44. 悉tất 唎rị 悉tất 唎rị
_________________________________
能năng 觀quán 之chi 智trí 所sở 觀quán 境cảnh
The wisdom that contemplates and the states that are contemplated
圓viên 融dung 自tự 在tại 真chân 如như 性tánh
Are perfectly fused and at ease in the Nature of True Suchness.
無vô 邊biên 誓thệ 願nguyện 利lợi 眾chúng 生sanh
Boundless resolve and vows benefit all living beings.
不bất 可khả 思tư 議nghị 常thường 在tại 定định
How inconceivable to be able to always reside in deep Samadhi!
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
(Trong Kinh Bi Hoa, về kiếp quá khứ, thuở đời Phật Bảo Tạng, khi đức A Di Đà còn làm Luân Vương, thì Bồ Tát làm vị Thái Tử thứ nhất của Ngài, hiệu là Bất Thuấn. Lúc Thái Tử đối trước đức Bảo Tạng phát đại nguyện rồi, Phật liền ban cho danh hiệu là Quán Thế Âm. Hiện tại, Bồ Tát ở cõi Cực Lạc phụ giúp Phật A Di Đà mà hoằng hóa và tiếp dẫn chúng sanh. Về sau, Bồ Tát kế vị đức A Di Đà mà thành Phật, hiệu là Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Sơn Vương Như Lai; thế giới Cực Lạc đổi tên lại là Nhất Thiết Trân Bảo Sở Thành Tựu. Về phần nhân hạnh quả đức cùng sự ứng hóa của Bồ Tát, trong kinh Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, và Đại Bi có nói đến).
Kinh Đại Bi Đà La Ni nói: “Nếu chuyên xưng danh hiệu và cúng dường đức Bổn Sư ta là Phật A
Di Đà, thì sẽ được vô lượng phước, tiêu trừ vô lượng tội, khi mạng chung lại được
vãng sanh về cõi Cực Lạc. Bấy giờ đức Như Lai đưa tay tiếp dẫn và xoa đầu kẻ ấy
mà bảo rằng: “Người đừng sợ hãi, vì đã được sanh về nước ta”.
Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Thọ Ký nói: “Kẻ nào phát lòng vô thượng Bồ Đề, nguyện sanh về Cực Lạc, đều được
thấy cõi ấy, lại thấy Phật A Di Đà cùng các hàng Bồ Tát và Thanh Văn. Người đó
thấy như thế rồi, vui mừng khấp khởi, xướng lên rằng: “Nam Mô A Di Đà Như Lai, Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri!” Bấy giờ trong pháp hội có 84.000 chúng sanh đều phát
lòng Bồ Ðề, nguyện trồng căn lành để được vãng sanh về Cực Lạc.
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT HIỂN THÁNH
Trích ở “Tống Cao Tăng truyện”
và “Phật Tổ Thống Ký”
Đời Đường, thời vua Trung Tôn, ngài Thích Huệ
Nhựt thấy Pháp sư Nghĩa Tịnh sang Tây Vực cầu
pháp, lòng mộ lắm.
Ngài bèn ngồi thuyền vượt biển, ba năm sau mới đến Thiên
Trúc (Ấn Độ), rồi lần lượt đi lễ ở các nơi di tích của Đức
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, và thỉnh Kinh chữ Phạn.
Ngài Huệ Nhựt từ lúc ở xứ nhà đến khi
sang Thiên Trúc mục kích nhiều cảnh đau khổ của loài
người, mà chính ngài cũng tự trải lắm sự gian lao.
Vì thế, ngài mới suy nghĩ : nước nào, cõi
nào chỉ thuần vui mà không khổ ? Pháp nào hạnh nào đặng mau thấy Phật ? Rồi
ngài đem vấn đề ấy thỉnh hỏi gần khắp các bậc danh đức ở Thiên
Trúc. Các bậc danh đức đồng chỉ cõi Tây phương Cực Lạc thế
giới, và đồng khuyên nên tu Pháp môn Tịnh độ. ngài Huệ Nhựt liền
kính vâng lời các danh đức khuyên dạy mà chuyên niệm
Phật.
Sau đó ít lâu, ngài đi đến nước Kiền Đà La ở
Bắc Ấn. Phía Đông Bắc thành vua có dãy núi lớn. Trên núi có tượng đức Quan
Thế Âm Bồ Tát, hễ ai chí thành cầu nguyện thời thường được
thấy Bồ Tát hiện thân.
Ngài bèn lên núi kính lạy bảy ngày đêm, rồi tuyệt
thực, thệ : Nếu không được thấy Bồ Tát thời thà chết tại chỗ
ấy.
