luôn quán chữ “Ai” ấy, suốt ngày, đi,
đứng nằm ngồi đều nghĩ đến nó, đến mức độ không còn thấy mình đi, đứng, nằm,
ngồi, nhẫn đến không thấy được cảnh giới chung quanh. Chỉ nhớ một chữ “Ai,” tức
là nhớ đến cái tâm đó. Dần dần, trải qua độ vài tháng, vài năm, như ngài Mông
Sơn mang chữ “Ai” quán trong mười tám hôm thì ngài lọt được vào tàng thức, có
vị phải quán đến mấy chục năm, có vị chỉ quán trong vòng vài ngày, vài tháng
thì sẽ lọt được vào tàng thức, có nghĩa là, cái dùi của vị đó chọc thủng được
lớp sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, ngã ấm (hành ấm), phá tan cái
ngã đó rồi mới chui vào thức ấm. Vì vậy, phần lớn các vị thiền sư không có vị
nào có thần thông, vì muốn có thần thông phải đi xa hơn vào quán giả và quán
trung. Chỉ có mấy vị như ngài Phổ Hóa, Tịnh Chiếu là có thể chết tự tại thôi,
mà không có thọ sanh tự tại, đồng thời không có thần thông.
HỎI: Xin ông định nghĩa
chữ thần thông là gì? Ngay cả khoa học bây giờ cũng có thần thông vậy, như nếu
một người có máy quay phim, đi đến một nước ở bên kia trái đất, quay những
quang cảnh mà ở đây ta không thể thấy, rồi đem về đây quay lại, thì đó cũng gọi
là thần thông. Hay người tu có một chút định, có thể cầm đá hóa vàng cũng gọi
là thần thông. Theo tôi, khi người ta không chứng minh được một điều gì, và
nhất là không làm được, thì người ta cho rằng đó là thần thông. Nếu vậy, khoa
học càng ngày càng tiến bộ thì khoa học cũng có rất nhiều thần thông hay sao?
ĐÁP: Những thần thông
như chỉ đá hóa vàng, kinh Phật gọi đó là những thần thông của thiên ma ngoại
đạo, chưa ăn thua gì với thần thông của chư Phật và chư Đại Bồ Tát, vì tất cả
đều tùy vào mức độ nông sâu của tâm thức. Vả lại, ngoại đạo còn nhiều mong cầu
và chấp Ngã. Còn cái gọi là “thần thông” của khoa học lại còn kém hơn nữa, vì
khoa học phải trụ vào bình diện sắc ấm để làm nên thần thông, ví dụ như máy ảnh
(là một thí dụ ông vừa nêu ra), xe hơi, máy bay, điện thoại v.v… đều làm từ sự
xắp xếp những chất rất thô kệch của sắc ấm. Còn trong tâm thì chấp Ngã, chấp
vật, nên đem theo nhiều đấu tranh, hệ lụy và phiền não. Còn thần thông của đạo
Phật như những thần thông trong kinh Hoa Nghiêm hay kinh Duy Ma Cật. Ngài Duy
Ma ngồi một chỗ như người thợ gốm, vươn cánh tay kéo tất cả cõi Bất Động đến
cõi Ta Bà để độ sanh. Hay chư Phật hóa hiện ra thành nhiều cõi tùy theo nghiệp
duyên cho chúng sanh nương về. Như cõi Cực Lạc là do đức A Di Đà hóa hiện ra
vậy. Nói tóm lại, thần thông thuộc về quán giả (từ bi). Bát Nhã thuộc về quán
không (trí huệ), đó là lối song chiếu cũa các ngài, như con thoi thiện thệ qua
lại không bao giờ ngừng nghỉ.
HỎI: Xin ông cho biết sự
khác biệt giữa Thông Thiên Học của Bà La Môn giáo và đạo Phật khác nhau thế
nào?
ĐÁP: Ngày xưa, trước khi
tôi vào đạo Phật, tôi đã bị lạc năm, bảy năm đọc sách Thông thiên học.
Về sau, tôi bị một ấn tượng rất mạnh là Bà La Môn giáo nói rằng, một người
Bà La Môn thì vĩnh viễn là Bà La Môn mà không thể xuống làm súc sanh, vì thần
ngã bất biến. Ngược lại, đạo Phật lại bảo thần ngã không phải bất biến, nó là
một “trường lực luôn luôn biến chuyển,” khi một dẫn nghiệp mạnh, nó sẽ dẫn thần
thức đi vào cảnh giới ấy. Đạo Phật lại nói sau khi chết, thần thức chỉ trải qua
bốn mươi chín ngày làm thân trung ấm, sau đó đi thọ sanh. Còn Thông thiên học
nói giữa hai kiếp có khi cách nhau hơn một ngàn năm. Ngược lại, đạo Phật nói rõ
không nhất định một người sẽ mãi mãi làm người, súc sanh mãi mãi là súc sanh,
mà còn tùy theo nghiệp duyên dẫn dắt. sở dĩ đức Phật nói như thế vì nhãn lực
(thiên nhãn thông) của ngài rất rộng lớn, trùm khắp tam thế ba đời, hơn hẳn các
tôn giáo khác. Các vị Bà La Môn chỉ nhìn được một khúc nên thấy sao nói vậy
thôi. Riêng tôi nghĩ, những trường hợp người chết bị đọa làm sâu bọ rất khó,
nhưng trường hợp bị đọa làm súc sanh có thể xảy ra, vì nhiều khi trước khi
chết, tâm người chết nổi lên những cuồng vọng của tâm thức súc sanh thì sẽ bị
đọa và súc sanh. Đừng nói đâu xa, đôi lúc trong tâm thức ta hay nổi lên những
cuồng vọng rất giống súc sanh, tham ăn, tham dục, bỏn xẻn, sân si, tật đố v.v…
ở một mức cao độ thì đó là những tâm niệm của súc sanh, ngạ quỉ, nếu chết đúng
lúc tâm thức có những thứ đó nổi lên thì chắc sẽ bị đọa.
KINH: …(Bỏ một đoạn)…
Nếu người thanh tịnh tâm
quảng đại
Đầy đủ thí giới các công đức
Thân cận Như Lai đủ từ bi
Khiến họ nghe tiếng đại thừa đạo
Hoặc có quốc độ nghe nhất thừa
Hoặc nhị, hoặc tam, hoặc tứ, ngũ
Như vậy nhẫn đến vô lượng thừa
Đều là Như Lai phương tiện lực
Niết Bàn tịch tịnh chưa từng khác
Trí hạnh thắng liệt có sai khác
Như hư không thể tánh là một.
Chim bay gần, xa tự sai khác.
GIẢNG: Ý ngài muốn nói
rằng, thực tại cuối cùng là Như Như. Niết Bàn tịch tĩnh chưa từng sai khác.
Nhưng sở dĩ có tất cả các pháp, tất cả các thừa, Thanh Văn thừa, Duyên Giác
thừa, Bồ Tát thừa, cùng những mức độ tu chứng v.v… là vì do tâm còn phân biệt
nên mới có sự sai khác, và tùy theo căn cơ của chúng sanh. Nên tất cả pháp
không thực có.
KINH:
Phật thể âm thanh cũng
duy nhất
Phổ biến tất cả cõi hư không
Tùy tâm chúng sanh sai khác nhau
Nên nghe và thấy cũng tự khác.
GIẢNG: Chúng ta nên nhớ
thế giới này chỉ là ảnh hiện trùng trùng. Đừng tưởng rằng cái chùa này, cái cây
ngoài sân chùa, cái núi v.v… phải nhất định là những thứ đó, mà vì chúng ta
cùng một cộng nghiệp nên cùng trông thấy như nhau, nên đặt danh xưng, cho rằng
cái này gọi là chùa, núi, sông, cây cỏ v.v… Nói tóm lại, tất cả vũ trụ này là
một trường biến hiện, tùy theo tâm thức mỗi loài chúng sanh mà ánh ra thôi, mà
loài khác sẽ trông thấy khác.
KINH:
Do Phật quá khứ tu công
hạnh
Hay theo sở thích diễn diệu âm
Không lòng tính nghĩ đây và kia
Ai là đáng nói, ai thời không
Nơi mặt Như Lai phóng đại quang
Đủ số tám muôn bốn ngàn sáng
Pháp môn Phật nói cũng như vậy
Chiếu khắp thế giới trừ phiền não
Đầy đủ thanh tịnh công đức trí
Mà thường tùy thuận tam thế Phật
Ví như hư không chẳng nhiễm trước
Vì chúng sanh nên Phật xuất hiện
Hiện có sanh, lão, bệnh, tử, khổ
Cũng hiện trụ thọ ở thế gian
Dầu thuận thế gian hiện như vậy.
Thể tánh thanh tịnh đồng hư không.
GIẢNG: Trong kinh nói
rằng các chư Phật và các quốc độ, và cõi Cực Lạc cũng vậy, các ngài hiện lên để
hóa độ chúng sanh, mà thực ra không có gì nhất định cả. Ta chỉ cần nghĩ điều ấy
khoảng vài ngày, vài tháng, vài năm, nhẫn đến vài chục năm, đến khi điều ấy
thấm vào tâm thì lúc đó ta sẽ có được chút huệ nhãn, dù mang nghiệp nặng chư
Phật cũng duỗi lòng cứu vớt. Vì tin được điều đó là rất khó.
HỎI: Lâu nay, ông thường
giảng, tất cả những gì ở ngoài thế gian đều mọc từ trong tâm ra. Chữ “mọc”
trong tâm ra có nghĩa thế nào? Xin ông giảng rõ hơn một chút. Vì theo như ai
cũng đều thấy rõ, những vật ở ngoài đều do nhiều thứ tạo thành, ví như cái cây,
cần phải có đất, có nước, có ánh sáng, có người vun sới v.v… Còn cái tâm, theo
tôi hiểu, nó giống như một lăng kính để chiếu vào những đối tượng ấy (cảnh y
báo bên ngoài), tùy theo nghiệp riêng của mỗi loài chúng sanh mà có sai khác,
chứ không phải từ trong tâm này chui ra làm thành. Không biết tôi hiểu như vậy
có đúng chăng?
ĐÁP: Muốn giải thích
được rõ ràng, nay ta phải trở về với duy thức học. Trên tột bờ mé của biển tâm
nó là một biển sáng ngời, không có một chút vọng nào,một vật nào,đó là Tâm của
Phật, là biển uyên nguyên Như Như Tịch Tĩnh. Còn tàng thức của chúng sanh thì
nó có một nửa chân, một nửa vọng. Tàng thức ấy tiếp tục đi xuống một bình diện
thô kệch hơn là Mạt na thức. Do vọng tưởng phân biệt, Ngã và Phi Ngã, nó bị
phân đôi. Một đằng là tướng phần, đi ra ngoài, một là kiến phần, ở trong. Kiến
phần tượng trưng cho tâm thức trong thân chúng sanh, còn tướng phần di ra ngoài
thành vũ trụ thế giới này, nhưng tất cả đều lưu xuất từ nơi biển diệu tâm ấy.
Nên tôi mới nói là nó “mọc ra”, mọc ra từ tàng thức ấy. Nhưng chúng sanh ngu
si, say mê, chấp trước nhiều mặt, thích cái này thì cho là của ta, ghét cái nọ
thì lại cho là không phải của ta, mà không biết rằng tất cả cũng từ một biển
tâm ấy mà ra… Nói rõ hơn, thì cây mọc từ đất, đất mọc từ hư không, hư không mọc
từ thức luân, mà thức luân chính là cái “bóng mờ” của biển tâm ấy.
HÓI: Như vậy, trong tàng
thức nó vẫn có cả kiến phần và tướng phần. Vì trong duy thức học nói rằng, Mạt
na thức lấy cái kiến phần của A lại da thức chấp làm ngã. Vậy thì tất cả những
thức đi vào vọng, từ mạt na thức trở xuống, hình như nó đều có tướng phần và
kiến phần cả?
ĐÁP: Đúng vậy. Nhưng ở A
lại da thức, tướng phần và kiến phần chưa hiện rõ rệt, nó rất vi diệu, gần như
một, nó dễ trực nhận. Chỗ đó là bờ mé mịt mùng, không có mấy ai giải được
rõ ràng, vì ngôn từ hạn hẹp, không thể nghĩ bàn được, chỉ biết và chấp nhận như
thế thôi. Nên khi tôi nói cái cây ấy nó mọc từ trong tâm, tức là do nhân duyên
từ nhiều kiếp, bây giờ nó hiện tướng ra như thế.
PHẬT TỬ: Tại vì ông cứ
nói vắn tắt “nó mọc từ tâm ra” nên khi người nghe thấy rất “vấp” và khó chịu.
Nhưng bây giờ ông giảng rõ ra từ tàng thức thì có vẻ dễ chấp nhận hơn.
ĐÁP: Ông nói như thế
cũng rất đúng, vì tùy theo tâm thức của mỗi người nhìn vào một vấn đề như thế
nào. Nhưng đối với riêng tôi, tôi thích dùng những chữ “mọc” hay chữ “nở,” vì
những chữ ấy nó đưa tôi đi sâu vào tàng thức, để thâm nhận được cảnh giới nó
chỉ từ tâm mình hiện ra.
KINH:
Giảng pháp chơn thiệt
khiến điều phục
Hoặc đến trong chúng hội Phạm Thiên
Nói tứ vô lượng các thiền định.
Cho họ hoan hỉ bèn bỏ đi.
GIẢNG: Các đại Bồ Tát và
chư Phật hiện lên như thế, nói pháp xong, hay làm xong một vài Phật sự rồi bỏ
đi.
KINH:
Không ai biết được tướng
qua lại
Hoặc đến sắc Cứu Cánh thiên cung
Để giảng giác phần những bửu hoa
Cùng những vô lượng thánh công đức
Sau đó bỏ đi chẳng ai biết
Phật trí vô ngại thấy khắp nơi
Trong đó tất cả những hàm thức
Đều dùng vô biên phương tiện môn
Nhiều cách giáo hóa khiến thành tựu
Ví như thuật sĩ giỏi ảo thuật
Hiện ra các thứ hình tượng huyễn
Phật hóa chúng sanh cũng như vậy
Vì họ mà hiện nhiều thân hình
Ví như trăng sáng giữa hư không
Thế gian chúng sanh thấy tròn, khuyết
Tất cả sông, ao hiện ánh trăng
Tất cả tinh tú khuất ánh sáng
Như Lai trí nguyện hiện thế gian
Cũng dùng phương tiện hiện tăng giảm
Tâm thủy Bồ Tát hiện bóng Phật
Thanh Văn, Duyên Giác khuất quang sắc
Như trong đại hải đầy châu báu
Trong sạch không nhơ, không hạn lượng.
GIẢNG (xúc
động): Những câu kệ lạ lùng bất khả ngôn thuyết. Khó giải nói được.
Nói không được, nói không được…
KINH:
Bao nhiêu chúng sanh ở
bốn châu
Tất cả hiện bóng ở trong biển
Phật thân công đức cũng như vậy
Không nhơ, không đục, không ngằn mé
Nhẫn đến pháp giới các chúng sanh
Không-ai-chẳng-hiện-trong-thân-Phật.
GIẢNG: Chúng ta ngồi đây
là đương hiện trong pháp thân Phật mà không hề hay biết. Hiện trong thân Phật
Thích Ca, hay ngài Quán Thế Âm, tùy theo vị nào ta chọn.
KINH:
Ví như mặt nhựt phóng
quang minh
Chẳng rời bổn xứ chiếu mười phương
Phật quang chiếu khắp cũng như vậy
Không khứ, không lai, trừ si tối
Ví như Long Vương tuôn mưa lớn
Chẳng từ thân ra, chẳng từ tâm
Mà mưa cùng khắp đều nhuần thâm
Trừ hết viêm nhiệt được thanh lương.
GIẢNG: Khi Long Vương
tuôn mưa không phải từ thân hay từ tâm ngài, nhưng chữ “tâm” này
ý nói là vọng tâm suy nghĩ của ngài. Mà chính từ cái tâm lực, có những nguyện
như vậy, khi ngài quán chiếu đến những nguyện ấy thì tự nhiên có mưa lớn.
KINH:
Như Lai pháp vũ cũng như
vậy
Chẳng từ thân tâm Phật phát ra
Mà hay khai ngộ tất cả chúng
Khiến khắp diệt trừ lửa tam độc
Như Lai thanh tịnh diệu pháp thân
Tất cả ba cõi không gì sánh.
GIẢNG: Pháp thân của chư
Như Lai, pháp thân tịch tĩnh, ngoài ngôn ngữ. Không một ngôn ngữ, ý niệm nào có
thể nói được, nó ngoài cái hữu và vô.
KINH:
Dầu không sở y mà ở
khắp.
