LAN ĐÀI
Lên xuống luân hồi mãi khổ đau
Kiếp trần giải thoát biết chừng
nào?
Ân cần sám lễ đài sen ngọc
Bất giác thương tâm lệ rạt rào!
Gió nghiệp đưa người khó tự do
Huyễn duyên vẫn khởi mối buồn lo!
Nạn tai ma bịnh thay đòi lớp
Gần chót hương mình chẳng sớm tu!
Đã hay sắc tưởng vẫn hư không
Muôn kiếp tham si chửa dễ trừ
Xét kỹ chi bằng chuyên niệm Phật
Sáu căn thâu nhập chẳng cò dư.
Ruổi dong khéo tính vẫn thua nhàn
Hơi thở mạng người sớm liệu toàn!
Còn ngại tu hành sai đạo chánh
Đường mê vạn nẻo tối mênh mang.
Tịnh quán ngồi lâu bóng nhật tà
Cảm thông Cực Lạc lộ không xa
Mười năm lãng tử lìa quê cũ
Một niệm hồi quang thấy cảnh nhà.
Rừng thưa gió lọt nỗi tiêu cầm
Chim hót đầu cành điệu nhã âm.
Trăm tám Bồ đề ngày tháng niệm
Giống sen mười trượng chẳng căn
thâm.
Tâm niệm nối tiếp niệm Di Đà
Muôn việc phù vân mặc chảy qua.
Đâu đợi mãn phần về tịnh cảnh
Hiện tiền thân đã thoát Ta Bà.
Trần chướng khi tan hiện pháp thân
Hồ thu nguyệt lặng sáng trong ngần!
Bể âm thanh rộn ba ngàn cõi
Một niệm nghe vào dứt biệt phân.
Sáu chữ trừ mê, giác cũng không
Niệm tâm niệm Phật, Phật tâm đồng.
Ngàn đời phiền não tiêu tan sạch
Tô Lạc, dương chi thắm mát lòng!
Trời người phước tạm sẽ không còn
Xin phát Bồ đề thệ sắt son.
Nguyện lớn Phổ Hiền đầy pháp giới
Chưa sanh Cực Lạc dễ chi tròn!
Bát ngát sen thơm khắp một phương
Buông tay phút chốc lại hoàn hương
Xương Lê chẳng biết đường tây độ
Luống phụ năm xưa Thập nhị lang!
LAN ĐÀI
Lan Đài là biệt hiệu của cư sĩ Bành Hy Tốc,
tự Lạc Viên. Ông ở huyện Nguyên Hòa tại Tô Châu, vốn là cháu họ của Bành Nhị
Lâm cư sĩ. Năm hai mươi sáu tuổi, ông đỗ Hương thí. Từ bé Lan Đài đã thích ăn
chay, đến tuổi thành đồng liền trường trai được năm năm. Kế đó bị bịnh lạc huyết,
mới trở lại dùng mặn. Nhưng do nhân duyên đau bịnh, Lan Đài phát tâm tín hướng
Phật thừa, giữ lục trai, hằng tụng kinh Hoa Nghiêm. Mỗi ngày ông đều niệm Phật
cầu vãng sanh, dù trong cảnh xe thuyền đi xa cũng chưa từng quên bỏ. Cư sĩ từng
làm mười bài thi Hồi hướng như sau:
I
Lên xuống luân hồi mãi khổ đau
Kiếp trần giải thoát biết chừng
nào?
Ân cần sám lễ đài sen ngọc
Bất giác thương tâm lệ rạt rào!
II
Gió nghiệp đưa người khó tự do
Huyễn duyên vẫn khởi mối buồn lo!
Nạn tai ma bịnh thay đòi lớp
Gần chót hương mình chẳng sớm tu!
III
Đã hay sắc tưởng vẫn hư không
Muôn kiếp tham si chửa dễ trừ
Xét kỹ chi bằng chuyên niệm Phật
Sáu căn thâu nhập chẳng cò dư.
IV
Ruổi dong khéo tính vẫn thua nhàn
Hơi thở mạng người sớm liệu toàn!
Còn ngại tu hành sai đạo chánh
Đường mê vạn nẻo tối mênh mang.
V
Tịnh quán ngồi lâu bóng nhật tà
Cảm thông Cực Lạc lộ không xa
Mười năm lãng tử lìa quê cũ
Một niệm hồi quang thấy cảnh nhà.
VI
Rừng thưa gió lọt nỗi tiêu cầm
Chim hót đầu cành điệu nhã âm.
Trăm tám Bồ đề ngày tháng niệm
Giống sen mười trượng chẳng căn
thâm.