Đến đêm thứ bảy, trên hư không đức Quan
Thế Âm Bồ Tát hiện thân vàng tử kim, cao hơn một trượng, ngự
trên tòa sen báu, quang minh sáng chói. Bồ
Tát thòng tay xuống xoa đầu ngài Huệ Nhựt mà bảo rằng :
“Ông muốn truyền pháp để độ mình độ người,
thời nên chuyên niệm Tây phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật và phát
nguyện vãng sanh. Lúc về Cực Lạc thấy Phật và ta thời được lợi
ích lớn. Ông nên biết rằng Tịnh độ pháp môn hơn tất cả hạnh
khác”.
Bồ Tát phán dạy xong liền ẩn.
Ngài Huệ Nhựt vì tuyệt thực đã bảy
ngày, nên đêm đó khí lực đã mòn, nhưng sau khi được Bồ Tát xoa đầu
và nghe lời dạy bảo, thân thể ngài bỗng trở nên cường
tráng, tinh thần minh mẫn.
Sau rồi ngài chở Kinh tượng đã thỉnh được đem về bổn
quốc. Bận về này, ngài đi đường núi. Tính ra từ ngày đi đến khi về đến nước, mất
hết 18 năm, đi được hơn bảy mươi nước.
Năm Khai Nguyên thứ 7, về đến Trường An, ngài vào
triều dâng tượng Phật và kinh chữ Phạn.
Từ đó, ngài chuyên cần tu tịnh nghiệp,
truyền hóa hưng thạnh một thời. Triều đình phụng hiệu là Từ Mẫn Tam Tạng Pháp
Sư.
Nhờ ngài dẫn đạo, người niệm Phật được
chứng Tam muội và được vãng sanh rất đông.
Ngài có biên tập bộ “Vãng sanh Tịnh độ” khắc
truyền trong đời.
Năm Triều Hữu thứ 7, giờ ngài viên tịch, đại
chúng đồng thấy hoa sen sáng rỡ như mặt trời hiện
ra trước chỗ ngài ngồi.
27.- BỒ TÁT QUÁN TỰ TẠI
Này thiện nam tử ! Ta chỉ được môn Bồ Tát “ĐẠI BI HẠNH” này.
Hôm nay là buổi thuyết
giảng thứ 107 về kinh Hoa Nghiêm tại chùa này.
Trong lần trước, chúng
tôi đã đi đến vị thiện tri thức thứ 25 là ngài Bà Tu Mật Đa.
Nhân thể, tôi cũng xin
nói thêm về trường hợp của Bà Tu Mật Đa để quý vị có một ý nghĩ rõ ràng về một
vấn đề rất phiền toái và hóc búa, nó khiến cho nhiều kẻ tu hành vấp phải, và
rơi rụng lả tả như cách hoa đào. Đó là về vấn đề tình dục nam nữ, một vấn đề
hiện giờ rất mập mờ trong nhiều tôn giáo. Có một số tôn giáo chủ chương dùng
tình dục để đi vào đạo, dùng tình dục để đi đến giải thoát?! Ngay người Tây
Tạng cũng vậy, họ có một “phái tay trái” và họ dùng “hành
dục ấn,” tức là sự chung đụng nam, nữ để tiến tới giác ngộ. Quí vị có
thể đọc những sách của vị Đạt Lai Lạt Ma cũng nói đến chuyện đó.
Ông nói rằng, “hành
dục ấn” thì có thật, nhưng không dùng trực tiếp với người nữ ở ngoài
mà dùng người nữ ở bên trong, (internal woman), tức là hành
giả tưởng tượng ra một vị nữ nhân trong tâm thức rồi hành lạc với vị đó, dùng
việc ấy để đi đến giải thoát. Nhưng tất cả những điều đó, theo tôi nghĩ, chỉ
toàn là tà kiến thôi, vì thực ra, nếu nghĩ cho cùng thì tất cả những chủ trương
quanh co đó chỉ vì người tu hành vẫn nuối tiếc khôn nguôi cái Dục Giới này mà
thôi, chứ thực tu thì phải siêu quá Dục Giới và chuyện tình dục. Vì sao? Vì
khoái lạc nam nữ là một thứ khoái lạc phù du, nhơ nhớp, hệ lụy ở mức độ thô
kệch thấp nhất, tức là sắc ấm. Con đường tu chỉ là phải vượt những khoái lạc
thô kệch phù du, để đạt tới những miền an lạc của tâm linh, miên viễn, không hệ
lụy. Cường độ của an lạc này còn vượt gấp trăm ngàn lần niềm khoái lạc nam, nữ.
Cũng bởi thế, nên những bậc tu hành cao có thể sống một mình trong rừng sâu chỉ
để chìm trong những cơn an lạc của định. Tóm lại, cửa ải Dục Giới rất khó vượt,
kẻ tu hành thường bị rơi rụng lả tả vì cửa ải này, và Ma Vương chỉ rình họ có
kẽ hở để có cơ hội lọt vào thôi.