Dầu đến tất cả mà không đi
Như vẽ không trung, cảnh trong mộng
Phải quán thân Phật là như vậy
Những pháp có, không, trong ba cõi
Chẳng thể ví dụ cùng Phật được
Ví như chim muông trong núi rừng
Không nương không gian mà ở được
Đại hải ma ni vô lượng mầu
Thân Phật sai khác cũng như vậy
Như Lai phi sắc, phi phi sắc
Tùy nghi mà hiện, không sở trụ
Hư không, chân như và thiệt tế
Niết bàn, pháp tánh, tịch diệt thảy
Chỉ có những pháp chân thật này
Khả dĩ hiển thị được Như Lai
Sát trần tâm niệm đếm biết được
Nước trong đại hải uống hết được
Hư không lường được, gió buộc được
Không thể nói hết công đức Phật
Nếu ai nghe biển công đức này
Mà sanh lòng vui mừng tin, hiểu
Tất sẽ được những công đức này
Thận trọng chớ sanh lòng ngờ vực…
GIẢNG: Đây là đoạn kệ cuối
cùng của ngài Phổ Hiền trong Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp Giới. Những ai nghe
được biển biến hóa không cùng của chư Phật, mà sanh lòng kính tin, không ngờ
vực, thì người đó trong một kiếp vị lai sẽ được mặc áo hào quang, đi dự những
hải hội nhiệm mầu. Chúng ta, trong ban kinh này, tôi có thể nói chắc thế nào
cũng sẽ đi đến mức đó, chỉ có nhanh (một, hai kiếp), hay
chậm (nhiều kiếp) mà thôi.
Tới đây, ta chấm dứt
phẩm nhập pháp giới, đồng thời cũng bơi qua được biển Hoa Nghiêm. Kỳ sau, chúng
ta sẽ cố gắng dành vài năm bơi qua biển Bát Nhã. Biển này khó hơn, vì nó trừu
tượng hơn, vì nó đi sâu vào Không. Nên ta phải hết sức kiên nhẫn, dù có ốm đau,
bệnh tật cũng cố bơi qua.
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
Phẩm Nhập Pháp Giới
Thứ ba mươi chín
Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch: Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
53.- PHỔ HIỀN ĐẠI BỒ TÁT
Thiện-Tài tư-duy quán-sát nhất-tâm nguyện thấy Văn-Thù Sư-Lợi
Bồ-Tát, và muốn thấy Ðại-Thiên thế-giới vi-trần-số thiện-tri-thức để gần-gũi
cung-kính phụng thờ tuân hành giáo-pháp không chống trái, tăng trưởng xu cầu
tất cả trí-huệ, làm rộng biển đại-bi, thêm mây đại-từ, quán-sát khắp mọi loài
sanh lòng hoan-hỷ, an-trụ pháp-môn tịch-tịnh của Bồ-Tát, duyên khắp tất cả
cảnh-giới quảng-đại, học tất cả công-đức quảng đại của Phật, nhập tất cả
tri-kiến quyết định của Phật, thêm pháp trợ-đạo cho nhất-thiết-trí, khéo tu
thâm-tâm của tất cả Bồ-Tát, biết tam-thế Phật thứ đệ xuất thế, vào biển
nhất-thiết-pháp, chuyển xe nhất-thiết-pháp, sanh trong tất cả thế-gian, nhập
nơi tất cả bồ-tát nguyện-hải, trụ tất cả kiếp tu bồ-tát-hạnh, chiếu rõ tất cả
cảnh-giới Như-Lai, trưởng dưỡng chư căn của tất cả Bồ-Tát, được quang-minh
thanh-tịnh của nhất-thiết-trí, chiếu khắp mười phương, trừ hết tôi tăm
chướng-ngại, biết khắp pháp-giới, hiện thân mình khắp tất cả cõi, tất cả loài,
dẹp tất cả chướng, vào khắp vô-ngại, trụ nơi bực pháp-giới bình-đẳng, quán-sát
cảnh-giới giải-thoát của Phổ-Hiền, được nghe danh tự hạnh nguyện của PHỔ
HIỀN ĐẠI BỒ TÁT, cũng nghe trợ-đạo, chánh-đạo, bậc chư địa, phương-tiện-địa,
nhập-địa, thắng-tấn-địa, trụ-địa, tu-tập-địa, cảnh-giới-địa, oai-lực-địa, đồng-trụ
khát ngưỡng.
Thiện-Tài muốn thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát, liền ở trước tòa sư-tử
của Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai nơi Kim-Cang-Tạng Bồ-Ðề-Tràng, trên tòa
Bửu-Liên-Hoa-Tạng, phát tâm rộng lớn như hư-không-giới, khởi tâm vô-ngại, bỏ
tất cả cõi rời tất cả chấp, tâm vô-ngại đi trong tất cả pháp vô-ngại, tâm
vô-ngại vào khắp tất cả thập phương, tâm thanh-tịnh vào cảnh-giới của
nhất-thiết-trí, tâm minh-liễu quán-sát đạo-tràng trang-nghiêm, tâm quảng-đại
nhập tất cả phật-pháp-hải, tâm châu-biến hóa-độ tất cả chúng-sanh-giới, tâm
vô-lượng tịnh tất cả phật-độ, tâm vô-tận trụ tất cả kiếp, tâm cứu-cánh xu hướng
Như-Lai thập-lực.
Lúc Thiện-Tài phát khởi những tâm như vậy, do sức thiện-căn
của mình, được sức-gia-hộ của tất cả Như-Lai, do sức đồng thiện-căn của
Phổ-Hiền Bồ-Tát, nên Thiện-Tài thấy mười thứ thoại-tướng, như là:
Thấy tất cả phật-độ thanh-tịnh, tất cả như-lai thành
đẳng-chánh-giác.
Thấy tất cả phật-độ thanh-tịnh không các ác-đạo.
Thấy tất cả phật-độ thanh-tịnh nghiêm-sức với những
diệu-liên-hoa.
Thấy tất cả phật-độ thanh-tịnh, tất cả chúng-sanh thân tâm
thanh-tịnh.
Thấy tất cả phật-độ thanh-tịnh, trang-nghiêm với những châu
bửu.
Thấy tất cả phật-độ thanh-tịnh, tất cả chúng-sanh tướng tốt
nghiêm thân.
Thấy tất cả phật-độ thanh-tịnh, những mây trang-nghiêm che
phía trên.
Thấy tất cả phật-độ thanh-tịnh, tất cả chúng-sanh mến yêu
nhau, giúp ích nhau, chẳng hại nhau.
Thấy tất cả phật-độ thanh-tịnh, đạo-tràng trang-nghiêm.
Thấy tất cả phật-độ thanh-tịnh, tất cả chúng-sanh tâm thường
niệm Phật.
Thiện-Tài lại thấy mười tướng quang-minh, như là:
Thấy bao nhiêu vi-trần của tất cả thế-giới, trong mỗi mỗi
vi-trần xuất-sanh tất cả thế-giới vi-trần-số phật-quang-minh võng-vân chiếu
sáng khắp nơi.
Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế-giới vi-trần-số
phật quang-minh luân-vân nhiều thứ sắc-tướng cùng khắp pháp-giới.
Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế-giới vi-trần-số
phật sắc-tượng bửu-vân cùng khắp pháp-giới.
Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế-giới vi-trần-số
phật-quang-diệm luân-vân cùng khắp pháp-giới.
Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế-giới vi-trần-số
những diệu-hương-vân cùng khắp mười phương khen ngợi tất cả hạnh nguyện đại
công-đức-hải của Phổ-Hiền.
Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế-giới vi-trấn-số
nhựt nguyệt tinh tú vân, đều phóng quang-minh của Phổ-Hiền Bồ-Tát chiếu khắp
pháp-giới.
Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế-giới vi-trần-số tất
cả chúng-sanh thân sắc tượng vân phóng phật-quang-minh chiếu khắp pháp-giới.
Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế-giới vi-trần-số tất
cả phật-sắc-tượng ma-ni-vân cùng khắp pháp-giới.
Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế giới vi-trần-số
Bồ-Tát thân sắc-tượng-vân đầy khắp pháp-giới, khiến tất cả chúng-sanh đều được
xuất ly, đều mãn sở-nguyện.
Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế-giới vi-trần-số
Như-Lai thân sắc-tượng-vân, nói thệ nguyện quảng đại của tất cả Phật cùng khắp
pháp-giới.
Thiện-Tài thấy mười thứ quang-minh nầy rồi, nghĩ rằng: nay tôi
sẽ được thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát thêm lớn thiện-căn. Thấy tất cả Phật, nơi tất cả
Bồ-Tát sanh tri giải quyết định, được nhất-thiết-trí.
Thiện-Tài nhiếp khắp thiện-căn, nhứt tâm cầu thấy Phổ-Hiền
Bồ-Tát, khởi đại tinh-tấn tâm không thối chuyển, liền dùng phổ-nhãn quán-sát
mười phương tất cả chư Phật và chúng Bồ-Tát. Bao nhiêu cảnh-giới đã thấy đều
tưởng là đuợc thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát.
Dùng trí-huệ-nhãn quán-sát phổ-hiền đạo, tâm quảng-đại dường
như hư-không, đại-bi kiên-cố như Kim-Cang. Nguyện tận vị-lai thường được theo
Phổ-Hiền, niệm niệm tùy thuận tu phổ-hiền-hạnh, thành-tựu trí-huệ, nhập
như-lai-cảnh, trụ phổ-hiền-địa.
Bấy giờ Thiện-Tài Ðồng-Tử liền thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát ở trong
chúng-hội trước đức Như-Lai, ngồi tòa sư-tử Bửu-Liên-Hoa, chúng Bồ-Tát vây
quanh rất là tôn nghiêm, thế-gian không sánh được, cảnh-giới trí-huệ vô-lượng
vô-biên khó lường khó nghĩ, đồng tam-thế Phật, tất cả Bồ-Tát không quán-sát
được.
Thấy thân Phổ-Hiền, mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả thế-giới
vi-trần-số quang-minh-vân, khắp pháp-giới hư-không-giới tất cả thế-giới, trừ
diệt tất cả chúng-sanh khổ hoạn, khiến các Bồ-Tát sanh đại hoan-hỷ.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số
những sắc-hương-diệm-vân, khắp pháp-giới hư-không-giới tất cả chư Phật
chúng-hội đạo-tràng, để huân tập tất cả.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số
tạp-hoa-vân, khắp pháp-giới hư-không-giới tất cả chư Phật chúng-hội đạo-tràng
mưa những diệu-hoa.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số
hương thọ vân, khắp pháp-giới hư-không-giới tất cả chư phật chúng-hội đạo-tràng
mưa những diệu hương.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số
diệu-y vân, khắp pháp-giới hư-không-giới chư phật chúng-hội đạo tràng mưa những
diệu-y.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số
bửu-thọ-vân, khắp pháp-giới hư-không-giới tất cả chư phật chúng-hội đạo tràng,
mưa ma ni bửu.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số
sắc-giới thiên-thân-vân sung-mãn pháp-giới, khen ngợi bồ-đề-tâm.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số
phạm-thiên thân vân, khuyến thỉnh chư như lai chuyển diệu pháp luân.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số
dục-giới thiên vương thân vân, hộ trì pháp-luân của tất cả như-lai.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát
vi-trần-số tam-thế phật-sát-vân, khắp pháp-giới hư-không-giới vì các
chúng-sanh, những người không chỗ về nương mà làm chỗ về nương, những người
không chỗ che chở mà làm chỗ che chở, những người không chỗ y-chỉ mà làm chỗ y
chỉ.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát
vi-trần-số thanh-tịnh phật-sát-vân khắp pháp-giới hư-không-giới tất cả chư Phật
xuất thế trong đó, chúng hội Bồ-Tát thảy đều sung-mãn.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát
vi-trần-số tịnh bất-tịnh phật-sát-vân khắp pháp-giới hư-không-giới, khiến tạp
nhiễm chúng-sanh đều được thanh-tịnh.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát
vi-trần-số bất tịnh-tịnh phật-sát-vân khắp pháp-giới hư-không-giới, khiến tạp
nhiễm chúng-sanh đều được thanh-tịnh.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát
vi-trần-số bất-tịnh phật-sát-vân khắp pháp-giới hư-không-giới, khiến thuần
nhiễm chúng-sanh đều được thanh-tịnh.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát
vi-trần-số chúng-sanh thân-vân khắp pháp-giới hư-không-giới, tùy sở nghi giáo
hóa chúng-sanh đều khiến phát tâm vô-thượng bồ-đề.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát
vi-trần-số bồ-tát thân-vân biến pháp-giới hư-không-giới tán dương những danh
hiệu của chư Phật làm cho chúng-sanh tăng trưởng thiện-căn.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát
vi-trần-số bồ-tát thân-vân khắp pháp-giới hư-không-giới tất cả phật-sát tuyên
dương tất cả chư Phật Bồ-Tát, những thiện-căn sanh khởi từ khi sơ phát tâm.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát
vi-trần-số bồ-tát thân-vân khắp pháp-giới hư-không-giới, trong mỗi phật-sát nơi
tất cả phật-sát tuyên dương tất cả bồ-tát nguyện-hải và thanh-tịnh diệu-hạnh
của Phổ-Hiền Bồ-Tát.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh Phổ-Hiền Bồ-Tát
hạnh-vân khiến tâm tất cả chúng-sanh được mãn túc, tu tập đầy đủ đạo
nhất-thiết-trí.
Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số
chánh-giác thân-vân, nơi tất cả phật-sát hiện thành chánh-giác, khiến các
Bồ-Tát thêm lớn pháp đại-thừa thành nhất-thiết-trí.
Thiện-Tài thấy cảnh-giới thần-thông tự-tại của Phổ-Hiền Bồ-Tát
như vậy, thân tâm hoan hỉ, hớn hở vô-lượng.
Lại thấy mỗi mỗi thân phần, mỗi mỗi lỗ chân lông của Phổ-Hiền
đều có Ðại-Thiên thế-giới phong-luân, thủy-luân, địa-luân, hỏa-luân, đại-hải,
giang-hà và những Bửu-Sơn, Tu-Di, Thiết-vi, thành ấp, cung điện, viên lâm, tất
cả xứ của địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sanh, Diêm-La-Vương, những cung điện của
Thiên, Long, Bát-Bộ, nhân và phi-nhân, cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô-Sắc, nhật,
nguyệt, tinh-tú, gió, mây, sấm, chớp, ngày, đêm, tháng, giờ đến năm, kiếp, chư
Phật xuất thế, chúng hội Bồ-Tát, đạo-tràng trang-nghiêm, những sự như vậy
đều thấy rõ cả.
Như thấy rõ tại thế-giới nầy, tất cả thế-giới ở mười phương
đều thấy rõ cả.
Như thấy thập phương thế-giới hiện-tại, tất cả thế-giới
tiền-tế hậu-tế cũng thấy như vậy, nhưng vẫn chẳng tạp loạn nhau.
Như ở chỗ Tỳ-Lô-Giá-Na-Như-Lai thị-hiện sức thần-thông như
vậy, tại Liên-Hoa-Ðức thế-giới, chỗ của Hiền-Thủ Phật, hiện sức thần-thông cũng
như vậy.
Nhẫn đến tại tất cả thế-giới mười phương, chỗ của tất cả chư
Phật Như-Lai, cũng hiện sức thần-thông như vậy.
Mười phương tất cả thế-giới trong mỗi mỗi vi-trần đều có
pháp-giới chư Phật chúng-hội. Chỗ mỗi đức Phật, Phổ-Hiền Bồ-Tát ngồi trên tòa
Bửu-Liên-Hoa Sư-Tử hiện sức thần-thông cũng đều như vậy.
Trong thân của mỗi mỗi Phổ-Hiền đều hiện tất cả cảnh-giới
tam-thế, tất cả cõi Phật, tất cả chúng-sanh, tất cả Phật xuất-hiện, tất cả
bồ-tát-chúng, nghe ngôn âm của tất cả chúng-sanh, ngôn âm của tất cả Phật,
pháp-luân của tất cả Như-Lai chuyển. Lại thấy công-hạnh của tất cả Bồ-Tát,
thần-thông du-hí của tất cả Như-Lai.
Thiện-Tài thấy vô-lượng đại-thần-thông-lực bất-tư-nghì của
Phổ-Hiền Bồ-Tát như vậy, liền được mười thứ trí ba-la-mật. Như là:
Trí ba-la-mật trong mỗi niệm đều có thể đi khắp tất cả cõi
Phật.
Trí ba-la-mật trong mỗi niệm đều có thể qua đến tất cả chỗ
Phật.
Trí ba-la-mật trong mỗi niệm đều có thể cúng-dường tất cả
Như-Lai.
Trí ba-la-mật trong mỗi niệm ở khắp chỗ của tất cả Như-Lai để
nghe pháp và thọ trì.
Trí ba-la-mật trong mỗi niệm tư-duy pháp-luân của tất cả
Như-Lai.
Trí ba-la-mật trong mỗi niệm biết sự đại thần-thông bất-tư-nghì
của tất cả Phật.
Trí ba-la-mật trong mỗi niệm nói một câu pháp tột thuở vị-lai
biện-tài vô-tận.
