MÃ VINH TỔ
Gắng siêng năng tinh tấn
Tu tịnh nghiệp không nhơ.
Nhân sâu thì quả thật
Dè dặt chớ nghi ngờ!
Các pháp từ tâm sanh
Lại hoàn từ tâm diệt.
Chân tánh nguyên vẫn không
Lấy, bỏ chẳng thể được!
Ngươi đã đôi phần thông
Phật, chúng sanh tâm đồng
Như huyễn tam ma đề
Ví như cảnh trong mộng.
MÃ VINH TỔ
Cư
sĩ Mã Vinh Tổ, tự Trử Lương, quê ở Tú Thủy tinh Triết Giang. Lúc bé ông tỏ ra
có văn tài, lên mười lăm tuổi được bổ vào hàng chư sanh. Cha mẹ mất sớm, Vinh Tổ
thờ kế mẫu rất hiếu cẩn. Đến ba mươi tuổi, ông mang bịnh lạc huyết. Trải năm
năm bịnh càng thêm nặng, ăn vào liền mửa ra.
Có Tăng sĩ Tường Phong, khi chưa xuất
gia là bạn quen với Vinh Tổ ghé viếng thăm. Lúc ấy sư vừa đi tham học trở về,
túc huệ mở sáng, tín giải thông suôt. Vinh Tổ nghe lời sư luận giảng lấy làm lạ,
nhân hỏi đến phương pháp trừ bịnh. Tường Phong đáp: “Bịnh của đạo hữu là do túc
nghiệp, không phải thuốc thang chữa trị được. Nếu đạo hữu có thể buông bỏ muôn
duyên chuyên lòng niệm Phật, lâu ngày công sâu, thì vô minh nghiệp chướng từ vô
lượng kiếp đến nay lần lần dứt sạch. Chừng ấy căn bịnh luân hồi sống chết còn
giải thoát được, huống nữa là thân bịnh nào đáng lo gì!” Vinh Tổ nghe nói giật
mình tỉnh ngộ, bèn thường trai tu tịnh nghiệp. Từ đó bịnh cũng lần lần thuyên
giảm.
Trước thời gian ấy, Mã Vinh Tổ nằm mộng
thấy giữa hư không nổi lên vô số chữ Thọ phóng ánh sáng rực rỡ. Ông duyệt xem
sách Phật thấy nói: A Di Đà dịch là Vô Lượng Thọ, cũng gọi là Vô Lượng Quang. Bấy
giờ nghĩ lại thấy điềm mộng ứng họp, càng tự mừng thầm, cho là mình có túc
duyên với môn Tịnh độ. Kế tiếp ông đọc qua kinh Pháp Bảo Đàn, khế hội được nguồn
tâm, càng thêm nổi vui mừng cảm hối. Sau Vinh Tổ tới chùa Đại Giác Lâm ở Sơn Âm
thọ tam quy ngũ giới, mỗi ngày đều tụng kinh Kim Cang, Di Đà, niệm Phật ba muôn
câu, lại kiêm tu tịnh quán. Lúc rảnh rỗi, cư sĩ lại mời các liên hữu tập hợp tại
nhà, tổ chức niệm Phật suốt ngày đêm.
Niên hiệu Càn Long thứ 56, vào hạ tuần
tháng giêng, Vinh Tổ từ Tô Châu trở về vừa đúng một tháng thì cảm bịnh. Đến đầu
tháng ba cư sĩ đau nằm nơi giường không chỗi dậy được, bảo bạn thân rằng: “Tôi
từ ba mươi lăm tuổi phát lòng Bồ đề, chỉ cầu nghiêm tịnh cõi Phật, lợi ích
chúng sanh, sự vinh hoa của ngôi khanh tướng xem đồng như đôi dép rách. Nay
thân tuy mang chứng trầm kha, song một tâm niệm an vui chưa từng biến cải. Hiện
tại chỉ chuyên giữ chánh niệm, chờ khi mạng chung sanh thẳng về Tây phương mà
thôi!” Một ông bạn hỏi: “Anh mất đi rồi, trong nhà nheo nhóc vài miệng ăn, lấy
ai giúp đỡ?” Cư sĩ đáp: “Đó đều thuộc về duyên phước của mỗi người, sức tôi
không thể kham được!” Tới chiều ngày mười tám, ông bảo: “Ngày mai phải đại sám
hối!” Sáng hôm sau, cư sĩ gắng gượng chỗi dậy mặc áo tràng lễ Phật sám hối, rồi
ngồi hương về phương Tây niệm Phật vài trăm câu, kế quì đọc bài văn phát nguyện
của ngài Liên Trì, mới trở về giường nằm. Ba hôm nữa, lại nói: “Tây phương Tam
Thánh hiện thân ở trước, vì tôi nói pháp. Tôi thường ở trong ánh sáng chói suốt
rực rỡ!” Qua ngày sau lại bảo: “Bồ Tát dùng tịnh thủy rưới nơi thân gội rửa túc
khiên, khiến cho tôi được mát mẻ, sự an vui không thể tả!” Tới chiều, một liên
hữu là Trầm Hồng Điều viếng thăm, hỏi có niệm Phật không, và nhắc bảo đừng nên
trước tướng. Cư sĩ đáp: “Vân niệm, tức tâm tức Phật có chi là trước tướng!” Kế
đó lại tuyệt thực, mỗi ngày chỉ uống vài chén nước trà, hai hôm sau rốt duy uống
nước trong mát mà thôi. Ngày hai mươi chín tháng ba, vào giờ Ngọ, cư sĩ bảo người
nhà rằng: “Đức Phật đã đên tiếp dẫn!” Nói xong liên tiếp niệm Hông danh, rồi nằm
nghiêng bên hữu mà vãng sanh, hưởng dương được bốn mươi tám tuổi. Ông không
con, di chúc cho lập hậu.