Nhân loại hiện nay chết
chìm trong cơn cuồng vọng khoái lạc của thể chất, và không mấy tin về niềm An
lạc kỳ diệu của tâm linh. Nhưng chính tâm linh là một GIỒNG SUỐI AN LẠC VÔ TẬN
mà không mấy ai biết đến… Bởi vậy, phải ly sắc ấm và niềm khoái lạc ấy mới có
thể nếm mùi An Lạc trong nhị thiền, tam thiền của thọ ấm và tưởng ấm. Rồi lại
ly để bước vào niềm An Lạc vi diệu KHÔNG THỌ của Niết Bàn tịch tĩnh. Rồi lại LY
để bước lên niềm DIỆU LẠC VÔ ĐỘNG trong biển Đại Tịch Diệt của Chư Như Lai.
Đồng thời tăng trưởng đến vô cùng tận sức ĐẠI TỰ TẠI LỰC để biến hóa độ sanh.
Cho nên tất cả những
phái gọi là … “tân tăng” đều chỉ là những kẻ hoa ngôn, xảo
ngữ, đều rớt vào tà đạo, cõi của Ma Vương mà không hay biết. Hoặc có hay, biết
thì vẫn mập mờ đánh lận con đen, và rất sợ ĐỌC KINH LĂNG NGHIÊM… Vì sao thế?! Vì
nếu còn máu mủ tinh huyết bầy nhầy thì làm sao có thể đạt tới những tầng lớp
sâu kín của tâm linh được? Vì vậy, nên Bồ Tát Bà Tu Mật Đa mới phải thị hiện
làm dâm nữ cốt rửa sạch “ly tham dục tế” cho chúng sanh. Trong
kinh hay nói ẩn, nên có nhiều người đọc kinh hay ngộ nhận. Như nói ngài Duy Ma
Cật có vợ con, hay nói đến BàTu Mật Đa, hoặc trong kinh Đại định Thủ Lăng
Nghiêm, có vị Bồ Tát đắc được như huyễn tam muội rồi, ngài lên chơi cung Ma
thuyết pháp cho mấy trăm ma nữ nghe, trong kinh có kể ngài “du hí” với
các ma nữ ấy v.v…, nên rất nhiều người ngộ nhận nghĩ rằng có thể chung đụng với
người nữ được (vì trong kinh nói rõ thế mà!). Đó là một sự lầm
lẫn rất lớn. Vì sự “du hí” ấy, đó không phải là du hí thường
theo lối nam nữ của thế gian này, mà là du hý trong tam muội và tâm linh để thị
hiện độ sanh mà thôi.
Ngày xưa, ngài Song
khapa là vị trưởng môn của một phái Tây Tạng, ông từ chối lối tu
theo “hành dục ấn,” vì đó không phải đường lối đi đến giải
thoát. Vì vậy nên hiểu rằng xúc giác rất ghê gớm, ít người có thể vượt nổi. Còn
trong kinh nói đến những chuyện thị hiện lại khác nữa, như ngài Bà Tu Mật Đa
chỉ có cầm tay, nháy mắt thôi và không có đến việc gần gũi nam nữ, xuất tinh
v.v… Những điểm này từ xưa ít có ai dám nói, nên ta phải phân biệt rõ sự đúng
sai để có thể tiến tu.
BÂY GIỜ XIN ĐI VÀO VỊ
THIỆN TRI THỨC THỨ 27.
Diễn Giảng
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng
Ngày 29 tháng 4 năm 1990
KINH: Này thiện nam
tử phương nam đây có tòa núi tên là Bổ Đặc Lạc Ca. Núi ấy có Bồ tát tên Quán Tự
Tại. Ngươi nên đến hỏi bồ tát thế nào học bồ tát hạnh, tu bồ tát đạo. Cư Sĩ
liền nói kệ rằng:
Trên biển có núi tên
Thánh Hiền
Châu báu làm thành rất thanh tịnh
Hoa quả rừng cây đều sung mãn.
Suối chảy, ao mát đều đầy đủ
Dũng mãnh trượng phu Quán Tự Tại
Vì độ chúng sanh ở núi này
Ngươi nên đến hỏi các công đức
Bồ tát sẽ dạy đại phương tiện.
GIẢNG: Đặc biệt với ngài Quán Thế Âm thì Cư Sĩ Tỳ Sắc Chi La
lại nói bài kệ, vì ngài Quán Thế Âm cao siêu quá, ngài Quán Thế Âm không phải
là đại thiện tri thức mà là đại đại thiện tri thức. Nhưng tuy thế, khi Thiện
Tài đến gặp ngài Quán Thế Âm, ngài lại dạy rất đơn sơ, bình dị, không có gì ghê
gớm cả, rồi sau đó, chỉ sang người khác dạy bảo bí quyết của mình, về nhiều vị
thiện thức khác, kinh tả những y báo rất lộng lẫy đẹp đẽ nhưng đến ngài
Quán Thế Âm lại rất đơn sơ.