Trí ba-la-mật trong mỗi niệm dùng thân bát-nhã quán tất cả
pháp.
Trí ba-la-mật trong mỗi niệm nhập tất cả pháp-giới
thiệt-tướng-hải.
Trí ba-la-mật trong mỗi niệm biết tâm của tất cả chúng-sinh.
Trí ba-la-mật trong mỗi niệm huệ hạnh của Phổ-Hiền đều
hiện-tiền.
Thiện-Tài đã được mười trí ba-la-mật nầy rồi, Phổ-Hiền Bồ-Tát
liền dơ tay hữu xoa đầu Thiện-Tài.
Ðược xoa đầu, Thiện-Tài liền được tất cả phật-sát vi-trần-số
môn tam-muội, mỗi tam-muội lại dùng phật-sát vi-trần-số tam-muội làm
quyến-thuộc.
Mỗi mỗi tam-muội đều thấy tất cả phật-sát vi-trần-số
phật-đại-hải mà từ xưa chưa thấy, tích tập tất cả phật-sát vi-trần-số
nhất-thiết-trí trợ-đạo, sanh đủ tất cả phật-sát vi-trần-số nhất-thiết-trí
thượng-diệu-pháp, phát tất cả phật-sát vi-trần-số nhất-thiết-trí
đại-thệ-nguyện, nhập tất cả phật-sát vi-trần-số đại-nguyện-hải, trụ tất cả
phật-sát vi-trần-số nhất-thiết-trí xuất-yếu-đạo, tu tất cả phật-sát vi-trần-số
bồ-tát-hạnh, khởi tất cả phật-sát vi-trần-số nhất-thiết-trí đại-tinh-tấn, được
tất cả phật-sát vi-trần-số nhất-thiết-trí tịnh-quang-minh.
Như ở Ta-Bà thế-giới chỗ của Tỳ-Lô-Giá-Na Phật nầy, Phổ-Hiền
Bồ-Tát xoa đầu Thiện-Tài Ðồng-Tử, khắp mười phương thế-giới, trong mỗi vi-trần
nơi những thế-giới ấy, tất cả thế-giới, tất cả chỗ Phật, Phổ-Hiền Bồ-Tát cũng
xoa đầu Thiện-Tài như vậy, những pháp-môn tam-muội chứng được cũng đồng.
Bấy giờ Phổ-Hiền Bồ-Tát bảo Thiện-Tài rằng:
Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi thấy thần-lực của ta chăng?
Thiện-Tài thưa:
Bạch vâng! Những sự thần thông quảng đại bất-tư-nghì nầy chỉ
đức Như-Lai mới biết được.
Phổ-Hiền Bồ-Tát nói.
Nầy Thiện-nam-tử! Thuở quá-khứ bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết
phật-sát vi-trần-số kiếp, ta thật hành bồ-tát-hạnh cầu nhất-thiết-trí. Trong
mỗi mỗi kiếp vì muốn thanh-tịnh bồ-đề-tâm, nên kính thờ bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số Phật.
Trong mỗi mỗi kiếp vì tích tập nhất-thiết-trí phước đức nên
thiết lập bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số thí-hội quảng đại,
khiến tất cả thế-gian đều nghe biết, phàm ai đến cầu xin thời đều làm cho họ
đầy đủ cả.
Trong mỗi mỗi kiếp vì cầu pháp nhất-thiết-trí nên ta đem
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số tài vật bố-thí.
Trong mỗi mỗi kiếp vì cầu phật-trí, nên ta đem bất-kha-thuyết
bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số thành ấp, tụ lạc, quốc độ, vương vị, thê tử,
quyến thuộc, mắt tai mũi lưỡi, thân thịt tay chân đến cả mạng sống để bố thí.
Trong mỗi mỗi kiếp vì cầu nhất-thiết-trí-thủ, nên ta đem
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số đầu để bố-thí.
Trong mỗi mỗi kiếp vì cầu nhất-thiết-trí, nên ở chỗ
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số Như-Lai, ta cung kính tôn
trọng, kính thờ cúng-dường, rồi xuất-gia học đạo, trong phật-pháp tu hành hộ
giáo.
Nầy Thiện-nam-từ! Ta ở trong những số kiếp như vậy, tự nhớ
chưa từng có một niệm chẳng thuận phật-giáo, chưa từng có một niệm sanh lòng
sân hại, cũng chưa từng có một niệm sanh tâm ngã ngã-sở, tâm mình người sai
biệt, tâm xa rời bồ-đề, tâm nhàm mỏi sanh tử, tâm lười biếng, tâm chướng ngại,
tâm mê hoặc. Mà ta chỉ an trụ tâm đại bồ-đề vô-thượng chẳng thể trở hoại tích
tập pháp trợ-đạo nhất-thiết-trí.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta trang-nghiêm phật-độ, dùng tâm đại-bi cứu
hộ chúng-sanh, giáo-hóa thành-tựu, cúng-dường chư Phật, thờ thiện-tri-thức, vì
cầu chánh-pháp nên hoằng tuyên hộ-trì, trong thân ngoài vật đều có thể xả tất
cả, đến mạng sống cũng không tiếc.
Nếu dùng thời-gian kiếp-hải để nói nhơn-duyên đó, kiếp-hải còn
có thể hết chớ nhơn duyên đó không cùng tận.
Nầy Thiện-nam-tử! Trong pháp-hải của ta, không có một chữ
không có một câu, Chẳng phải thí xả ngôi Chuyển-Luân-Vương mà cầu được. Chẳng
phải thí xả tất cả sở-hữu mà cầu được.
Nầy Thiện-nam-tử! Pháp của ta cầu đều vì cứu hộ tất cả
chúng-sanh. Một lòng suy nghĩ mong cho chúng-sanh đưọc nghe pháp nầy. Nguyện
dùng trí-quang chiếu khắp thế-gian. Nguyện vì chúng-sanh mà khai thị trí xuất-thế-gian.
Nguyện cho chúng-sanh đều được an lạc. Nguyện khắp tán dương những công-đức của
chư Phật.
Thuở xưa, nhơn-duyên của ta như vậy, trong bất-khả-thuyết
bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số kiếp-hải nói không hết được.
Nầy Thiện-nam-tử! Vì thế nên ta dùng sức trợ đạo pháp như vậy,
những sức thiện-căn, sức đại chí-nguyện, sức tu công-đức, sức như thiệt tư-duy
tất cả pháp, sức trí-huệ-nhãn, sức phật-oai-thần, sức đại-từ-bi, sức
tịnh-thần-thông, sức thiện-tri-thức như vậy nên ta được pháp-thân thanh-tịnh
tam thế bình-đẳng rốt ráo nầy. Ta lại được sắc-thân thanh-tịnh vô-thượng siêu
các thế-gian, tùy sở thích của tâm chúng-sanh mà hiện hình vào tất cả cõi khắp
tất cả xứ, nơi các thế-giới rộng hiện thần-thông, làm cho người thấy đều vui
mừng.
Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi quan-sát sắc-thân của ta như vậy.
Sắc-thân của ta đây đã thành-tựu từ vô-biên kiếp hải. Vô-lượng
ngàn ức na-do-tha kiếp khó thấy khó nghe.
Nầy Thiện-nam-tử! Nếu có chúng-sanh chưa gieo thiện-căn và
gieo ít thiện-căn, Thanh-Văn, Bồ-Tát thời còn chẳng được nghe danh hiệu của ta
huống là thấy được thân ta.
Nầy Thiện-nam-tử! Nếu có chúng-sanh được nghe danh hiệu của ta
thời không còn thối chuyển nơi vô-thượng bồ-đề.
Nếu ai hoặc thấy, hoặc chạm, hoặc rước, hoặc đưa, hoặc tạm
theo dõi, nhẫn đến trong mộng được thấy nghe ta, thời đều cũng được bất thối
chuyển cả.
Hoặc có chúng-sanh một ngày một đêm nhớ nghĩ đến ta thời liền
được thành-thục.
Hoặc bảy ngày bảy đêm, nửa tháng, một tháng, nửa năm, một năm,
trăm năm, ngàn năm, một kiếp, trăm kiếp, nhẫn đến bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết
phật-sát vi-trần-số kiếp nghĩ nhớ đến ta mà được thành-thục.
Hoặc một đời, hoặc trăm đời, nhẫn đến bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết
phật-sát vi-trần-số đời nghĩ nhớ đến ta mà thành-thục.
Hoặc thấy ta phóng đại quang-minh, hoặc thấy ta chấn động cõi
Phật, hoặc sanh e sợ, hoặc sanh hoan-hỉ thảy đều thanh-thục.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta dùng phật-sát vi-trần-số môn phương-tiện
như vậy, làm cho các chúng-sanh chẳng thối chuyển nơi vô-thượng bồ-đề.
Nếu có chúng-sanh nào thấy nghe cõi thanh-tịnh của ta thời tất
được sanh trong cõi thanh-tịnh nầy.
Nếu có chúng-sanh nào thấy nghe thân thanh-tịnh của ta thời
tất được sanh trong thân thanh-tịnh của ta.
Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi nên quan-sát thân thanh-tịnh của ta
đây.
Thiện-Tài quán-sát tướng-hảo chi tiết nơi thân Phổ-Hiền
Bồ-Tát. Trong mỗi mỗi lỗ lông đều có bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết
phật-sát-hải. Mội mỗi sát-hải đều có chư Phật xuất thế và chúng-hội Bồ-Tát.
Và lại thấy tất cả sát-hải đó: những kiến lập, những hình
trạng, những trang-nghiêm, những đại-sơn bao quanh, những sắc mây che trùm
hư-không, những Phật Như-Lai xuất thế thuyết những pháp-luân.
Lại thấy ở trong mỗi mỗi thế-giới hải, Phổ-Hiền xuất hiện tất
cả phật-sát vi-trần-số phật-hóa thân-vân, cùng khắp thập phương tất cả thế-giới
giáo hóa chúng-sanh khiến hướng về vô-thượng bồ-đề.
Bấy giờ Thiện-Tài lại thấy tự thân ở trong thân Phổ-Hiền
giáo-hóa chúng-sanh trong mười phương tất cả thế-giới.
Bao nhiêu thiện-căn trí-huệ quang-minh của Thiện-Tài đã được,
khi thân cận phật-sát vi-trần-số chư thiện-tri-thức, sánh với thiện-căn khi
thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát mà được, thời không bằng một phần trăm, một phần ngàn, một
phần trăm ngàn, một phần trăm ngàn ức, nhẫn đến không bằng một phần toán-số
thí-dụ.
Trong một niệm mà hiện nay Thiện-Tài nhập sát-hải của chư Phật
ở trong một lỗ lông của Phổ-Hiền, sánh với thời-gian từ sơ phát tâm đến nay đã
nhập sát-hải, thời nhiều hơn đến số bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát
vi-trần. Như nơi một lỗ lông, tất cả lỗ lông cũng đều như vậy.
Trong lỗ lông của Phổ-Hiền Bồ-Tát, Thiện-Tài bước một bước qua
khỏi bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số thế-giới, đi mãi như vậy
tột thuở vi-lai vẫn còn chẳng biết được thứ đệ sát-hải của trong một lỗ lông,
cũng chẳng biết ngằn mé của sát-hải-tạng, sát-hải sai-biệt, sát-hải phổ-nhập,
sát-hải-thành, sát-hải-hoại, sát-hải trang-nghiêm. Cũng chẳng biết được ngằn mé
của phật-hải thứ đệ, phật-hải tạng, phật-hải sai-biệt, phật-hải phổ nhập,
phật-hải sanh, phật-hải-diệt. Cũng chẳng biết được ngằn mé của bồ-tát-chúng-hải
thứ đệ, bồ-tát-chúng-hải tạng, bồ-tát chúng-hải sai-biệt, bồ-tát chúng-hải phổ
nhập, bồ-tát chúng-hải tập, bồ-tát chúng-hai tán. Cũng chẳng thể biết ngằn mé của
trí nhập chúng-sanh-giới, biết căn chúng sanh, giáo-hóa điều-phục chúng-sanh,
chỗ trụ thậm-thâm tự-tại của Bồ-Tát những địa những đạo của Bồ-Tát nhập.
Nơi sát hải trong lỗ lông của Phổ-Hiền Bồ-Tát, Thiện-Tài đi
như vậy hoặc nơi một cõi trải qua một kiếp, nhẫn đến hoặc trải qua
bất-khả-thuyết bất-khả-thuyệt phật-sát vi-trần-số kiếp mà đi như vậy.
Cũng chẳng mất nơi đây mà hiện nơi kia. Mỗi niệm Thiện-Tài
cùng khắp vô-biên sát-hải giáo-hóa chúng-sanh khiến họ hướng về vô-thượng
bồ-đề.
Ðương lúc đó, Thiện-Tài thứ đệ được những hạnh-nguyện-hải của
Phổ-Hiền Bồ-Tát, đồng với Phổ-Hiền, đồng với chư Phật một thân sung-mãn tất cả
thế-giới, đồng quốc-độ, đồng hạnh, đồng chánh-giác, đồng thần-thông, đồng
pháp-luân, đồng biện-tài, đồng ngôn từ, đồng âm thanh, đồng lực vô-úy, đồng
phật-sở-trụ, đồng đại từ-bi, bất-tư-nghì giải-thoát tự-tại đều đồng.
Lúc đó Phổ-Hiền đại Bồ-Tát liền nói kệ rằng:
Các ngài phải trừ những phiền-não
Nhất tâm bất loạn mà lắng nghe
Tôi nói Như-Lai đủ các độ
Tất cả đạo chân-thiệt giải-thoát.
Xuất thế điều nhu Thắng-Trượng-Phu
Trong lòng thanh-tịnh như hư-không
Hằng phóng trí-nhật đại quang-minh
Khiến khắp quần-sanh diệt si ám.
Như-Lai rất khó được thấy nghe
Vô-lượng ức kiếp nay mới gặp
Như hoa ưu-đàm một lần hiện
Vì thế nên nghe Phật công-đức.
Tùy thuận việc làm của thế-gian
Ví như thuật-sĩ hiện những sự
Chỉ để làm vui lòng chúng-sanh
Chưa từng phân-biệt khởi tưởng niệm.
Chư Bồ-Tát nghe lời kệ trên đây, tất cả đều khát ngưỡng mong
được nghe công-đức chơn-thiệt của đức Thế-Tôn, đều nghĩ rằng:
Phổ-Hiền Bồ-Tát tu đủ các hạnh, thể tánh thanh-tịnh, những lời
nói ra đều chẳng hư luống, tất cả Như-Lai đều khen ngợi ngài.
Phổ-Hiền Bồ-Tát công-đức trí-huệ trang-nghiêm đầy đủ, như hoa
sen chẳng dính trần, cấu tam-giới. Ngài bảo chúng Bồ-Tát rằng:
Các ngài lắng nghe! Nay tôi muốn nói tướng một giọt trong biển
công-đức của Phật.
Phổ-Hiền Bồ-Tát liền nói kệ rằng:
Phật-trí rộng lớn đồng hư-không
Khắp cùng tất cả tâm chúng-sanh
Ðều rõ thế-gian những vọng-tưởng
Chẳng khởi những phân-biệt sai khác.
Một niệm đều biết pháp tam thế
Cũng rõ tất cả căn chúng-sanh
Ví như nhà ảo-thuật thiện-xảo
Mỗi niệm thị-hiện vô-biên sự.
Tùy tâm chúng-sanh hiện những hạnh
Thuở xưa các nghiệp, sức thệ nguyện
Khiến họ thấy biết đều chẳng đồng
Mà Phật bổn-lai không động niệm.
Hoặc có xứ xứ thấy Phật ngồi
Sung mãn thập phương các thế-giới,
Hoặc có chúng-sanh tâm bất tịnh
Trong vô lượng kiếp chẳng thấy Phật.
Hoặc có tín giải rời kiêu mạn
Phát ý liền được thấy Như Lai,
Hoặc kẻ siểm cuống tâm bất-tịnh
Ức kiếp tìm cầu chẳng thấy Phật.
Hoặc người mọi xứ nghe tiếng Phật
Âm thanh mỹ Diệu làm tâm vui,
Hoặc kẻ trăm ngàn muôn ức kiếp
Vì tâm bất tịnh chẳng được nghe.
Hoặc thấy thanh-tịnh Ðại Bồ-Tát
Ðầy khắp Tam-thiên đại-thiên giới
Ðều đã đầy đủ hạnh Phổ-Hiền
Trong đó Như-Lai nghiễm nhiên tọa.
Hoặc thấy cõi nầy diệu vô-tỷ
Phật vô-lượng kiếp đã nghiêm tịnh
Tỳ-Lô-Giá-Na Tối-Thắng-Tôn
Trong đây đại ngộ thành Chánh-Giác.
Hoặc-thấy Liên-Hoa cõi thắng-diệu
Hiền-Thủ Như-Lai ở trong đó
Vô-lượng Bồ Tát chúng vi-nhiễu
Thảy đều siêng tu hạnh Phổ-Hiền.