VII
Tâm niệm nối tiếp niệm Di Đà
Muôn việc phù vân mặc chảy qua.
Đâu đợi mãn phần về tịnh cảnh
Hiện tiền thân đã thoát Ta Bà.
VIII
Trần chướng khi tan hiện pháp thân
Hồ thu nguyệt lặng sáng trong ngần!
Bể âm thanh rộn ba ngàn cõi
Một niệm nghe vào dứt biệt phân.
IX
Sáu chữ trừ mê, giác cũng không
Niệm tâm niệm Phật, Phật tâm đồng.
Ngàn đời phiền não tiêu tan sạch
Tô Lạc, dương chi thắm mát lòng!
X
Trời người phước tạm sẽ không còn
Xin phát Bồ đề thệ sắt son.
Nguyện lớn Phổ Hiền đầy pháp giới
Chưa sanh Cực Lạc dễ chi tròn!
Nhị Lâm cư sĩ thấy quyển Vãng Sanh Tập của
ngài Vân Thê, sự và lời đều quá giản lược, muốn gom tìm lại những di tích vãng
sanh xưa nay viết đầy đủ hơn để in ra. Lan Đài vui vẻ lãnh trách nhiệm phụ
giúp, cùng vợ là Cố thị ra công sưu tầm, biên thành chín quyển lấy tên là Tịnh
Độ Thánh Hiền Lục, cho khắc bản để lưu hành. Cư sĩ lại tự tay tả một bộ kinh
Pháp Hoa gần trọn năm mới xong. Ngày mùng ba tháng mười niên hiệu Càn Long thứ
58, ông bị bịnh rét thêm kiết lỵ rất trầm trọng. Biết mình khó thoát qua, cư sĩ
từ trong phòng lần đi đến giường nằm của thân mẫu, không đề cập đến việc nhà,
chỉ khuyên mẹ niệm Phật và nói: “Xin cố gắng tinh tấn, ngày kia sẽ gặp nhau ở
Tây phương!” Ba hôm sau, trước khi mãn phần, ông cho mời Trừng Cốc hòa thượng đến
nhà, cầu thọ tam quy ngũ giới và khẩn thiết phát nguyện sám hối. Cư sĩ tự nói:
“Trong vài bữa trở lại đây, tôi được tịnh niệm hiện tiền, cành sen nơi bảo trì
đã chắc có phần vin nắm!” Sáng sớm ngày mười ba, Lan Đài bảo người nhà dời giường
nằm hướng về phương Tây, trước mặt thiết tượng Phật tiếp dẫn. Cư sĩ lại cho thỉnh
Trừng Cốc hòa thượng đến và thưa: “Xin nhờ thầy xưng Hồng danh và trợ niệm cho
con!” Rồi nằm nghiêng bên hữu niệm lâm râm niệm Phật theo, đến chiều tối mới
qua đời. Lúc ấy mùi hương lạ bay đầy nhà, ông mới vừa ba mươi ba tuổi. Nhị Lâm
cư sĩ đến phúng điếu, đề tặng bài thi rằng:
Bát ngát sen thơm khắp một phương
Buông tay phút chốc lại hoàn hương
Xương Lê chẳng biết đường tây độ
Luống phụ năm xưa Thập nhị lang!
Cố thị tên Uẩn Ngọc, cũng sớm thông tuệ,
giỏi về thi văn. Năm hai mươi chín tuổi cô mang bịnh. Ngồi kiết già niệm Phật
mà vãng sanh.
Hàn Tương Tử khi xưa, nguyên là cháu của vua Hàn Xương Lề tức là Hàn Dũ, tu tiên đắc đạo. Tương Tử thứ mười hai, nên cũng gọi là Hàn THẬP NHỊ LANG. Biết
chú mình sẽ mắc nạn, muốn cảnh giác trước để khuyên Hàn Dũ tu hành. Tương Tử đến nhà chơi, múc một chậu nước và làm phép. Giây phút nơi chậu mọc lên mười bốn cánh hoa, mỗi đóa đều có chữ, góp lợi thành hai câu thi: “Văn hoanh Tần lánh gia hà tại? Tuyết úng lam quan mã bất tiềnl” Sau Hàn Dũ bị đày xa đến vùng đất Thục, ngoảnh lại thấy mây giăng ngang đỉnh núi Tần, không nhìn biết quê nhà ở đâu. Trông tới trước thì tuyết phủ mờ biên ải, ngựa bị lạnh cóng chân không tiến bước được. Nhớ lợi hai câu thi trước, nghiễm nhiên đúng với hoàn cảnh hiện thời, ông bỗng bàng hoàng hối hận!
Comments
Post a Comment