KINH: Thiện Tài đi
lần đến núi Phổ Đà tìm bồ tát Quán Tự Tại. Trong gành đá phía tây, suối chảy
lóng lánh, rừng cây rậm rợp, cỏ thơm mềm nhuyễn trải mặt đất. Đức Quán Tự Tại
Bồ Tát ngồi kiết già trên tảng đá Kim Cương Bửu, chung quanh có vô lượng bồ tát
cũng ngồi trên bửu thạch. Bồ tát Quán Tự Tại vì chúng bồ tát mà tuyên nói pháp
đại từ bi, khiến nhiếp thọ tất cả chúng sanh. Thiện Tài xem thấy vui mừng hớn
hở, chắp tay nhìn kỹ, mắt không nháy tự nghĩ rằng: Thiện tri thức là Như
Lai, thiện tri thức là mây tất cả pháp…
GIẢNG: Trong kinh tả khi Thiện Tài đến chỗ Quán Tự Tại bồ tát
thì tả vườn tược v.v… một cách rất đơn sơ, “rừng cây rậm rạp, cỏ thơm
mềm nhuyễn v.v…” vì ngài cao quá không cần phải nói đến những thứ ấy.
Sau một cuộc tiếp xúc ngắn ngủi, ngài Quán Thế Âm lại chỉ đến một vị thiện tri
thức khác lạ, vị đó lại giải thích cho Thiện Tài nghe bí quyết của bồ tát Quán
Thế Âm và của bồ tát giới. Tuy ngài Quán Thế Âm nói đơn sơ nhưng trong đó cũng
có nhiều ý nghĩa ghê gớm, ẩn mật. Chúng ta nhớ lại những vị thiện tri thức
trước, như bà Hưu Xả, hoặc ngài Bất Động Ưu Bà Di, hay ngài Từ Hạnh, hoặc ngài
Sư Tử Tần Thân v.v.. đều có quyến thuộc hay đồng nữ, thể nữ đứng hầu chung
quanh rất nhiều nhưng ở đây lại không nói như thế mà nói đơn sơ, nói
đến những vị chung quanh, nói rằng có vô lượng bồ tát cùng ngồi trên bửu thạch,
vậy thì sự khác nhau giữa đồng nữ đứng hầu và vô lượng Bồ Tát vây quanh chỗ
nào? Trong kinh, chữ nào cũng đều mang theo một nghĩa ẩn, có rất nhiều vẻ. Đồng
nữ có hai nghĩa, nghĩa ngoài thì có đồng nữ hầu thật, nghĩa trong thì tượng
trưng cho cái hạnh của người tu. Như tu theo hạnh bố thí, tu lâu thì hạnh đó
trở thành một diệu đức, rồi từ diệu đức ấy dần dần trở thành diệu lực, diệu đức
và diệu lực gọi là đà la ni, tức là một khả năng của tâm thức. Tu lên cao nữa
thì từ mức độ phi thần hóa chuyển thành một thứ thần hóa, tức thành một vị bồ
tát hóa thân để đi độ sanh. Nên chúng ta phải hiểu mức độ cô đọng của tâm vô
hình tướng chuyển thành thân có hình tướng. Đi từ chỗ phi thần hóa đến chỗ thần
hóa. Tất cả pháp giới đều như thế. Tóm lại, ngài Quán Thế Âm cao quá rồi, khả
năng tâm thức của ngài không còn là những diệu đức và diệu lực nữa, mà đã trở
thành Vô tác diệu lực. Diệu lực thường chiêu cảm bên ngoài có đồng nữ đứng hầu
(hơi giống thế gian). Còn Vô tác diệu lực lại chiêu cảm thành vô lượng Bồ Tát
hóa thân bời bời độ sanh. Vì vậy trong kinh, ta cần để ý và hiểu từng chữ một,
đến khi hiểu nghĩa rồi mà không thấy vướng thì lúc đó mới gọi là hiểu kinh.
KINH: Bồ tát thấy
Thiện Tài nói: “Lành thay thiện nam tử, ngươi phát tâm đại thừa nhiếp
khắp chúng sanh. Ngươi khởi tâm chánh trực chuyên cầu phật pháp. Ngươi có đại
bi thâm trọng cứu hộ tất cả. Phổ Hiền diệu hạnh nối tiếp hiện tiền…”
GIẢNG: Ngài Quán Thế Âm cũng khác với những vị khác. Đối với
các vị thiện tri thức khác, khi Thiện Tài hỏi thì các ngài mới trả lời, còn
ngài Quán Thế Âm thì cao quá, Thiện Tài không cần phải hỏi, ngài đã tiếp dẫn
luôn. Nhưng sau đó, Thiện Tài cũng hỏi thì ngài Quán Thế Âm nói rằng, “ta tu
đại bi hạnh giải thoát môn. Ta dùng ái ngữ lợi hành, dùng bố thí, đồng sự v.v…
để nhiếp thủ…” Tất cả cũng giống như trong Phổ Môn đã nói không có gì khác lạ.