Hoặc có thấy Phật Vô-lượng-thọ
Quan Âm Thế-Chí hầu hai bên
Ðều bậc quán-Ðảnh Bổ-xứ cả
Sung mãn mười phương các quốc độ.
Hoặc có thấy cõi Ðại-Thiên nầy
Thanh-tịnh trang-nghiêm như Diệu-Hỉ
A-Súc Như-Lai ngự tại đây
Chúng đại Bồ-Tát bao quanh Phật.
Hoặc thấy Nguyệt-Giác Danh-Xưng Phật
Cùng Kim-Cang-Tràng chư Bồ-Tát
Ở cõi Viên-Cảnh Diệu-Trang-Nghiêm
Khắp đến mười phương các quốc-độ.
Hoặc thấy Nhựt-Tạng Phật Thế-Tôn
Ở cõi thanh-tịnh Thiện-Quang-Minh
Cùng với quán-đảnh chư Bồ-Tát
Sung mãn mười phương mà thuyết pháp.
Hoặc thấy Kim-Cang-Ðại-Diệm Phật
Câu hội với Trí-Tràng Bồ-Tát
Châu hành tất cả cõi quảng đại
Thuyết pháp diệt trừ chúng-sanh-mê.
Mỗi mỗi đầu lông bất-khả-thuyết
Chư Phật tướng hảo ba mươi hai
Bồ-Tát quyến-thuộc đồng vây quanh
Vì độ chúng-sanh luôn thuyết pháp.
Hoặc có xem thấy một lỗ lông
Ðầy đủ cõi trang-nghiêm quảng đại
Vô-luợng Như-Lai đều ở trong
Thanh-tịnh phật-tử đều sung-mãn.
Hoặc có thấy trong một vi-trần
Có đủ hằng-sa Phật quốc-độ
Vô-lượng Bồ-Tát đều sung-mãn
Bất-khả-thuyết kiếp tu các hạnh.
Hoặc có thấy chỗ một đầu lông
Vô-lượng trần-sa những sát-hải
Bao nhiêu nghiệp khởi đều sai khác
Tỳ-Lô-Giá-Na chuyển pháp-luân.
Hoặc thấy thế-giới chẳng thanh-tịnh
Hoặc thấy thanh-tịnh báu làm thành
Như-Lai trụ thọ lâu vô-lượng
Nhẫn đến niết-bàn đều hiện đủ.
Cùng khắp mười phương các thế-giới
Thị hiện nhiều thứ bất-tư-nghì
Tùy các chúng-sanh tâm trí nghiệp
Thảy đều hóa độ khiến thanh-tịnh.
Vô-Thượng Ðạo-Sư như vậy thảy
Sung-mãn thập phương các quốc-độ
Thị-hiện nhiều loại thần-thông-lực
Tôi nói một ít ngài nên nghe.
Hoặc thấy Thích-Ca thành phật-đạo
Ðã trải kiếp số bất-tư-nghì,
Hoặc thấy nay mới làm Bồ-Tát
Mười phương lợi ích các chúng-sanh.
Hoặc người lại thấy Thích Sư-Tử
Cúng-dường chư Phật tu đạo hạnh,
Hoặc thấy Thế-Tôn đủ phước trí
Hiển hiện những sự đại thần-thông.
Hoặc thấy bố-thí, hoặc trì giới,
Hoặc nhẫn, tinh-tấn, hoặc thiền định,
Bát-nhã, phương-tiện, nguyện, lực, trí
Tùy tâm chúng-sanh đều thị-hiện.
Hoặc thấy rốt ráo ba-la-mật
Hoặc thấy an trụ ở các địa
Tổng-trì, tam-muội, thần-thông trí
Như vậy đều hiện đầy đủ cả.
Hoặc hiện tu hành vô-lượng kiếp
Trụ nơi bồ-tát, bậc kham-nhẫn
Hoặc hiện trụ nơi bực bất-thối
Hoặc hiện pháp-thủy rưới trên đầu.
Hoặc hiện thân Phạm, Thích Tứ Vương
Hoặc hiện Sát-Lợi, Bà-La-Môn,
Nhiều loại sắc tướng thân trang-nghiêm
Dường như thuật-sĩ hiện hình tượng.
Hoặc hiện Ðâu-Suất mới giáng thần
Hoặc thấy trong cung thọ dục lạc
Hoặc thấy rời bỏ những vinh hoa
Xuất gia lìa tục đi học đạo.
Hoặc thấy mới sanh, hoặc thấy chết,
Hoặc thấy xuất gia học dị-hạnh
Hoặc thấy ngồi dưới cội Bồ-Ðề
Hàng phục ma-quân thành Chánh-Giác.
Hoặc lại thấy Phật mới niết-bàn
Hoặc thấy dựng tháp khắp thế-gian
Hoặc thấy trong tháp thờ tượng Phật
Vì biết thời cơ hiện như vậy.
Hoặc thấy Như-Lai Vô-Lượng-Thọ
Thọ Phật ký cho chư Bồ-Tát
Mà thành vô-thượng Ðại-Ðạo-Sư
Kế bổ nhậm ở cõi An-Lạc.
Hoặc thấy vô-lượng ngàn ức kiếp
Phật-sự đã xong nhập niết-bàn
Hoặc thấy nay mới thành bồ-đề
Hoặc thấy chánh tu những diệu-hạnh.
Hoặc thấy Như-Lai Thanh-Tịnh Nguyệt
Ở tại Phạm-Thế và Ma-Cung,
Tư-Tại Thiên-Cung, Hóa-Lạc-Cung,
Thị-hiện thần-thông những biến-hóa.
Hoặc thấy ở tại cung Ðâu-Suất
Vô-lượng chư Thiên-đồng vây quanh
Vì họ thuyết pháp cho hoan-hỉ
Chư Thiên phát tâm cúng-dường Phật.
Hoặc thấy ở tại Dạ-Ma Thiên
Ðao-Lợi, Tứ-Thiên, cung Long Thần,
Nơi cung-điện Thiên, Long, Bát-Bộ
Không chỗ nào Phật chẳng hiện thân.
Ở chỗ Nhiên-Ðăng Phật Thế-Tôn
Rải hoa, trải tóc để cúng-dường
Từ đây biết rõ pháp thâm diệu
Hằng dùng đạo nầy độ quần-sanh.
Hoặc người thấy Phật lâu niết-bàn,
Hoặc thấy Phật mới thành bồ-đề,
Hoặc thấy Phật trụ vô-lượng kiếp
Hoặc thấy giây lát liền nhập diệt.
Thân-tướng quang-minh cùng thọ-mạng
Trí-huệ bồ-đề và niết-bàn
Chúng-hội được độ, tiếng oai-nghi
Mỗi mỗi như vậy đều vô-số.
Hoặc hiện thân mình rất rộng lớn
Như núi Tu-Di, Ðại-Bửu Sơn,
Hoặc thấy Phật ngồi chẳng động lay
Sung-mãn vô-biên những thế-giới.
Hoặc thấy viên-quang lượng một tầm
Hoặc thấy ngàn vạn ức do-tuần
Hoặc thấy chiếu khắp vô-lượng cõi
Hoặc thấy sung mãn tất cả cõi.
Hoặc thấy Phật thọ tám mươi năm
Hoặc thấy thọ ngàn muôn ức tuổi
Hoặc thọ bất-khả-tư-nghì kiếp
Như vậy lần lượt bội hơn đây.
Phật-trí thông đạt tịnh vô-ngại
Một niệm biết khắp pháp tam-thế
Ðều từ tâm thức nhơn duyên sanh
Sanh diệt vô-thường không tự-tánh.
Ở trong một cõi thành Chánh-Giác
Ở tất cả cõi cũng đều thành
Tất cả vào một, một vào khắp
Tùy tâm chúng-sanh đều thị-hiện.
Như-Lai trụ nơi đạo vô thượng
Thành-tựu thập-lực, tứ vô-úy
Ðầy đủ trí-huệ không chướng-ngại
Chuyển thập nhị hành chánh pháp-luận.
Biết rõ khổ, tập và diệt, đạo
Phân biệt mười hai pháp nhơn duyên
Pháp, nghĩa, từ, nhạo-thuyết vô-ngại
Dùng biện-tài đây khai diễn rộng.
Các pháp không ngã, không có tướng
Nghiệp tánh chẳng sanh cũng chẳng mật
Tất cả xa lìa như hư-không
Phật dùng phương-tiện để phân biệt.
Như-Lai như vậy chuyển pháp-luân
Chấn khắp mười phương các quốc-độ
Cung-điện núi sông đều động lay
Chúng-sanh hoan-hỉ chẳng kinh sợ.
Phật diễn pháp-âm khắp rộng lớn
Tùy căn chúng-sanh đều khiến hiểu
Ðều khiến phát tâm trừ hoặc cấu
Nhưng Phật chưa từng sanh tâm niệm.
Hoặc nghe Phật diễn thí, giới, nhẫn,
Tấn, định, bát-nhã, phương-tiện, trí,
Hoặc nghe từ, bi và hỉ, xả,
Ngôn từ thuyết pháp đều sai khác.
Hoặc nghe tứ niệm, tứ chánh-cần,
Thần-túc, căn, lực và giác đạo,
Niệm, huệ, thần-thông và chỉ, quán
Vô-lượng phương-tiện những pháp-môn.
Long, Thần, Bát-Bộ, Nhơn, Phi-Nhơn,
Phạm, Thích, Hộ-Thế, các Thiên-Chúng,
Phật dùng nhất âm để thuyết pháp
Chúng-sanh tùy loại đều được hiểu.
Nếu có tham dục, sân và si
Phẩn, phú, xan, tật và kiêu, siểm
Tám muôn bốn ngàn phiền não chướng
Ðều nghe Phật dạy pháp chữa trị.
Nếu chưa tu đủ pháp bạch-tịnh
Khiến họ nghe nói mười giới-hạnh,
Ðã hay bố-thí điều-phục người
Cho nghe tiếng niết-bàn tịch-diệt.
Nếu người chí kém, không từ mẫn
Nhàm ghét sanh-tử, tụ cầu lìa
Khiến họ nghe nói tam thoát-môn
Cho họ thoát khổ, hưởng tịch-diệt.
Nếu người tự-tánh ít tham dục
Nhàm bỏ ba cõi cầu tịch tịnh
Khiến họ nghe nói các duyên-khởi
Theo độc-giác-thừa để xuất ly.
Nếu người thanh-tịnh tâm quảng-đại
Ðầy đủ thí giới các công-đức
Thân-cận Như-Lai đủ từ bi
Khiến họ nghe tiếng đại-thừa-đạo.
Hoặc có quốc-độ nghe nhất-thừa
Hoặc nhị, hoặc tam, hoặc tứ, ngũ
Như vậy nhẫn đến vô-lượng thừa
Ðều là Như-Lai phương-tiện-lực.
Niết-bàn tịch-tịnh chưa tùng khác,
Trí hạnh thắng liệt có sai khác,
Như hư-không thể tánh là một
Chim bay gần xa tự sai khác.
Phật thể âm-thanh cũng duy nhứt
Phổ biến tất cả cõi hư-không,
Tùy tâm chúng-sanh sai khác nhau
Nên nghe và thấy cũng tự khác.
Do Phật quá-khứ tu công hạnh
Hay theo sở-thích diễn diệu-âm
Không lòng tính nghĩ đây và kia
Ai là đáng nói, ai thời không.
Nơi mặt Như-Lai phóng đại quang
Ðủ số tám muôn bốn ngàn sáng
Pháp-môn Phật nói cũng như vậy
Chiếu khắp thế-giới trừ phiền-não.
Ðầy đủ thanh-tịnh công-đức trí
Mà thường tùy thuận tam thế Phật
Ví như hư-không chẳng nhiễm trước
Vì chúng-sanh nên Phật xuất hiện.
Hiện có sanh lão bệnh tử khổ
Cũng hiện trụ thọ ở thế-gian
Dầu thuận thế-gian hiện như vậy
Thể tánh thanh-tịnh đồng hư-không.
Tất cả quốc-độ vô-lượng biên
Chúng-sanh căn dục cũng vô-lượng
Trí-nhãn Như-Lai đều thấy rõ
Tùy theo cơ nghi dạy phật-đạo.
Cùng khắp hư-không mười phương cõi
Bao nhiêu Trời, Người, trong đại chúng
Theo thân hình họ đều chẳng đồng
Phật hiện thân hình cũng như vậy.
Nếu ở trong đại hội Sa-Môn
Cạo bỏ tóc râu mặc ca-sa
Ðắp y, cầm bát nhiếp các căn
Cho họ hoan-hỷ trừ phiền-não.
Có lúc thân-cận Ba-La-Môn
Vì họ Phật hiện thân gầy ốm
Chống gậy mang bình hằng trong sạch
Ðầy đủ trí-huệ giảng nói giỏi.
Nhả cũ nuốt mới tự no đủ
Hớp gió uống sương không ăn nuốt
Hoặc ngồi hoặc đứng chẳng động lay
Hiện tu khổ-hạnh dẹp ngoại-đạo.
Hoặc trì giới cấm làm thế-sư
Khéo thông phương thuốc các môn luận
Toán số, thiên-văn, địa-lý, tướng
Những điều lành dữ đều biết rõ.
Thâm nhập các thiền và giải-thoát
Tam-muội, thần-thông, trí-huệ, hạnh
Luận bàn, ngâm vịnh và đùa vui
Phương-tiện dẫn họ vào phật-đạo.
Hoặc hiện thượng-phục để nghiêm thân
Ðầu đội mão xinh, che lọng tốt
Binh-chủng trước sau theo hộ vệ
Ra oai hùng mãnh phục Tiểu-Vương.
Hoặc làm quan tòa đoán kiện tụng
Giải quyết thế-pháp đều hay giỏi
Hoặc thưởng hoặc phạt đều công minh
Cho họ tất cả đều vui phục.
Hoặc làm Ðại-Thần chuyên phụ bật
Giỏi dùng chánh-trị an lê-dân
Lợi ích mười phương đều cùng khắp
Tất cả chúng-sanh chẳng rõ biết.
Hoặc làm Túc-Tán Tiểu-quốc-Vương
Hoặc làm Ðại-Ðế Chuyển-Luân-Vương
Khiến các Vương-Tử cùng thể-nữ
Ðều theo chánh-pháp, không ai biết.
Hoặc làm Hộ-Thế Tứ-Thiên-Vương
Thống lãnh Dạ-Xoa, Long-Thần thảy
Vì chúng hội đó mà thuyết pháp
Ðều khiến tất cả đồng vui thích.
Hoặc làm Ðạo-Lợi Ðại-Thiên-Vương
Ở Thiện-Pháp-Ðường, vườn Hoan-Hỉ
Ðầu đội thiên-quan diễn pháp mầu
Chư Thiên ngưỡng mộ chẳng lường được.
Hoặc trụ Dạ-Ma, Ðâu-Suất thiên
Hóa-Lạc, Tự-Tại, cung Ma-Vương
Ngự cung Ma-Ni, điện trân-bửu
Giảng pháp chơn thiệt khiến điều-phục.
Hoặc đến trong chúng hội Phạm-Thiên
Nói tứ-vô-lượng, các thiền định
Cho họ hoan-hỉ, bèn bỏ đi
Không ai biết được tướng qua lại.
Hoặc đến Sắc-Cứu-Cánh thiên-cung
Ðể giảng giác-phần những bửu-hoa
Cùng những vô-lượng thánh-công-đức
Sau đó bỏ đi chẳng ai biết.
Phật-trí vô-ngại thấy khắp nơi
Trong đó tất cả những hàm-thức
Ðều dùng vô-biên phương-tiện môn
Nhiều cách giáo-hóa khiến thành-tựu.
Ví như thuật-sĩ giỏi ảo thuật
Hiện ra các thứ hình tượng huyễn,
Phật hóa chúng-sanh cũng như vậy
Vì họ mà hiện nhiều thân hình.
Ví như trăng sáng giữa hư-không
Thế-gian chúng-sanh thấy tròn khuyết
Tất cả sông ao hiện bóng trăng
Tất cả tinh tú bị khuất sáng.
Như-Lai trí-nguyện hiện thế-gian
Cũng dùng phương-tiện hiện tăng giảm
Tâm-thủy Bồ-Tát hiện bóng Phật
Thanh-Văn, Duyên-Giác khuất quang sắc.
Như trong đại-hải đầy châu báu
Trong sạch không nhơ không hạn lượng
Bao nhiêu chúng-sanh ở bốn châu
Tất cả hiện bóng ở trong biển.
Phật-thân công-đức cũng như vậy
Không nhơ không đục không ngằn mé
Nhẫn đến pháp-giới các chúng-sanh
Không ai chẳng hiện trong thân Phật.
Ví Như mặt nhật phóng quang-minh
Chẳng rời bổn-xứ chiếu mười phương,
Phật-quang chiếu khắp cũng như vậy
Không khứ không lai trừ si tối.