Bấy giờ Hòa thượng Tường Phong bế quan tại
Văn Tinh Các ở Tô châu, đang tu môn Niệm Phật tam muội. Mùa đông năm ấy, một
đêm Ngài nằm mộng thấy ba vị vào thất, ngồi ở hướng nam day mặt lại. Trong đó,
chính giữa một vị xuất gia, hai bên là cư sĩ, phong nghi thần thái trang
nghiêm, nơi đầu đều có viên quang bao phủ. Tường Phong đảnh lễ rồi hỏi: “Ba tôn
đức ở đâu lại đây? Vị mặc tăng phục nói: “Chúng ta từ cõi Tây phương đến!” Hòa
thượng lại hỏi: “Có phải chư vị là người ở thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà
chăng?” Vị Tăng đáp: “Phải!” Tường Phong thưa hỏi danh tánh,ba vị không đáp chỉ
hỏi lại: “Ngươi pháp danh là chi?” Hòa thượng đáp: “Đệ tử pháp danh Đạt Văn”. Vị
Tăng bảo: “Sao lại vọng ngữ?” Tường Phong thưa: “Quả đúng như thế không phải vọng!”
Vị Tăng hỏi lại như trước. Hòa thượng cũng đáp y như vậy. Tăng sĩ cũng bảo: “vẫn
còn vọng ngữ!” Tường Phong thưa: “Đệ tử nói thật chẳng phải giả dối, tại sao
tôn đức lại bảo rằng vọng ngữ?” Vị Tăng nói: “Tất cả chúng sanh lấy vọng làm
chân, chấp giả làm thật, nên mới bị luân hồi. Nếu bậc có trí, biết muôn pháp đều
là hư vọng giả danh, thì không còn luân chuyển. Ngươi chớ tự mê muội để lạc mất
chân tâm. Nên hiểu chân tâm không tâm, chân tri không biết, có hiểu biết tức là
ma. Đức Phật là đấng linh tri vô tri, ngươi nên tin nhận chớ đem lòng nghi hoặc!”
Sau lời ấy, Tường Phong bỗng khai ngộ liền thưa: “Lời của tôn đức dạy, chính thật
là pháp Phật không thể nghĩ bàn! Tôn đức từ cõi Cực lạc đến, dám xin hỏi: đã tường
thấy Phật A Di Đà chăng?” Vị bên tả đáp: “Nếu ta nói với ngươi, chưa chắc ngươi
đã tin. Phải tự mình trông thấy mới được!” Kế đó cả ba đồng đứng dậy, mỗi vị đều
vỗ nơi đầu Tường Phong một cái, và lần lượt nói kệ rằng:
Gắng siêng năng tinh tấn
Tu tịnh nghiệp không nhơ.
Nhân sâu thì quả thật
Dè dặt chớ nghi ngờ!
Các pháp từ tâm sanh
Lại hoàn từ tâm diệt.
Chân tánh nguyên vẫn không
Lấy, bỏ chẳng thể được!
Ngươi đã đôi phần thông
Phật, chúng sanh tâm đồng
Như huyễn tam ma đề
Ví như cảnh trong mộng.
Thuyết kệ vừa xong, bỗng thấy Mã Vinh Tổ
nghiêm chỉnh oai nghi, đảnh lễ ba vị. Cả ba liền vượt lên hư không hướng về Tây
bay đi. Lúc ấy không trung nổi lên âm nhạc rền vang, tiếng niệm Phật bổng trầm
thanh thoát. Vinh Tổ lại hướng về Tường Phong lễ ba lạy rồi thưa: “Nhờ đại đức
khuyên tôi tu tịnh nghiệp, quy y Tam bảo, nên đã hân hạnh được sanh về Tây
phương, thọ sự an vui lợi ích lớn. vì thế tôi thỉnh cầu Bồ Tát đến đây diễn nói
diệu pháp, để đền đáp thâm ân!” Nói xong đảnh lễ giã từ ba lạy nữa, rồi chắp
tay niệm Phật bay về Tây phương. Vừa khi ấy tiếng chuông khuya nổi lên, Tường
Phong giật mình thức giấc. Hòa thượng vội lấy giấy bút ghi lại điềm ấy, gọi là
Kỷ Mộng Thiên.
Về sau Tường Phong hòa thượng ẩn tu nơi
viện Phước Thành tại Lũ Giang. Khi lâm chung dự biết trước ngày giờ, ngồi niệm
Phật mà thoát hóa.
LỜI BÌNH: -Trước Cận Đường mượn duyên giáng đàn để khuyên đồng bạn. Nay Trử Lương lấy việc ứng mộng mà đáp thâm ân. Như thế, ai gọi khi sanh về An dưỡng là vắng bặt không tin tức đâu! Tuy nhiên, với kẻ cơ duyên chưa thuần, thì chẳng thể nhất khái đều đồng lệ được!
Comments
Post a Comment