Nhưng có chỗ hay nhất là ngài chỉ cho Thiện Tài đến gặp vị chánh Thụ bồ tát.
Trong kinh tả rất lạ, vị này từ đâu đến mà kinh chỉ nói có mấy chữ thôi (Bồ Tát
lấy chân ấn đất), nói về việc khởi vọng, vì sao khởi vọng, tại sao hiện được
thần thông…, ngài sẽ giải hết những bí quyết của ngài Quán Thế Âm là đại bồ tát
biến hiện ra sao, chúng sanh khởi vọng ra sao?!
ĐẠI
PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA
NGHIÊM KINH
Phẩm
Nhập Pháp Giới
Thứ ba
mươi chín
Hán Dịch:
Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà
Việt Dịch:
Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
27.- BỒ TÁT QUÁN TỰ TẠI
Lúc đó, Thiện Tài đồng tử
nhất tâm tư duy lời dạy của Cư sĩ. Nhập tạng Bồ Tát giải thoát ấy. Ðược suất Bồ
Tát tùy niệm ấy. Thọ trì thứ lớp danh hiệu của chư Phật ấy. Quán sát diệu pháp
của chư Phật ấy nói. Biết chư Phật ấy đầy đủ trang nghiêm. Thấy chư Phật ấy
thành Ðẳng Chánh Giác. Rõ bất tư nghì nghiệp của chư Phật ấy.
Thiện Tài đi lần đến núi
Phổ Ðà tìm BỒ TÁT QUÁN TỰ TẠI.
Trong gành đá phía Tây,
suối chảy lóng lánh, rừng cây rậm rợp, cỏ thơm mềm nhuyễn trải mặt đất.
Ðức Quán Tự Tại Bồ Tát ngồi
kiết già trên tảng đá kim cang bửu. Xung quanh có vô lượng Bồ Tát cũng ngồi
trên bửu thạch.
Bồ Tát Quán Tự Tại vì chúng
Bồ Tát mà tuyên nói pháp đại từ bi, khiến nhiếp thọ tất cả chúng sanh.
Thiện Tài xem thấy vui mừng
hớn hở, chắp tay nhìn kỹ, mắt không nháy, tự nghĩ rằng :
Thiện tri thức là Như Lai.
Thiện tri thức là mây tất cả pháp. Thiện tri thức là tạng công đức. Thiện tri
thức rất khó gặp. Thiện tri thức là nhơn duyên sanh Thập lực. Thiện tri thức là
đuốc trí vô tận. Thiện tri thức là mầm gốc phước đức. Thiện tri thức là cửa
Nhứt thiết trí. Thiện tri thức là trí hải Ðạo Sư. Thiện tri thức là công cụ trợ
đạo đến Nhứt thiết trí.
Nghĩ xong, Thiện Tài đến
chỗ Quán Tự Tại Bồ Tát.
Bồ Tát thấy Thiện Tài liền
nói :
Lành thay thiện nam tử !
Ngươi phát tâm Ðại thừa nhiếp khắp chúng sanh. Ngươi khởi tâm chánh trực chuyên
cầu Phật pháp. Ngươi có đại bi thâm trọng cứu hộ tất cả. Phổ Hiền diệu hạnh nối
tiếp hiện tiền. Ðại nguyện thâm tâm viên mãn thanh tịnh. Siêng cầu Phật pháp có
thể lãnh thọ tất cả. Chứa nhóm thiện căn hằng không nhàm đủ. Ngươi thuận thiện
tri thức chẳng trái lời dạy. Từ biển lớn công đức trí huệ của Văn Thù Sư Lợi mà
sanh. Tâm ngươi thành thục được thế lực của Phật. Ðã được tam muội quang minh
quản đại. Chuyên tâm mong cầu diệu pháp thậm thâm. Thường thấy chư Phật tâm rất
hoan hỷ. Trí huệ thanh tịnh như hư không. Ðã tự sáng tỏa lại vì người mà diễn
nói. An trụ trí huệ quang minh của Như Lai.
Lúc đó Thiện Tài đồng tử
đảnh lễ chân Quán Tự Tại Bồ Tát, hữu nhiễu vô số vòng, chắp tay cung kính thưa
rằng :
Bạch đức Thánh ! Tôi đã
phát tâm vô thượng Bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào
tu Bồ Tát đạo ?