Ví như Long-Vương tuôn mưa lớn
Chẳng từ thân ra, chẳng từ tâm
Mà mưa cùng khắp đều nhuần thấm
Trừ hết viêm nhiệt được thanh-lương.
Như-Lai pháp-vũ cũng như vậy
Chẳng từ thân tâm Phật phát ra
Mà hay khai ngộ tất cả chúng
Khiến khắp diệt trừ lửa tam độc.
Như-Lai thanh-tịnh diệu-pháp-thân
Tất cả ba cõi không gì sánh
Vì ngoài đường ngôn ngữ thế-gian
Bởi tánh phi-hữu phi-vô vậy.
Dầu không sở-y mà ở khắp,
Dầu đến tất cả mà không đi,
Như vẽ không trung, cảnh trong mộng,
Phải quán thân Phật là như vậy.
Những pháp có, không, trong ba cõi
Chẳng thể ví-dụ cùng Phật được,
Ví như chim muông trong núi rừng
Không nương không-gian mà ở được.
Ðại hải ma-ni vô-lượng màu,
Thân Phật sai khác cũng như vậy,
Như-Lai phi-sắc phi-phi-sắc
Tùy nghi mà hiện, không sở-trụ.
Hư-không, chơn-như và thiệt-tế,
Niết-bàn, pháp-tánh, tịch-diệt thảy
Chỉ có những pháp chơn thiệt nầy
Khả dĩ hiển thị được Như-Lai.
Sát-trần tâm niệm đếm biết được,
Nước trong đại-hải uống hết được,
Hư-không lường được, gió buộc được,
Không thể nói hết công-đức Phật.
Nếu ai nghe biển công-đức nầy
Mà sanh lòng vui mừng xin tin hiểu
Tất sẽ được những công-đức nầy
Thận trọng chớ sanh lòng ngờ vực.
LƯỢC LUẬN
về Ý-NGHĨA và LUẬN-QUÁN
của Phẩm PHỔ-HIỀN
HẠNH -NGUYỆN
I
Ý-NGHĨA
Trong pháp hội Hoa Nghiêm, đức Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na với vô lượng pháp thân
bồ tát ở Hoa Tạng giới hải cùng nhau giảng luận cũng như hiển bày về cảnh giới
bất tư nghị giải thoát của mình tự chứng.
Thiện Tài Đồng Tử, một bậc đại cơ đại trí, nhờ đức Văn Thù bồ tát điểm hóa
nên chứng được Căn bổn trí (cũng gọi là Chân thiệt trí, Luận Khởi tín
nói: “Thỉ giác hiệp bổn giác”, Luận Duy thức nói: “Chứng
chơn duy thức tánh”, chính là trí này vậy. Người chứng được trí này thời là
bậc Sơ trụ bồ tát theo Viên giáo, và là bậc Sơ địa bồ tát của Thỉ giáo. Trí lực
và thần thông của bậc bồ tát này có thể phân thân hóa hiện làm một trăm thiên
bá ức vị Phật ngự trong một trăm thế giới không Phật để giáo hóa chúng sinh).
Sau đó đức Văn Thù bồ tát bảo ngài Thiện Tài đi tham học với các bậc đại
thiện trí thức khác để được viên mãn phước trí. Học với Đức Vân trước nhất,
nhẫn đến Quán Thế Âm, Di Lặc, cuối cùng ngài cầu học với đức Phổ Hiền bồ tát.
Đến đây, quả vị của ngài Thiện Tài đã chứng kề bậc Đẳng giác.
Bấy giờ, đức Phổ Hiền bồ tát đứng trước Phật, xưng dương tán thán công đức
vô lượng của Phật xong, ngài liền đem mười điều đại nguyện giảng cho Thiện Tài
và hải hội bồ tát cùng nghe. Ngài bảo muốn trọn nên công đức của Phật, nghĩa là
muốn thành Phật, chư bồ tát đều phải tu mười nguyện vương ấy.
Mười nguyện vương ấy cũng gọi là Phổ Hiền hạnh nguyện. Danh từ
này có hai nghĩa chung và riêng:
A.-Mười điều đây là hạnh nguyện của bậc Đẳng giác, của bậc bồ tát
gần kề quả Phật cùng tu để được thành Phật, nên gọi là Phổ Hiền hạnh
nguyện, đây là nghĩa chung.
B.-Mười nguyện đây chính là của đức Phổ Hiền bồ tát, và là của đức
Phổ Hiền đem giảng lại cho đại chúng, nên gọi là Phổ Hiền hạnh nguyện, đây
là nghĩa riêng.
Như trên đã nói, trong đại hội Hoa Nghiêm, đức Phật và chư bồ tát cùng nhau
giảng luận cũng như hiển bày vẻ cảnh giới bất tư nghị giải thoát của mình tự
chứng, nên tất cả những lời trong phẩm hạnh nguyện này, đức Phổ Hiền bồ tát
cũng y cứ nơi cảnh giới bất tư nghị giải thoát của ngài đã tự chứng mà giảng
thuật, vì thế nên danh đề của phần này là: Đại phương quảng Phật
hoa nghiêm kinh, Nhập bất tư nghị giải thoát cảnh giới Phổ Hiền hạnh nguyện
phẩm.
Mười hạnh nguyện đây đã đứng trên cảnh giới bất tư nghị giải thoát mà thành
lập, vậy thời muốn hiểu thấu đáo diệu lý của mười hạnh nguyện này, trước tiên
cần phải rõ thế nào là bất tư nghị giải thoát cảnh giới?
Chỗ sở ngộ và sở chứng của hàng Đại thừa bồ tát chia ra làm bốn tầng cấp.
Bốn tầng cấp này đều lấy toàn thể pháp giới tánh làm lượng, thể tánh bổn lai
vốn dung thông tự tại vô ngại:
1.-Lý vô ngại pháp giới
2.-Sự vô ngại pháp giới
2.-Lý sự vô ngại pháp giới
4.-Sự sự vô ngại pháp giới
“Lý” tức là chân lý thật tánh, là thể tánh chân thật của tất cả pháp, nên
cũng gọi là pháp tánh, hay pháp giới tánh, chơn như tánh. Tất cả pháp trong vũ
trụ đều đồng một thể tánh chân thật ấy. Thể tánh ấy dung thông vô ngại, nên gọi
là “Lý vô ngại pháp giới”. Người chứng được lý vô ngại này chính là bậc thành tựu Căn bổn trí, mà
bắt đầu dự vào hàng pháp thân bồ tát.
Tất cả pháp “sự” đều đồng một thể tánh chân thật tức là đồng lấy
pháp tánh làm thể. Toàn thể “sự” là pháp tánh, mà pháp tánh đã viên dung vô
ngại, thời toàn sự cũng vô ngại, nên gọi là “Sự vô ngại pháp giới”.
Người chứng được sự pháp giới này chính là bậc pháp thân bồ tát thành tựu Sai
biệt trí (cũng gọi là Quyền trí, Tục trí, Hậu đắc trí).
“Lý” là thể tánh của “sự” (tất cả pháp), “sự” là hiện tượng của “lý tánh”. Vậy
thời lý tánh tức là lý tánh của sự, còn sự là sự tướng của lý tánh. Chính lý
tánh là toàn sự, mà tất cả sự toàn là lý tánh, nên gọi là “lý sự vô ngại pháp giới”. Người
chứng được lý sự pháp giới này thời là bậc pháp thân bồ tát đồng thời hiển phát
cả hai trí (Căn bổn trí và Sai biệt trí).
Tất cả sự đều toàn đồng một tánh thể, mà tánh thể thời dung thông không phân
chia riêng khác, nên bất luận là một sự nào cũng đều dung nhiếp tất cả sự, và
cũng đều tức tất cả sự. Một sự nhiếp và tức tất cả sự, tất cả sự nhiếp và tức
một sự. Thế là sự sự vô ngại tự tại, nên gọi là “Sự sự vô ngại pháp giới”. Người
chứng được sự sự pháp giới này là bậc pháp thân bồ tát thành tựu nhất thiết
chủng trí.
Xét theo văn nghĩa, phẩm này y cứ nơi sự sự vô ngại pháp giới mà lập hạnh
nguyện. Sự sự vô ngại pháp giới dung thông tự tại nên gọi là “giải thoát”. Cảnh
giới đây là thánh trí chỗ chứng, chẳng phải phàm tình lường biết được nên gọi
là “bất tư nghị cảnh giới”. Đã chứng được, đã trụ trong cảnh giới vô ngại ấy
nên gọi là “nhập”.
Sao lại biết rằng phẩm này y cứ nơi sự sự vô ngại pháp giới mà thành lập hạnh
nguyện?
Trong phẩm, đức Phổ Hiền giảng giải về mười điều đại nguyện, nơi nguyện nào
cũng đều quán nhiếp cả không gian lẫn thời gian.
Về không gian, nguyện luôn luôn nói:
Trong vô lượng cõi có vô lượng vi trần, trong mỗi vi trần đều có vô lượng cõi,
trong mỗi cõi đều có vô lượng Phật, nơi mỗi đức Phật đều có vô lượng bồ tát, vô
lượng đại chúng v.v… Nơi trước mỗi đức Phật, tôi đều hóa hiện thân nhiều như số
vi trần, mỗi thân đều khắp lễ kính vô lượng Phật v.v… Trong số hư trần khắp hư
không pháp giới mười phương ba đời, mỗi vi trần đều có vô lượng cõi Phật rộng
lớn, nơi mỗi cõi, trong một niệm đều có vô lượng chư Phật thành Đẳng chánh
giác, tất cả chúng bồ tát nhóm họp vây quanh v.v…
Cho đến nơi văn kệ cũng luôn nói như thế:
…
Trong một trần có vô số cõi,
Mỗi mỗi cõi có nan tư Phật,
Mỗi mỗi Phật ở giữa chúng hội.
Tôi thấy hằng giảng hạnh bồ đề.
…
Thế là tất cả pháp, về không gian, thời nhỏ nhiếp lớn, ít dung nhiều, nhỏ lớn
nhiều ít đều viên dung vô ngại.
Về thời gian, đại nguyện nào cũng là mãi mãi vô tận, cho đến một niệm nhiếp tất cả
kiếp, rồi tất cả kiếp chung nơi một niệm, ngắn dài, dài ngắn đều viên dung vô
ngại. Như nguyên văn nói:
Tôi hay thâm nhập đời vị lai
Tất cả nhiếp thâu làm một niệm
Hết thảy những kiếp trong ba đời
Làm khoảng một niệm tôi đều nhập
…
Và cả không gian lẫn thời gian cùng dung thông nhiếp nhận lẫn nhau, như trên
nguyên văn nói:
Khắp hết mười phương các cõi nước (không gian)
Mỗi đầu lông đủ có ba đời (thời gian)
Phật cùng quốc độ số vô lượng (không gian)
Tôi khắp tu hành trải trần kiếp (thời gian)
…
Trong một niệm tôi thấy ba đời (thời gian)
Tất cả các đấng Nhân Sư Tử (không gian)
Cũng thường vào trong cảnh giới Phật
Như huyễn, giải thoát và oai lực
…
Trong các cực vi đầu sợi lông (không gian)
Xuất hiện cõi trang nghiêm ba thuở
Mười phương trần sát các đầu lông
Tôi đều thâm nhập để nghiêm tịnh.
…
Tất cả Sự pháp không ngoài không gian và thời gian. Không gian dung nhiếp không
gian, thời gian dung nhiếp thời gian, không gian dung nhiếp thời gian, thời
gian dung nhiếp không gian, đó là “sự sự vô ngại pháp giới”, mà cũng chính là
“cảnh giới giải thoát tự tại bất tư nghị” vậy.
(Muốn rõ diệu lý của sự sự vô ngại pháp giới,
nên tham cứu Thập huyền môn của Hoa Nghiêm tông và nên xem phẩm “Bất tư nghị”
trong kinh Duy Ma Cật để rõ thêm về cảnh giới bất tư nghị của bồ tát).
Và cảnh giới dung thông bất tư nghị đây là những sự vật thường ở khắp trong cõi
thế giới Cực Lạc. Nơi Cực Lạc, trên cây báu, trong đền đài, trong quang minh, ở
mặt đất, giữa hư không v.v… tất cả sự vật đều dung nhiếp lẫn nhau, trùng trùng
vô tận vô ngại, cho đến nơi lọng báu hiển hiện tất cả Phật sự ở mười phương v.v…
Như trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã tường thuật.
Người thọ trì đọc tụng phẩm này, tức là huân tập cảnh giới bất tư nghị giải
thoát. Vì thế nên về đoạn cuối phẩm nguyên văn nói người thọ trì đọc tụng phẩm
“Phổ Hiền hạnh nguyện” này, nhờ oai lực của hạnh nguyện lúc lâm chung sẽ sanh
về cõi Cực Lạc và sẽ được mau thành Phật. Vì cõi Cực Lạc là hiện tượng của cảnh
giới bất tư nghị giải thoát. Dưới đây là nguyên văn nói về việc ấy:
…
Lại người trì tụng này, lúc lâm chung, phút cuối cùng, tất cả căn thân đều hư
hoại, tất cả thân thuộc đều phải bỏ lìa, tất cả oai thế đều thối thất, cho đến
các phụ tướng đại thần, cung thành trong ngoài, voi ngựa xe cộ, trân bảo, kho
đụn v.v… tất cả đều không đem một món nào theo được. Chỉ có mười nguyện vương
này chẳng rời người mà thôi, trong tất cả thời gian nó thường ở trước dẫn
đường, trong khoảnh khắc liền được sanh về cõi Cực Lạc. Đến Cực Lạc rồi liền
thấy đức A Di Đà Phật cùng các ngài Văn Thù Sư Lợi bồ tát, Phổ Hiền bồ tát,
Quán Tự Tại bồ tát v.v… các vị bồ tát này sắc tướng đoan nghiêm, công đức đầy
đủ, chung cùng vây quanh. Lúc bấy giờ người ấy tự thấy mình gá sanh nơi hoa sen
báu, được đức Phật xoa đầu thọ ký. Sau khi được thọ ký rồi, trải qua vô số trăm
ngàn muôn ức na do tha kiếp, khắp cả mười phương bất khả thuyết bất khả thuyết
thế giới, dùng sức trí huệ tùy theo tâm của chúng sinh mà làm cho đều được lợi
ích. Chẳng bao lâu sẽ ngồi nơi Bồ đề đạo tràng hàng phục quân ma, thành bậc
Đẳng chánh giác giảng nói pháp mầu vi diệu.
Và muốn cho mọi người, cho tất cả chúng sinh đều được chứng nhập cảnh giới bất
tư nghị giải thoát, đức Phổ Hiền bồ tát lại ân cần khuyên:
…
Vì thế nên những người được nghe mười nguyện vương này chớ sanh lòng nghi ngờ,
nên phải lãnh thọ, thọ rồi nên đọc, đọc rồi có thể tụng thuộc, tụng thuộc rồi
nên ghi nhớ, nhẫn đến biên chép vì người mà giảng nói, những người như vậy
trong một niệm đều được thành tựu tất cả hạnh nguyện, được phước vô lượng vô
biên, có thể ở trong biển khổ phiền não cứu vớt chúng sinh, khiến chúng được
giải thoát, đều được vãng sanh về thế giới Cực Lạc của đức Phật A Di Đà.
Thiết thật hơn, đức Phổ Hiền lại khuyên tất cả bồ tát, tất cả đại chúng hiện
tại trong pháp hội Hoa Nghiêm, dưới sự chứng kiến của đức Phật cùng nhau đồng
phát nguyện vãng sanh Cực Lạc, để được chóng viên thành Phật quả.
Dưới đây là nguyên văn phát nguyện của các ngài:
Nguyện tôi lúc mạng sắp lâm chung
Trừ hết tất cả các chướng ngại
Tận mặt gặp Phật A Di Đà
Liền được vãng sanh cõi Cực Lạc
Tôi đã vãng sanh cõi kia rồi
Hiện tiền thành tựu nguyện lớn này
Cả thảy tròn đủ không thừa thiếu
Lợi lạc khắp tất cả chúng sinh
Chúng hội Di Đà đều thanh tịnh
Tôi từ hoa sen nở sanh ra
Thân thấy đức Phật Vô Lượng Quang
Liền thọ ký tôi đạo bồ đề
Nhờ đức Phật kia thọ ký rồi
Tôi hóa vô số vạn ức thân
Trí huệ rộng lớn khắp mười phương
Khắp lợi tất cả chúng sinh giới.
Trước khi dứt lời, đức Phổ Hiền lại đem tất cả công đức hồi hướng cho pháp giới
chúng sinh đồng vãng sanh Cực Lạc, để chúng sinh cũng đồng được chứng nhập cảnh
giới bất tư nghị giải thoát như ngài.