Tôi nghe đức Thánh khéo dạy
bảo, xin chỉ dạy cho.
Bồ Tát nói :
Lành thay ! Lành thay ! Này
thiện nam tử ! Ngươi đã có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Này thiện nam tử ! Ta đã
thành tựu Bồ Tát đại bi hạnh giải thoát môn.
Này thiện nam tử ! Ta dùng
môn Bồ Tát đại bi hạnh này bình đẳng giáo hóa tất cả chúng sanh tiếp nối chẳng
dứt.
Này thiện nam tử ! Ta trụ
nơi môn đại bi hạnh này thường ở chỗ tất cả chư Phật, hiện khắp trước tất cả
chúng sanh. Hoặc dùng bố thí, hoặc dùng ái ngữ, lợi hành, đồng sự để nhiếp thủ
chúng sanh. Hoặc hiện sắc thân nhiếp thủ chúng sanh. Hoặc hiện những sắc bất tư
nghì quang minh thanh tịnh để nhiếp thủ chúng sanh. Hoặc dùng âm thanh, hoặc
dùng oai nghi, hoặc vì họ thuyết pháp, hoặc hiện thần biến, làm cho tâm họ tỏ
ngộ mà được thành thục. Hoặc vì họ mà hiện thân đồng loại cùng họ ở chung mà
thành thục họ.
Này thiện nam tử ! Ta tu
hành môn đại bi hạnh này, nguyện thường cứu hộ tất cả chúng sanh, nguyện tất cả
chúng sanh khỏi sợ con đường hiểm, khỏi sợ nhiệt não, khỏi sợ mê hoặc, khỏi sợ
trói buộc, khỏi sợ sát hại, khỏi sợ nghèo cùng, khỏi sợ chẳng sống, khỏi sợ
tiếng xấu, khỏi sợ sự chết, khỏi sợ đại chúng, khỏi sợ ác thú, khỏi sợ tối tâm,
khỏi sợ dời đổi, khỏi sợ ái biệt ly, khỏi sợ oán thù gặp, khỏi sợ thân bức
bách, khỏi sợ tâm bức bách, khỏi sợ lo buồn.
Ta lại phát nguyện : Nguyện
tất cả chúng sanh hoặc nhớ đến ta, hoặc xưng tên ta, hoặc thấy thân ta, thời
đều được khỏi tất cả sự bố úy.
Này thiện nam tử ! Ta dùng
phương tiện này làm cho chúng sanh khỏi sự bố úy, lại dạy họ phát tâm Vô thượng
Bồ đề trọn chẳng thối chuyển.
Này thiện nam tử ! Ta chỉ
được môn Bồ Tát “ĐẠI BI HẠNH” này.
Như chư đại Bồ Tát đã thanh
tịnh tất cả nguyện Phổ Hiền, đã an trụ tất cả hạnh Phổ Hiền, thường thật hành
tất cả thiện pháp, thường nhập tất cả tam muội, thường trụ tất cả vô biên kiếp,
thường biết tất cả tam thế pháp, thường đến tất cả vô biên cõi, thường dứt tất
cả chúng sanh ác, thường lớn tất cả chúng sanh thiện, thường tuyệt dòng sanh tử
của chúng sanh.
Ta thế nào biết được nói
được công đức hạnh đó.
Bấy giờ phương Ðông có Bồ
Tát tên là Chánh Thu từ hư không đến thế giới Ta Bà trên đảnh núi Luân Vi Sơn,
Bồ Tát này lấy chân ấn đất. Ta bà thế giới chấn động sáu cách, biến thành thất
bửu trang nghiêm.
Chánh Thu Bồ Tát phóng ánh
sáng nơi thân che chói tất cả mặt nhựt mặt nguyệt. Tất cả quang minh của Thiên,
Long, Bát Bộ, Ðế Thích, Phạm Vương Hộ Thế đều như đống mực đen.
Quang minh của Bồ Tát chiếu
khắp tất cả địa ngục, súc sanh, ngạ quỉ, Diêm La Vương, làm cho chúng sanh nơi
ác đạo hết khổ, chẳng khởi phiền não, đều rời lo buồn.
Lại khắp tất cả Phật độ mưa
tất cả hoa, hương anh lạc, y phục, tràng phan, bửu cái, những đồ trang nghiêm
để cúng dường chư Phật.
Lại tùy sở thích của các
chúng sanh mà hiện thân khắp trong tất cả cung điện, ai thấy cũng đều hoan hỷ.
Sau đó Chánh Thu Bồ Tát mới
đến chỗ của Quán Tự Tại Bồ Tát.
Quán Tự Tại Bồ Tát bảo
Thiện Tài rằng :
Ngươi thấy Chánh Thu Bồ Tát
đến pháp hội chăng ?