Đây là lời hồi hướng:
Hạnh Phổ Hiền thù thắng của tôi
Phước lớn vô biên đều hồi hướng
Khắp nguyện chúng sinh đang chìm đắm
Mau sanh cõi Phật Vô Lượng Quang
(tức là cõi Cực Lạc của đức Phật A Di Đà)
II
LUẬN-QUÁN
Đã lược biết ý nghĩa về phần y cứ cũng như về mục đích của phẩm này, giờ đây
cũng nên lược luận về tuần thứ luận của mười điều đại nguyện:
Một là lễ kính các đức Phật
Hai là khen ngợi đức Như Lai
Ba là rộng sắm đồ cúng dường
Bốn là sám hối các nghiệp chướng
Năm là tùy hỷ các công đức
Sáu là thỉnh đức Phật thuyết pháp
Bảy là thỉnh đức Phật ở lại đời
Tám là thường học đòi theo Phật
Chín là hằng thuận lợi chúng sinh
Mười là hồi hướng khắp tất cả
…
Chúng sinh lưu lãng trong vòng sanh tử luân hồi, nguyên nhân là vì trái quên
giác tánh mà theo trần lao. Trần lao là thứ vô thường, nên đã theo nó tức là
lưu chuyển như nó. Nếu chúng sinh thức tỉnh biết xét trở lại: rời trần lao mà
xoay về giác tánh thời khỏi hẳn luân hồi, vì giác tánh là bổn thể chơn như
thường trụ. Bậc chứng cùng giác tánh là đức Phật, nên điều nguyện thứ nhất “lễ
Phật” đây, là biểu tượng trái trần lao mà hiệp với giác tánh vậy.
... Đã kính lễ Phật, tất nhiên phải biết hạnh đức thần thông trí huệ vô
thượng của Phật. Việc “tán thán công đức”, chính là biểu hiện của sự rõ biết
rồi quá khâm phục mà thốt ra lời, làm thành điều nguyện thứ hai trong mười
nguyện.
... Muốn thỏa mãn tấm lòng khâm phục, kính ngưỡng ân đức sâu dày của
Phật, lễ lạy và tán thán vẫn chưa đủ, bồ tát lại lấy sự “cúng dường Phật” làm
điều nguyện thứ ba. Hạnh cúng dường có hai cách:
1.- Tài cúng dường (dâng hoa, hương đèn v.v… để dâng cúng).
2.- Pháp cúng dường (y theo lời Phật mà tu hành, cho đến chẳng
rời tâm bồ đề để cúng dường v.v…).
Về tương đối, công đức của pháp cúng dường lớn hơn công đức của tài cúng
dường. Nhưng ở nơi tài cúng dường mà tam luân không tịch, thời tài cúng dường
trở thành pháp cúng dường công đức vô lượng vô biên, như trong kinh Kim cang
nói bố thí không trụ trước nơi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, công đức rộng
lớn như hư không. Và như kinh Pháp hoa, phẩm “Dược Vương”, nhắc việc cúng dường
của ngài Nhất Thiết Chúng sinh Hỷ Kiến bồ tát.
…
Nơi Phật thời đầy đủ vô lượng công đức trang nghiêm. Nơi ta thời từ vô thỉ
đến nay kết cấu vô biên nghiệp hoặc. Muốn thành tựu công đức, trước phải trừ
sạch nghiệp chướng đã gây tạo từ quá khứ, cũng không tái phạm ở hiện tại và
tương lai. Đây là ý nghĩa của lời nguyện thứ tư “Sám hối các nghiệp
chướng”.
…
Ở nơi công đức của người mà mình có quan niệm tán thành kính mộ thời mới có
sự phát tâm làm theo, tu tập theo nên “Tùy hỷ công đức” là điều nguyện thứ năm
của bồ tát.
…
Đã có quan niệm tán thành ngưỡng mộ công đức vô thượng, tất cần phải biết do
phương tiện gì, do pháp môn nào mà được thành tựu. Vì thế nên bồ tát gấp “Thỉnh
đức Phật chuyển pháp luân”, đồng thời để chúng sinh gội nhuần ơn pháp nhũ,
thành điều nguyện thứ sáu.
Chư Phật thành Phật là vì chúng sinh mà thành Phật, đã vì chúng sinh tất
phải nói pháp, bồ tát cần gì phải cầu thỉnh? Sự thỉnh pháp đây có hai nghĩa:
1.- Vì muốn cho chánh pháp có phần quý trọng, có quý trọng mọi người mới
sanh lòng khao khát ngưỡng vọng, có khao khát ngưỡng vọng mới có lợi ích.
2.-Lòng của bồ tát lúc nào cũng tha thiết đối với sự lợi người lợi mình. Người
cùng mình được lợi ích, không gì bằng nghe Phật thuyết pháp, nên đức Phật chưa
nói mà bồ tát đã vội cầu thỉnh trước.
…
Mình và chúng hội hiện tại được thấy Phật, được nghe pháp âm, nhưng còn lo
tương lai thiếu huệ nhật nếu đức Phật nhập diệt. Phật ở nơi đời là phước hội
tối thắng cho quần sanh, nên bồ tát chí thành “Thỉnh Phật trụ thế mãi mãi”. Đây
là điều nguyện thứ bảy.
…
Đã thỉnh Phật diễn nói phép mầu, tất đã thông hiểu. Nhưng nghe pháp mà thiếu
tư duy tu tập, thời đâu có thể đạt đến kết quả giải thoát thành Phật. Muốn
thành Phật, phải đi đúng theo con đường của Phật đã đi. Nghĩa là phải thực hành
những công hạnh như Phật đã làm trước khi thành Phật và sau khi thành Phật. Nên
điều nguyện thứ tám “Thường học đòi theo Phật” nối liền với điều nguyện “khuyến
thỉnh”. (Chữ học trong đây có nghĩa là học tập thực hành).
…
Pháp thân do phước đức và trí huệ mà trang nghiêm. Trí huệ cùng phước đức
được viên mãn, tức là thành Phật hoàn toàn. Tư duy tu tập chính để rèn luyện
trí huệ, còn từ bi lợi sanh chính là vun trồng phước đức, mà đồng thời cũng là
bổ túc cho trí huệ do sự kinh nghiệm. Vì thế nên công hạnh độ sanh lợi tha do
từ bi tâm là phận sự khẩn thiết của các bậc bồ tát đắc nhẫn (Đắc nhẫn nói đủ là
Đắc Vô sanh nhẫn, nghĩa là bậc bồ tát đã chứng Vô sanh giải thoát) mà thành
điều nguyện thứ chín “Hằng tùy thuận chúng sinh” (Hai chữ tùy thuận ở nơi đây
chính ý là thiết tha lân mẫn chúng sinh, chiều theo chỗ hạp nghi nguyện vọng
trong sạch của chúng sinh, mà thi hành những phương pháp gì để chúng sinh được
lợi ích trên đường giải thoát khỏi khổ…).
…
Bồ tát đã lấy từ bi làm lòng, nên chúng sinh khổ là mình khổ, chúng sinh vui
là mình vui, tất cả công hạnh tu tập chính là vì chúng sinh mà tu tập, nên bồ
tát có bao nhiêu công đức đều hồi hướng cho cả pháp giới chúng sinh, mong cho
muôn loài chóng thoát khổ sanh tử, đồng sớm được thành Phật. Đây là điều nguyện
thứ mười “Phổ giai hồi hướng” của bồ tát.
Mười nguyện vương đã thuộc cảnh giới bất tư nghị, thời đâu còn phải ở trong
phạm vi ngữ ngôn văn tự, chỉ tùy chỗ sở đắc thánh trí của hành giả tự chứng tỏ
lấy. Nhưng vì muốn cho các hàng sơ cơ hiểu được phần nào nơi ý nghĩa trong phẩm
này, nên tôi mới trắc đạc viết ra những lời lược luận trên đây. Đồng thời cũng
mong mọi người, do sự hiểu biết phần nào ấy, mà phát tâm tín thọ, trì tụng phẩm
này, để được vô lượng công đức, như nguyên văn trong phẩm nói:
Này thiện nam tử! Các chúng sinh kia hoặc nghe hoặc tin nơi nguyện vương
rộng lớn này, rồi thọ trì đọc tụng và giảng nói cho người nghe, công đức của
chúng sinh kia chỉ có đức Phật Thế Tôn biết, ngoài ra không ai hiểu thấu.
Hoặc có người dùng lòng tin sâu chắc ở nơi mười điều nguyện rộng lớn này thọ
trì, đọc tụng, cho đến biên chép một bài kệ bốn câu, thì sớm có thể dứt trừ
được năm nghiệp vô gián, cả thảy thân bệnh, tâm bệnh, khổ não trong thế gian,
cho đến tất cả các ác nghiệp nhiều như số cực vi trong cõi Phật đều được tiêu
trừ, tất cả các quân ma, quỷ Dạ Xoa, quỷ La Sát, hoặc quỷ Cưu Bàn Trà, Tỳ Xá
Xà, Bộ Đa v.v… các quỷ thần hung ác uống máu ăn thịt thảy đều lánh xa, hoặc nếu
có gần gũi thời là hạng phát tâm theo hộ trì.
Vì thế nên người trì tụng nguyện này, thời đi trong thế gian không bị chướng
ngại, như mặt trăng giữa lừng ra khỏi mây mù, các đức Phật, bồ tát đều khen
ngợi, tất cả hàng nhơn thiên đều nên lễ kính, tất cả chúng sinh đều nên cúng
dường. Người thiện nam tử này trọn được thân người đầy đủ bao nhiêu công đức
của ngài Phổ Hiền, chẳng bao lâu sẽ như Phổ Hiền bồ tát mau được thành tựu sắc
thân vi diệu, đủ ba mươi hai tướng tốt đại trượng phu… trọn có thể phá hoại tất
cả đường ác, trọn có thể xa lìa tất cả bạn dữ, trọn có thể chế phục tất cả
ngoại đạo, trọn có thể giải thoát tất cả phiền não… Lại người này lúc lâm
chung, trong khoảnh khắc liền được vãng sanh về cõi Cực Lạc. Lúc bấy giờ người
ấy tự thấy mình gá sanh nơi hoa sen báu, được đức Phật A Di Đà thọ ký. Sau khi
được thọ ký rồi, trải qua vô số trăm ngàn ức na do tha kiếp, khắp cả mười
phương tất cả thế giới, dùng sức trí huệ tùy theo tâm của chúng sinh mà làm lợi
ích. Chẳng bao lâu sẽ ngồi nơi Bồ đề đạo tràng, hàng phục quân ma, thành bậc
Đẳng chánh giác giảng nói pháp mầu vi diệu…
Tháng đầu xuân năm Đinh-Dậu (1957)
Phật lịch Quốc-Tế 2501
HÂN TỊNH TỲ-KHEO THÍCH TRÍ-TỊNH
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
Nhập Bất-Tư-Nghị Giải-Thoát Cảnh-Giới
Phổ-Hiền Hạnh-Nguyện Phẩm
Thứ Bốn Mươi
(Đời Đường, người nước Kế-Tân,
Tam-tạng SA-MÔN BÁT-NHÃ vưng chiếu dịch ra văn Hán)
Lúc bấy giờ ngài
Phổ Hiền đại Bồ Tát khen ngợi công đức thù thắng của đức Như Lai
rồi, bèn bảo các vị Bồ Tát và Thiện Tài rằng: "Này Thiện Nam Tử!
Công đức của Như Lai, giả sử cho tất cả các đức Phật ở mười
phương, trải qua số kiếp nhiều như cực vi trần trong bất
khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật diễn nói không ngừng, cũng không
thể trọn hết được.
Nếu ai muốn trọn nên công
đức của Phật, thời phải tu mười điều hạnh nguyện rộng lớn. Những gì là mười
điều?
Một là kính lễ các đức
Phật.
Hai là khen ngợi đức Như Lai.
Ba là rộng sắm đồ cúng dường.
Bốn là sám hối các nghiệp chướng.
Năm là tùy hỉ các công đức.
Sáu là thỉnh đức Phật thuyết pháp.
Bảy là thỉnh đức Phật ở lại đời.
Tám là thường học tập theo Phật.
Chín là hằng thuận lợi chúng sanh.
Mười là hồi hướng khắp tất cả.
Thiện Tài bạch rằng:
"Ðại Thánh! Lễ kính như thế nào? cho đến hồi hướng
như thế nào?".
Phổ Hiền Bồ Tát bảo Thiện Tài rằng: "Này thiện nam tử ! Nói
"Lễ kính các đức Phật" là như vầy:
Bao nhiêu các đức Phật Thế Tôn nhiều như số cực vi trần trong
cõi Phật khắp pháp giới hư không giới mười phương ba đời, tôi do nơi hạnh
nguyện của Phổ Hiền thâm tâm tín giải như đối trước mắt, đều dùng
thân, khẩu, ý ba nghiệp thanh tịnh thường tu hạnh lễ kính. Nơi mỗi đức
Phật đều hóa hiện thân nhiều như số cực vi trần trong bất
khả thuyết cõi Phật. Mỗi thân đều khắp lễ kính các đức Phật nhiều
như số cực vi trần trong bất khả thuyết bất khả thuyết cõi
Phật. Cõi hư không kia hết, sự lễ kính của tôi mới hết. Nhưng
cõi hư không chẳng cùng tận nên sự lễ kính của tôi cũng không
cùng tận. Nhẫn đến cõi chúng sanh hết, nghiệp chúng sanh hết, phiền não chúng
sanh hết, sự lễ kính của tôi mới dứt. Nhưng cõi chúng sanh cho đến
phiền não chẳng hết, nên sự lễ kính của tôi cũng không cùng tận, niệm
niệm nối luôn không hở, ba nghiệp thân, khẩu, ý không hề nhàm mỏi.
Lại này thiện nam tử!
"Nói "Khen ngợi đức Như Lai" là như vầy:
Bao nhiêu số cực vi
trần trong cõi nước khắp cùng hư không pháp giới mười phương ba đời, trong
mỗi cực vi đều có các đức Phật nhiều như số cực vi trong tất
cả thế gian. Nơi mỗi đức Phật, đều có rất đông Bồ Tát vây
quanh nhóm họp. Tôi phải trọn dùng sức thậm thâm thắng giải tri kiến hiện tiền,
đều dùng lưỡi vi diệu hơn Biện Tài Thiên Nữ. Mỗi lưỡi phát xuất vô tận âm thinh
hải. Mỗi âm thinh phát xuất tất cả ngôn từ hải, khen ngợi các
công đức hải của tất cả đức Như Lai, ca ngợi đến tột đời vị lai
nối luôn không dứt, khắp cả pháp giới, không sót chỗ nào.
Như vậy hư không giới, chúng sanh giới, chúng sanh nghiệp, chúng sanh
phiền não đều hết, thời sự khen ngợi công đức chư Phật của tôi đây
mới cùng tận. Nhưng cõi hư không kia cho đến phiền não của chúng sanh
chẳng cùng tận, nên sự khen ngợi của tôi cũng không cùng tận, nên
sự khen ngợi của tôi cũng không cùng tận, niệm niệm nối luôn không hở, ba
nghiệp thân, khẩu, ý không hề nhàm mỏi.
Lại này thiện nam tử!
"Nói "Rộng sắm đồ cúng dường" là như vầy:
Bao nhiêu số vi trần
trong khắp cõi Phật cùng hư không pháp giới mười phương ba đời, trong mỗi
cực vi trần đều có chư Phật như số cực vi trong tất cả thế giới,
nơi mỗi đức Phật có vô số Bồ Tát vây quanh nhóm họp. Tôi dùng sức
hạnh nguyện của Ngài Phổ Hiền mà khởi lòng tín giải rất sâu và hiện tiền
tri kiến, đều đem đồ cúng dường thượng diệu mà cúng dường pháp hội của
Phật. Như là mây hoa, mây tràng hoa, mây âm nhạc cõi trời, mây tàn lọng
cõi trời, mây y phục cõi trời, các thứ hương trời: hương xoa, hương đốt,
hương bột. Các thứ mây trên đây thảy đều nhiều lớn như núi Tu Di. Lại
thắp các thứ đèn, đèn tô lạc, đèn dầu, các thứ đèn dầu thơm mỗi tim
đèn lớn như núi Tu Di, dầu trong đèn như nước bể cả. Ðem các
thứ đồ cúng dường như trên để thường cúng dường.
Thiện nam tử ! Trong
các thứ cúng dường, pháp cúng dường là hơn hết. Pháp cúng dường là: Tu
hành đúng theo lời Phật dạy để cúng dường, làm lợi ích cho chúng sanh
để cúng dường, chịu khổ thế cho chúng sanh để cúng dường,
nhiếp thọ chúng sanh để cúng dường, siêng năng tu tập căn lành
để cúng dường, không bỏ hạnh Bồ Tát để cúng dường, chẳng
rời tâm Bồ Ðề để cúng dường.
Thiện nam tử !
Như vô lượng công đức của sự cúng dường trước kia sánh với một niệm
công đức của pháp cúng dường, thời không bằng một phần trăm, không bằng một
phần ngàn, không bằng một phần trăm ngàn, cu chi na do tha, một phần ca la, một
phần toán, một phần số, một phần dụ, cũng chẳng bằng một phần ưu ba ni sa
đà. Vì sao? Vì các đức Như Lai tôn trọng chánh Pháp. Vì theo đúng
như lời Phật dạy mà tu hành thì sanh ra các đức Phật. Nếu các Bồ Tát
thật hành pháp cúng dường, thì trọn nên sự cúng dường Phật. Tu hành
như vậy mới thật là sự cúng dường. Nên Pháp cúng dường là
sự cúng dường rộng lớn hơn tất cả. Cõi hư không cùng tận cõi chúng
sanh cùng tận, nghiệp chúng sanh cùng tận, phiền não chúng sanh cùng tận,
sự cúng dường của tôi mới cùng tận, nhưng cõi hư không cho đến phiền
não chẳng cùng tận nên sự cúng dường của tôi cũng không cùng tận, niệm
niệm nối luôn không hở, thân, khẩu, ý nghiệp không hề nhàm mỏi.
Lại này thiện nam tử! Nói
"Sám hối nghiệp chướng" là như vầy:
Bồ Tát tự nghĩ
rằng: Tôi từ vô thỉ kiếp về qúa khứ, do lòng tham lam, giận dữ,
ngu si khiến thân, khẩu, ý tạo vô lượng vô biên nghiệp ác. Nếu các nghiệp ác
này mà có hình tướng, thì khắp cõi hư không cũng chẳng thể đựng chứa
hết được. Nay tôi đem trọn cả ba nghiệp trong sạch đối trước các đức Phật
và chúng Bồ Tát khắp cực vi trần cõi nước trong Pháp giới, thành tâm sám
hối, về sau không tái phạm nữa, thường an trụ nơi giới pháp trong
sạch đầy đủ công đức lành. Như vậy hư không giới cùng tận, chúng
sanh giới cùng tận, chúng sanh nghiệp cùng tận, chúng sanh phiền não cùng tận,
thì sự sám hối của tôi mới cùng tận, nhưng hư không giới cho đến
chúng sanh phiền não chẳng cùng tận, nên sự sám hối của tôi đây cũng không
cùng tận, niệm niệm nối luôn không hở thân, khẩu, ý ba nghiệp không
hề nhàm mỏi.
Lại này thiện nam tử!
"Nói "Tùy hỉ công đức" là như vầy:
Bao nhiêu đức Phật
như số vi trần trong tất cả cõi Phật khắp hư không pháp
giới mười phương ba đời, từ khi mới phát tâm vì muốn chúng sanh Nhứt thiết
trí mà siêng tu cội phước chẳng tiếc thân mạng, trải qua số kiếp như số cực
vi trần trong bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi kiếp đều
thí xả đầu, mắt, tay, chân v.v...nhiều như số cực vi trong bất
khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, làm tất cả những hạnh khó
làm như vậy, đầy đủ các món ba la mật, chứng nhập các trí địa của
Bồ Tát, trọn nên qủa Vô Thượng Bồ Ðề của chư Phật, cho đến
nhập Niết Bàn phân chia xá lợi. Bao nhiêu căn lành ấy tôi đều tùy
hỷ cả.
Ðến các loài lục thú,
tứ sanh trong tất cả mười phương thế giới kia có bao nhiều công
đức, dầu nhỏ như mảy trần, tôi đều tùy hỷ.
Mười phương ba đời tất
cả các vị Thanh Văn, Bích Chi Phật, hữu học và vô học có bao nhiêu
công đức tôi đều tùy hỷ.
Tất
cả chư Bồ Tát tu hạnh cần khổ khó làm, chí cầu qủa Vô
Thượng Chánh Ðẳng Bồ Ðề công đức rộng lớn, tôi đều tùy hỷ.
Như vậy, hư không giới cùng tận, chúng sanh giới cùng tận, chúng sanh
nghiệp cùng tận, chúng sanh phiền não cùng tận, sự tùy hỷ của tôi đây
không có cùng tận, niệm niệm nối luôn không hở, ba nghiệp thân, khẩu, ý không
hề nhàm mỏi.
Lại này thiện nam tử !
Nói "Thỉnh đức Phật thuyết pháp" là thế này:
Trong số cực vi khắp
hư không pháp giới mười phương ba đời tất cả cõi Phật. Mỗi cực vi đều
có cõi Phật rộng lớn nhiều như số cực vi trong bất khả thuyết
bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi cõi trong một niệm đều có tất cả chư Phật
thành Chánh Ðẳng Chánh Giác số đông như số cực vi trong bất
khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, tất cả chúng Bồ Tát
nhóm họp vây quanh. Tôi đều đem thân, khẩu, ý ba nghiệp dùng những phương tiện
ân cần khuyên mời tất cả Phật nói pháp nhiệm mầu. Như vậy,
hư không giới cùng tận, chúng sanh nghiệp cùng tận, chúng sanh phiền não
cùng tận, tôi luôn khuyên mời tất cả các đức Phật chuyển pháp luân chơn
chánh không cùng tận, niệm niệm nối ý luôn không hở, ba nghiệp thân, khẩu, ý
không hề nhàm mỏi.
Lại này thiện nam tử!
"Nói "Thỉnh Phật ở lại đời" là như vầy:
Các đức Như Lai
như số cực vi trong tất cả cõi Phật khắp hư không pháp giới
mười phương ba đời toan muốn thị hiện nhập Niết Bàn, cùng các Bồ Tát,
Thinh Văn, Duyên Giác, hữu học, vô học, cho đến tất cả các bậc thiện tri
thức, tôi đều khuyên mời xin đừng nhập Niết Bàn, xin ở lại đời trải
qua số kiếp như vi trần trong tất cả cõi Phật, vì muốn cho tất
cả chúng sanh được lợi lạc. Như vậy, cõi hư không cùng tận, cõi
chúng sanh cùng tận, nghiệp chúng sanh cùng tận, phiền não chúng sanh cùng tận,
sự khuyên mời của tôi đây vẫn không cùng tận, niệm niệm nối luôn không hở,
ba nghiệp thân, khẩu, ý không hề nhàm mỏi.
Lại này thiện nam tử!
"Nói "Thường học tập theo Phật" là như vầy:
Như đấng Tỳ Lô Giá Na
Phật ở cõi Ta Bà đây, từ khi mới phát tâm tinh tấn không
trễ lui, đem bất khả thuyết bất khả thuyết thân mạng ra mà
bố thí. Lột da làm giấy, chẻ xương làm viết, chích máu làm mực, dùng
biên chép kinh điển chất cao như núi Tu Di, vì tôn trọng chánh pháp nên
Phật không tiếc thân mạng, huống là ngôi vua, thành ấp, cung điện, vườn,
rừng v.v..
Cùng thật hành bao nhiều
hạnh khó làm khác, nhẫn đến ngồi dưới cây thành qủa đại Bồ Ðề,
thị hiện các thứ thần thông, khởi các sự biến hóa, hiện các thân
Phật ở trong những chúng hội: hoặc ở trong chúng hội đạo
tràng của các vị đại Bồ Tát, hoặc ở trong đạo tràng của
chúng hội Thinh Văn, Duyên Giác, hoặc ở trong đạo tràng của Chuyển
Luân Vương, các vị Tiểu Vương cùng quyến thuộc, hoặc ở trong đạo
tràng của chúng hội Cư Sĩ, Trưởng Giả, Bà La Môn cùng Sát Ðế Lợi, nhẫn
đến hoặc ở trong đạo tràng của chúng hội Thiên, Long, Bát Bộ, Nhơn,
Phi Nhơn v.v...ở trong các chúng hội như vậy, dùng tiếng viên mãn
như đại lôi chấn, tùy theo căn tánh của mỗi loại mà giáo hóa cho chúng
sanh đều được thành thục. Nhẫn đến thị hiện nhập Niết Bàn. Cả thảy
hạnh đức như thế tôi đều học tập theo. Như đức Thế Tôn Tỳ
Lô Giá Na hiện nay, các đức Phật Như Lai như số vi trần trong
tất cả cõi Phật khắp hư không pháp giới mười phương ba đời cũng như thế ấy,
trong mỗi niệm tôi đều học tập theo. Như vậy, cõi hư không cùng tận,
cõi chúng sanh cùng tận, nghiệp chúng sanh cùng tận, phiền não chúng sanh cùng
tận, sự tùy học của tôi đây vẫn không cùng tận niệm niệm nối luôn không
hở, ba nghiệp thân, khẩu, ý không hề nhàm mỏi.
Lại này thiện nam tử!
"Nói "Hằng thuận lợi chúng sanh" là như vầy:
Bao nhiêu chúng sanh sai
khác trong tất cả cõi ở mười phương pháp giới, hư không
giới, chính là những loài noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, các loài
nương nơi chất tứ đại mà sanh, có giống nương nơi hư không cùng cây
cỏ mà sanh. Các giống sanh loại: các thứ sắc thân, các thứ hình
trạng, các thứ tướng mạo, các thứ thọ lượng, các thứ tộc
loại, các thứ danh hiệu, các thứ tâm tánh, các thứ tri kiến, các
thứ dục lạc, các thứ ý hành, các thứ oai nghi, các thứ y
phục, các thứ ăn uống, ở trong các thôn dinh, thành ấp,
cung điện, nhẫn đến tất cả Thiên, Long, Bát Bộ, Nhơn, Phi Nhơn v.v...loài
không không chân, loài hai chân, bốn chân, nhiều chân, loài có hình sắc, loài
không có hình sắc, loài có tâm tưởng, loài không có tâm tưởng, loài chẳng phải
có tâm tưởng chẳng phải không tâm tưởng. Các loài như vậy tôi đều tùy
thuận tất cả mà thật hành các sự vâng thờ, cúng dường, như kính
cha mẹ, như thờ bậc thầy, cùng A La Hán, nhẫn đến như đức Như Lai
đồng nhau không khác. Trong các loài ấy, nếu là kẻ có bịnh thì tôi vì
họ mà làm lương y, nếu ai bị lạc đường thì tôi vì họ mà
chỉ cho con đường chánh, nơi đêm tối tôi vì họ mà làm ngọn đuốc sáng,
người nghèo thiếu tôi làm cho được của báu. Bồ Tát bình đẳng lợi ích cho
chúng sanh như vậy.
Vì sao thế? Vì Bồ Tát
nếu có thể tùy thuận chúng sanh, thì chính là tùy thuận cúng dường các đức
Phật. Còn tôn trọng và thừa sự chúng sanh thì chính là tôn trọng và thừa
sự các đức Như Lai. Nếu làm cho chúng sanh vui mừng thì chính là làm
cho tất cả đức Như Lai vui mừng. Vì sao thế? Vì các đức Như Lai
dùng tâm đại bi mà làm thể. Nhơn nơi chúng sanh mà sanh lòng đại bi, nhơn lòng
đại bi mà phát tâm bồ đề, nhơn vì nơi tâm bồ đề mà thành bậc Vô
Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Ví như giữa chốn sa mạc có cây thọ vương to lớn, nơi gốc cây ấy
được nước rưới nhuần, thì cành lá hoa qủa thảy đều sum suê tươi tốt.
Cây thọ vương
Bồ đề ở chốn sá mạc sanh tử rộng lớn cũng như vậy: tất
cả chúng sanh là gốc rễ, Bồ Tát là hoa, Phật là qủa. Dùng nước đại bi
đượm nhuần gốc rễ chúng sanh thì có thể trổ bông Bồ Tát trí
huệ kết thành qủa Phật toàn giác.
Vì sao thế? Bởi các
Bồ Tát dùng nước đại bi làm lợi ích chúng sanh, thì có thể thành tựu
qủa Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Cho nên qủa Bồ Ðề thuộc
về chúng sanh, vì nếu không chúng sanh, tất cả Bồ Tát trọn không
thể thành đạo Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Này thiện nam tử!
Ông ở nơi nghĩa ấy nên hiểu như thế.
Bởi đối với chúng sanh mà
tâm bình đẳng thì có thể sanh lòng đại bi đầy đủ hoàn toàn. Dùng tâm
đại bi mà tùy thuận chúng sanh thì có thể thành tựu pháp cúng dường
Như Lai. Bồ Tát tùy thuận chúng sanh như thế ấy.
Cõi hư không cùng tận,
cõi chúng sanh cùng tận, nghiệp chúng sanh cùng tận, phiền não chúng sanh cùng
tận, sự tùy thuận chúng sanh của tôi vẫn không cùng tận, niệm niệm nối
luôn không hở, thân khẩu, ý ba nghiệp không hề nhàm mỏi.
Lại này thiện nam tử!
"Nói "Hồi hướng khắp tất cả" là như vầy:
Từ sự lễ kính
ban đầu nhẫn đến tùy thuận có bao nhiêu công đức, thảy đều đem hồi hướng cho
tất cả chúng sanh khắp trong hư không pháp giới. Nguyện cho tất
cả chúng sanh thường được an lạc, không các bịnh khổ, muốn thật hành pháp
ác thảy đều không thành, còn tu nghiệp lành thì đều mau thành tựu. Ðóng chặt
cửa của tất cả các ác thú, mở bày đường chánh Nhơn Thiên Niết Bàn.
Nếu các chúng sanh nhơn vì trước kia chứa nhóm các nghiệp ác nên chiêu cảm tất
cả qủa rất khổ, tôi đều chịu thế cho, khiến chúng sanh đều được giải
thoát, rốt ráo thành tựu qủa Vô Thượng Bồ Ðề. Bồ Tát tu hạnh hồi
hướng như vậy. Cõi hư không cùng tận, cõi chúng sanh cùng tận, nghiệp
chúng sanh cùng tận, phiền não chúng sanh cùng tận, sự hồi hướng của tôi
vẫn không cùng tận, niệm niệm nối luôn không hở, thân khẩu, ý ba nghiệp không
hề nhàm mỏi.
Này thiện nam
tử ! Ấy là mười điều nguyện lớn đầy đủ viên mãn của đại Bồ Tát.
Nếu các vị Bồ Tát ở nơi mười điều nguyện lớn này mà tùy
thuận tu hành, thì có thể thuần phục tất cả chúng sanh, thì có
thể tùy thuận đạo Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, thì có thể trọn
đủ các hạnh nguyện hải của ngài Phổ Hiền Bồ Tát. Này thiện nam tử!
Do cớ ấy ở nơi các nghĩa trên đây ông nên hiểu biết
như vậy.
Nếu có thiện nam tử, thiên nữ nhơn dùng bảy món báu thượng diệu và
đồ an lạc tối thắng của Nhơn Thiên, rất nhiều đến nỗi dẫy đầy tất
cả thế giới như số cực vi trong vô lượng vô biên bất
khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật khắp mười phương, đem bố thí
cả cho bao nhiêu chúng sanh trong ngần ấy thế giới, cúng dường
cả cho các đức Phật cùng Bồ Tát trong ngần ấy thế giới trải
qua vô số kiếp như số cực vi trong ngần ấy cõi Phật nối
luôn không dứt, cúng dường bố thí như vậy được bao nhiêu công đức,
đem sánh với công đức của người một phen nghe mười điều nguyện vương này, thì
công đức trước không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, nhẫn đến
cũng không bằng một phần ưu ba ni sa đà của công đức nghe kinh này.
Hoặc có người dùng lòng tin
sâu chắc ở nơi mười điều nguyện rộng lớn này thọ trì đọc tụng,
cho đến biên chép một bài kệ bốn câu, thì sớm có thể dứt
trừ được năm nghiệp vô gián, cả thảy thân bệnh, tâm bệnh,
khổ não trong thế gian, cho đến tất cả các ác nghiệp nhiều
như số cực vi trong cõi Phật đều được tiêu trừ, tất cả các quân
ma, qủi Dạ Xoa, Qủy La Sát, hoặc qủi Cưu Bàn Trà, Tỳ Xá Xà, Bộ Ða
v.v.. các quỷ thần hung ác uống máu ăn thịt thảy đều lánh xa. Hoặc là có
gần đến thì là hạng phát tâm theo hộ trì.
Vì thế nên nếu người
trì tụng nguyện này, thì đi trong thế gian không bị chướng ngại,
như mặt trăng giữa lừng ra khỏi mây mù, các đức Phật, Bồ Tát đều khen
ngợi, tất cả hành Nhơn Thiên đều nên lễ kính, tất cả chúng sanh
đều nên cúng dường. Người thiện nam tử này trọn được thân người, đầy
đủ bao nhiêu công đức của ngài Phổ Hiền, chẳng bao lâu
sẽ như Phổ Hiền Bồ Tát mau được thành tựu sắc thân vi diệu,
đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, nếu sanh ở cõi người hay
trời thì thường ở dòng cao qúy, trọn có thể phá hoại tất
cả đường ác, trọn có thể xa lìa tất cả bạn dữ, trọn có
thể chế phục tất cả ngoại đạo, trọn có thể giải thoát tất
cả phiền não, như sư tử vương dẹp phục bầy thú. Kham lãnh thọ sự cúng
dường của tất cả chúng sanh.