Ngươi nên đến hỏi Bồ Tát
thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?
KINH NIỆM PHẬT BA-LA-MẬT
Đời Tấn, ngài Tam-tạng Pháp-sư Cưu-Ma-La-Thập dịch từ Phạn ra Hán.
Hòa-Thuợng Thích-Thiền-Tâm dịch từ Hán-văn ra Việt-văn.
PHẨM THỨ NĂM
QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT NIỆM PHẬT VIÊN THÔNG
Lúc bấy
giờ, Quốc mẫu Vi-Đề-Hy hoàng thái hậu hớn hở vui mừng được nghe pháp yếu của
Như-Lai qua lời dạy của ngài Phổ-Hiền Đại Bồ-Tát, bèn tiếp tục thưa thỉnh:
- "Kính bạch đấng Thiên Nhân Sư tối tôn, tối thắng ! Kính bạch Đại-sĩ đại
từ, đại bi ! Con cũng thường nghe chư vị trưởng lão trong tăng già luôn luôn
nhắc nhở rằng chỉ có Tứ-niệm-xứ là con đường độc nhất giúp
chúng sanh diệt trừ ưu bi khổ não, chứng ngộ Niết-bàn. Nay được Thế-Tôn mở
bày pháp Niệm Phật, khiến hằng ưu-bà-tắc, và ưu-bà-di đều phân vân,
do dự. Ý nghĩa ấy như thế nào ? Đâu mới là pháp chân thật, rốt ráo ? Đâu là
pháp phương tiện, quyền biến ? Đâu là pháp tối hậu mà Như-Lai thường ban cho
các chúng sanh ở vào thời kỳ Chánh pháp cuối cùng ?"Đức Phật mỉm cười lặng
yên. Ngài Phổ-Hiền an nhiên nhập vào Niệm Phật Tam-muội. Thân tâm bất động.
Khi ấy, ngài Quán-Thế-Âm Đại Bồ-Tát liền từ bảo tòa đứng dậy,
trịch áo phơi bày vai bên hữu, cung kính nhiễu quanh đức Phật ba vòng. Rồi Ngài
hướng về bà Vi-Đề-Hy mà bảo rằng:
- "Nay tôi nương uy thần vô hạn của đức Thích-Ca Mâu-Ni Thế-Tôn, và tùy
thuận Bản-nguyện-lực vô biên vô lượng của đức Phật A-Di-Đà, mà tuyên dương năng
lực vô cùng tận của danh hiệu Phật, tức là Pháp Môn Niệm Phật Tam Muội.
- Nầy Vi-Đề-Hy, hãy nhận rõ như thế nầy, đừng rơi vào nghi lầm nữa.
Đúng như ngươi vừa
mới trình bày, Tứ-niệm-xứ là pháp diệt khổ, là pháp đối trị tham dục, ưu bi khổ
não, là pháp đắc Niết-bàn vắng lặng. Còn pháp Niệm Phật Tam-muội lại là pháp
thành Phật, là pháp chứng Vô-thượng-giác, là pháp thâm nhập cảnh giới bất tư
nghị của chư Phật, là pháp mở bày tỏ ngộ Tri Kiến Như-Lai, là pháp cứu độ tất
cả mọi chúng sanh, là pháp siêu việt trên hết thảy hí luận cùng thiên kiến của
nhị thừa. Tại sao vậy ?
Trước đây, đức Thế-Tôn vì những người ghê sợ hiểm nạn sanh tử, mà nói pháp
Tứ-niệm-xứ, chánh niệm tinh tấn nhiếp phục tham sân si, để thoát khổ và
đắc A-la-hán.
Nay vì những người
tín ngưỡng, khát khao quả vị Bồ-đề chí hướng mong cầu Phật đạo, phát khởi đại
bi tâm mà thực hành hạnh nguyện Bồ-Tát thì đức Thế-Tôn chỉ dạy pháp môn Niệm
Phật Tam-muội.
Nầy Vi-Đề-Hy, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, vì một niệm bất giác nổi
lên, che mờ Bản-thể Thường-trụ, nhận vật bên ngoài làm TÂM. Luôn
luôn bỏ mất TÂM chân thật, nên bị cảnh vật xoay chuyển. Do đó khởi tâm phân
biệt, thấy có lớn nhỏ, rộng hẹp, cao hạ... Nếu xoay được cảnh vật bên ngoài thì
thân tâm sẽ sáng suốt, trạm nhiên, trọn đầy, tức thời đồng với Như-Lai không
khác.
Muốn xoay chuyển ngoại vật, thì không chi bằng sử dụng diệu lực vô úy của danh
hiệu Phật. Thật vậy, nhờ xưng niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật mà hành giả nhìn thấy
cảnh vật bên ngoài đúng như bản chất thật sự của chúng. Do đó không còn bị
ngoại cảnh chi phối, điều phục thân tâm. Và chẳng còn mống khởi tâm phân biệt.