Lại người này lúc lâm
chung, phút cuối cùng, tất cả căn thân đều hư hoại, tất cả thân
thuộc đều phải bỏ lìa, tất cả oai thế đều bị thối thất, cho
đến các quan phụ tướng đại thần, cung thành trong ngoài, voi ngựa xe cộ,
trân bảo kho đụn v.v... tất cả đều không đem một món nào theo được.
Chỉ có mười nguyện vương này chẳng rời người mà thôi. Trong tất
cả thời gian nó thường ở trước dẫn đường, trong khoảnh khắc liền
sanh về cõi Cực Lạc. Ðến Cực Lạc rồi liền thấy đức A Di Ðà Phật cùng các
ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Quán
Tự Tại Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, v.v... các vị Bồ Tát này
sắc tướng đoan nghiêm, công đức đầy đủ chung cùng vây quanh. Lúc bấy
giờ người ấy tự thấy mình gá sanh nơi hoa sen báu, được đức Phật
xoa đầu thọ ký. Sau khi được thọ ký rồi, trải qua vô số trăm ngàn
muôn ức na do tha kiếp, khắp cả mười phương bất khả thuyết bất
khả thuyết thế giới, dùng sức trí huệ tùy theo tâm của chúng
sanh mà làm lợi ích. Chẳng bao lâu sẽ ngồi nơi Bồ Ðề đạo tràng
hàng phục quân ma, thành bực Chánh Ðẳng Chánh Giác giảng nói pháp mầu vì diệu.
Có thể làm cho chúng sanh trong những cõi Phật như số cực vi
trần của chúng sanh mà dạy dỗ cho thành thục, nhẫn đến cùng tận kiếp hải,
có thể làm lợi ích tất cả chúng sanh một cách rộng lớn.
Này thiện nam tử! Các chúng
sanh kia hoặc nghe, hoặc tin nơi nguyện vương rộng lớn này, rồi thọ trì
đọc tụng và giảng nói cho người nghe. Công đức của chúng sanh kia chỉ có
đức Phật Thế Tôn biết, ngoài ra không ai hiểu thấu. Vì thế nên những
người được nghe mười điều nguyện vương này chớ sanh lòng nghi ngờ, nên
phải lãnh thọ, thọ rồi nên đọc, đọc rồi có thể tụng thuộc, tụng thuộc
rồi nên gìn giữ luôn, cho đến biên chép vì người mà giảng nói. Những người
như vậy, trong một niệm tất cả hạnh nguyện đều được thành tựu, được
phước vô lượng vô biên. Có thể ở trong biển khổ phiền não cứu
vớt chúng sanh, khiến chúng được giải thoát, đều được vãng sanh
về thế giới Cực Lạc của đức Phật A Di Ðà.
Lúc bấy giờ, Phổ Hiền
Bồ Tát Ma Ha Tát muốn nói lại nghĩa ấy, Ngài quan sát khắp mười
phương mà nói kệ rằng:
Tất cả chư Phật
trong ba đời
Ở nơi thế giới khắp mười phương
Tôi đem thân ngữ ý trong sạch
Khắp lạy chư Phật không hề sót
Sức oai thần hạnh nguyện Phổ Hiền
Phân thân hiện khắp trước Như Lai
Một thân lại hiện sát trần thân
Mỗi thân lạy khắp sát trần Phật
Sát trần Phật ở trong một trần
Ðều ngồi giữa chúng hội Bồ Tát.
Vô tận pháp giới cũng như vậy
Sâu tin chư Phật đều đầy đủ,
Tôi đều dùng tất cả âm thinh.
Khắp thổ vô tận lời nói hay
Tột tất cả kiếp thưở vị lai
Khen công đức sâu dầy của Phật.
Sắm đồ rất đẹp: nào tràng hoa
Kỹ nhạc, hương, hoa cùng tàn lọng
Các thứ trang nghiêm đẹp như vậy
Tôi dùng cúng dường chư Như Lai.
Nào là y phục, các thứ hương:
Phấn hương, hương xông cùng đèn đuốc
Mỗi món đều như núi Tu Di
Tôi đem cúng dường các đức Phật.
Do nơi tâm thắng giải rộng lớn
Sâu tin tất cả Phật ba đời
Sức oai thần hạnh nguyện Phổ Hiền
Khắp đem cúng dường các đức Phật.
Từ xưa đã tạo nhiều nghiệp ác
Ðều do ba độc tham, sân si
Từ thân khẩu ý mà gây nên
Tất cả nay tôi đều sám hối.
Vô lương công đức của Chư Phật
Của Bồ Tát, Thinh Văn, Duyên Giác
Hữu học, vô học cùng chúng sanh
Tất cả nay tôi đều tùy hỷ.
Các đấng soi đời khắp mười phương
Vừa mới chứng nên đạo Chánh Giác
Tất cả nay tôi đều khuyến thỉnh
Chuyển xe chánh pháp diệu vô thượng.
Chư Phật nếu muốn nhập Niết Bàn
Tôi xin thành tâm đều mời thỉnh
Cúi mong ở lại lâu trong đời
Cho chúng sanh được nhờ lợi lạc.
Bao nhiêu phước đức bởi cúng dường
Ngợi khen, thỉnh pháp, mời trụ thế
Tuỳ hỷ, sám hối các căn lành
Hồi hướng, chúng sanh cùng Phật đạo.
Tôi nay theo học với Như Lai
Tu tập viên mãn hạnh Phổ Hiền
Cúng dường chư Phật về qúa khứ
Cùng với mười phương hiện tại Phật.
Vị lai tất cả Thiên Nhân Sư
Hết thảy tâm nguyện đều viên mãn
Nguyện theo học khắp ba đời Phật
Mau chứng nên qủa đại Bồ Ðề.
Cả thảy cõi cùng khắp mười phương
Rộng lớn thanh tịnh trang nghiêm đẹp
Chúng hội vây quanh các Như Lai
Ðều ở dưới cội Bồ Ðề thọ,
Bao nhiêu chúng sanh trong mười phương
Nguyện lìa lo khổ thường an lạc
Ðều được lợi ích chánh pháp mầu
Dứt hết phiền não không còn thừa.
Khi tôi vì Bồ Ðề mà tu
Trong các loài đều biết túc mạng
Thường được xuất gia tu tịnh giới
Không nhơ không lỗi cũng không hư.
Trời, Rồng, Dạ Xoa, Bàn Trà quỉ
Nhẫn đến loài Người cùng Phi Nhơn
Tất cả ngôn ngữ của chúng sanh
Ðều dùng các tiếng tăm nói pháp.
Siêng tu Ba La Mật trong sạch
Tâm Bồ Ðề hằng gìn không mất
Dứt trừ chướng nhơ không để thừa
Tất cả hạnh mầu đều thành tựu
Ở nơi các hoặc, nghiệp cảnh ma
Trong vòng thế gian được giải thoát
Cũng như hoa sen không dính nước
Nào khác Nhật, Nguyệt chẳng dừng không.
Dứt hết tất cả khổ ác đạo
Khắp đồng ban vui cho quần sanh
Như thế trải qua vô số kiếp
Lợi ích mười phương không cùng tận.
Tôi thường tùy thuận các chúng sanh
Cùng tận tất cả vị lai kiếp
Hằng tu hạnh lớn của Phổ Hiền
Viễn mãn qủa Bồ Ðề Vô Thượng.
Những người cùng tôi đồng một hạnh
Cầu tất cả chỗ chung nhóm họp
Thân khẩu ý nghiệp đều đồng nhau
Hết thảy hạnh nguyện cùng tu học
Các thiện tri thức lợi ích tôi
Vì tôi chỉ bày hạnh Phổ Hiền
Nguyện cùng tôi thường chung hội họp
Ðối với tôi lòng luôn hoan hỷ.
Nguyện thường diện kiến các Như Lai
Và hàng Phật tử vây quanh Phật
Tôi đều sửa sang cúng dường lớn
Tột thưở vị lai không nhàm mỏi.
Nguyện gìn pháp mầu của Như Lai
Rõ bày cả thảy hạnh Bồ Ðề
Rốt ráo thanh tịnh hạnh Phổ Hiền
Trọn kiếp vị lai thường tu tập.
Tôi ở trong tất cả các cõi
Tu phước vô tận, trí vô tận
Ðịnh, huệ, phương tiện và giải thoát
Ðược những tạng vô tận công đức.
Trong một trần có trần số cõi
Mỗi mỗi cõi có nan tư Phật
Mỗi mỗi Phật ở giữa chúng hội
Tôi thấy hằng giảng hạnh Bồ Ðề.
Khắp hết mười phương các cõi nước
Mỗi đầu lông đủ có ba đời
Phật cùng quốc độ số vô lượng
Tôi khắp tu hành trải trần kiếp.
Lời của Như Lai đều thanh tịnh
Một lời đủ cả các âm thinh
Theo tiếng chúng sanh lòng ưa thích
Biện tài của Phật đều ban khắp.
Tất cả chư Phật trong ba đời
Dùng những ngữ ngôn vô tận kia
Hằng chuyển pháp mầu rất lý thú
Nhờ trí sâu tôi đều lãnh thọ.
Tôi hay thâm nhập đời vị lai
Tất cả kiếp thâu làm một niệm
Hết thảy những kiếp trong ba đời
Làm khoảng một niệm tôi đều nhập,
Trong một niệm tôi thấy ba đời
Tất cả các đấng Nhơn Sư Tử
Cũng thường vào trong cảnh giới Phật
Như huyễn, giải thoát và oai lực.
Trong các cực vi đầu sợi lông
Xuất hiện cõi trang nghiêm ba thuở
Mười phương trần sát các đầu lông
Tôi đều thâm nhập để nghiêm tịnh.
Vị lai các đấng Chiếu Thể Ðăng
Thành đạo chuyển pháp độ chúng sanh
Phật sự xong xuôi hiện nhập diệt
Tôi đều đến gần để hầu hạ.
Sức thần thông rộng khắp chóng mau
Sức phổ môn khắp nhập Ðại Thừa
Sức trí hạnh khắp tu công đức
Sức oai thần từ bi khắp che
Sức phước trang nghiêm khắp thanh tịnh
Sức trị huệ không trước không trệ
Sức định, huệ, phương tiện, oai thần
Sức khắp hay chứa đạo Bồ Ðề
Sức thanh tịnh tất cả nghiệp lành
Sức xô dẹp tất cả phiền não
Sức hàng phục tất cả loài ma
Sức viễn mãn các hạnh Phổ Hiền.
Khắp hay nghiêm tịnh các cõi nước
Giải thoát cho hết thảy chúng sanh
Khéo hay phân biệt các pháp mầu
Có thể sâu vào biển trí huệ
Khắp tu thanh tịnh các công hạnh
Các chí nguyện thảy đều viên mãn
Gần gũi cúng dường các đức Phật
Tu hành vô lượng kiếp không mỏi
Tất cả Như Lai trong ba đời
Những hạnh nguyện bồ đề tối thắng
Tôi đều cúng dường tu tập đủ
Dùng hạnh Phổ Hiền ngộ Bồ Ðề.
Tất cả Như Lai có trưởng tử
Danh hiệu Ngài là đức Phổ Hiền
Tôi nay hồi hướng các căn lành
Nguyện các trí hạnh đều đồng đó.
Nguyện thân, khẩu, ý hằng thanh tịnh
Công hạnh cõi nước cùng sạch trong
Trí huệ ấy gọi rằng Phổ Hiền
Nguyện tôi cùng Ngài đề đồng đẳng.
Vì khắp thanh tịnh hạnh Phổ Hiền
Các nguyện lớn của Văn Thù Sư Lợi
Trọn sự nghiệp kia không thừa sót
Ðến kiếp vị lai hằng không mỏi,
Tôi tu các hạnh đều vô lượng
Ðược các công đức cũng không lường
An trụ trong những hạnh vô lượng
Suốt thấu tất cả sức thần thông,
Sức trí mạnh mẽ các Văn Thù
Huệ hạnh Phổ Hiền cũng dường ấy
Tôi nay hồi hướng các căn lành
Thường theo các Ngài mà tu học.
Chư Phật ba đời luôn khen ngợi
Những nguyện rộng lớn khó sánh bằng
Tôi nay hồi hướng các căn lành
Ðể được Phổ Hiền hạnh thù thắng.
Nguyện tôi lúc mạng sắp lâm chung
Trừ hết tất cả các chướng ngại
Tận mặt gặp Phật A Di Ðà
Liền được vãng sanh cõi Cực Lạc,
Tôi đã vãng sanh cõi kia rồi
Hiện tiền thành tựu nguyện lớn này
Cả thảy tròn đủ không thừa thiếu
Lợi lạc tất cả các chúng sanh.
Chúng hội Di Ðà đều thanh tịnh
Tôi từ hoa sen nở sinh ra
Thân thấy đức Phật Vô Lượng Quang
Liền thọ ký tôi đạo Bồ Ðề.
Nhờ đức Phật kia thọ ký rồi
Tôi hóa vô số vạn ức thân
Trí huệ rộng lớn khắp mười phương
Khắp lợi tất cả chúng sanh giới.
Nhẫn đến hư không thế giới tận
Chúng sanh, nghiệp và phiền não tận
Nhưng bốn pháp ấy không cùng tận
Nguyện tôi rốt ráo hằng vô tận
Cõi nước vô biên khắp mười phương
Trang nghiêm các báu cúng dường Phật
Sắm đồ an lạc thí trời người
Trải kiếp vi trần luôn cúng thí,
Nếu có người nơi nguyện vương này
Một phen nghe liền sanh tín kính
Mong cầu khát ngưỡng qủa Bồ Ðề
Ðược công đức nhiều hơn tài thí.
Nhờ đây thường xa các bạn ác
Thoát khỏi tất cả ba đường dữ
Mau thấy đức Phật Vô Lượng Quang.
Ðầy đủ nguyện Phổ Hiền tối thắng.
Người này được thọ mạng lâu dài
Trong loài người ở bậc tôn qúy
Người nay không lâu sẽ trọn nên
Công hạnh như Phổ Hiền Bồ Tát.
Ngày trước đó vì không trí huệ
Tạo ra năm nghiệp vô gián ác
Chuyên tụng nguyện vương Phổ Hiền này
Tất cả tội ác mau tiêu diệt.
Sanh ra dòng họ cùng dung sắc
Tướng tốt, trí huệ đều đầy đủ
Các ma, ngoại đạo không phá được
Kham làm phước điền cho ba cõi.
Mau đến cội Bồ Ðề thọ vương
Ngồi an hàng phục các chúng ma
Thành đạo Chánh Giác nói pháp mầu
Khắp lợi tất cả các hàm thức
Nếu người ở nơi mười nguyện này
Ðọc, tụng, thọ trì và diễn nói
Qủa báo chỉ Phật mới biết được
Quyết định sẽ được đạo Bồ Ðề.
Nếu người tụng nguyện Phổ Hiền này
Tôi nói chút ít phần căn lành:
Trong một niệm thảy đều viên mãn
Thành tựu chúng sanh nguyện thanh tịnh.
Hạnh Phổ Hiền thù thắng của tôi
Phước lớn vô biên đều hồi hướng
Khắp nguyện chúng sanh đang chìm đắm
Mau sanh cõi Phật Vô Lượng Quang.
Lúc ngài Phổ Hiền đại
Bồ Tát ở trước đức Như Lai nói bài kệ hạnh nguyện
thanh tịnh rộng lớn rồi. Thiện Tài đồng tử vui mừng vô lượng, các
Bồ Tát cùng đều hoan hỷ, đức Như Lai khen rằng: "Lành thay! Lành
thay!".
Bấy giờ, lúc đức Thế Tôn cùng hàng Thánh Chúng đại Bồ Tát diễn nói pháp môn thù thắng cảnh giới giải thoát bất khả tư nghì như vậy, ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát làm bậc thượng thủ trong các vị đại Bồ Tát và sáu ngàn thầy Tỳ Kheo của Ngài giáo hóa. Ðức Di Lặc Bồ Tát làm thượng thủ trong các vị đại Bồ Tát ở Hiền Kiếp. Ðức Vô Cấu Phổ Hiền Bồ Tát đứng đầu các bậc nhất sanh trụ quán đảnh vị Bồ Tát, cùng các vị Ðại Bồ Tát đông như số vi trần trong các thế giới ở mười phương khắp đồng đến nhóm hội. Trong hàng đại Thanh Văn thì có ngài Ðại Trí Xá Lợi Phất, ngài Ðại Mục Kiền Liên v.v...làm thượng thủ. Cùng những hàng Trời, Người, các bậc chúa tể trong đời, Bát Bộ, Thiên Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Dà, Nhơn, Phi Nhơn, v.v..tất cả đại chúng nghe Phật thuyết pháp đều rất vui mừng, đồng tín thọ phụng hành.
Comments
Post a Comment