Lúc ấy, tuy không rời pháp hội mà biến hiện khắp mười phương quốc độ; trong
một lỗ chân lông vẫn chứa đựng cả Hoa-tạng Thế-giới-hải.
Khi xưng niệm danh
hiệu Phật, hành giả không để tâm dong ruổi theo thanh trần, mà xoay
cái nghe trở vào Chơn-tánh, đó là danh hiệu Phật đang tuôn chảy liên miên bất
tận thành một dòng Tâm, mà mỗi mỗi sát-na đều hiển hiện Chơn-như-tánh. Chính nó
thật là Tánh Nghe của mình, chẳng còn hai tướng động và tịnh, toàn
là thể vắng lặng, soi chiếu khắp mười phương.
Tiếp tục hành trì niệm Phật như thế, chẳng bao lâu thì Tánh Nghe cũng
không còn. Khi ấy, Phật Trí tự nhiên tỏa rạng, danh hiệu Phật vẫn
tương tục, không gián đoạn.
Nầy Vi-Đề-Hy, trong
pháp hội Thủ-Lăng-Nghiêm, tôi đã trình bày nhân địa tu hành Nhĩ Căn
Viên Thông cho đại chúng. Nhưng, thời Mạt pháp các kinh điển dần dần
ẩn mất, mà nên biết kinh Thủ-Lăng-Nghiêm, sẽ bị diệt trước nhất,
tiếp sau là kinh Lăng-Già, kinh Kim-Cương, kinh Ma-Ha Bát-Nhã, kinh Diệu-Pháp
Liên-Hoa ... Nếu không nương nhờ pháp niệm Phật thì rất khó chứng đắc
Nhĩ Căn Viên Thông. Bởi vì sao ? Bởi vì Niệm Phật Tam-muội chính là món
Viên-thông đệ nhất.
Nầy Vi-Đề-Hy, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, vì lăn lộn trong đêm tối vô
minh, nhận giặc làm cha, lấy vọng kiến làm chỗn nương về, lấy tà kiến làm bạn
lữ, lấy biên kiến làm lương dược. Nhận ngã chấp, ngã kiến làm Tâm. Rời
xa Tri-kiến Giải-thoát Vô-thượng. Do đó, khởi tâm phân biệt, thấy đúng sai, tà
chánh, thiện ác, chân ngụy ... nếu lọc sạch ngã kiến, ngã chấp thì thân tâm sẽ
quang minh, thường tại, chiếu suốt mười phương pháp giới. Tức đồng đẳng với Tri
Kiến giác ngộ của chư Như-Lai.
Nếu muốn gạn lọc ngã kiến, ngã chấp, thì không chi hơn là phát huy năng lực vô
biên của danh hiệu Phật. Thật vậy, nhờ chuyên tâm xưng niệm Nam-mô
A-Di-Đà Phật mà hành giả tuần tự chuyển Thức thành Trí. Ngã chấp tự nhiên
rơi rụng, ngã kiến tự nhiên tan mất như bong bóng nước dưới ánh mặt trời. Lúc
bấy giờ, tuy không lìa cung Đâu-Suất mà vẫn phân thân khắp vi trần quốc độ để
chuyển pháp luân vô thượng, và khai thị tuệ giác cho vô lượng chúng sanh, giúp
hết thảy tứ sanh, cửu hữu cùng ngộ nhập Phật Tri Kiến.
Khi xưng niệm danh hiệu Phật, hành giả không để Thức nương theo nhân duyên mà
dấy động, nên chẳng thành tựu pháp Y-tha-khởi. Vì không có sự tham dự của ngã
và ngã sở nên Biến-kế Sở-chấp cũng chẳng tồn tại. Chỉ có danh hiệu Phật vẫn
tuôn chảy liên miên bất tận thành một dòng tâm, mà mỗi mỗi sát-na đều
biểu hiện Vô-thượng Diệu-viên Thức-tâm Tam-Muội, tức là Chân Duy Thức Tánh.
Tiếp tục hành trì
niệm Phật như thế chẳng bao lâu, thì chẳng còn nhìn thấy huyễn tướng của vạn
pháp ở bên ngoài và cũng chẳng còn bắt gặp Tám thức ở bên trong. Trong hay
ngoài đều giả dối, không thật. Ngay cả tướng Duy-thức cũng chẳng có nữa. Vì ba
đời mười phương Như-Lai, vi trần sát quốc độ, hư không, sắc pháp, tâm vương, tâm
sở... đều không một thứ nào ra ngoài Chân Duy Thức Tánh mà tự hữu, tự sanh, tự
diệt, danh hiệu Phật vẫn tương tục, không gián đoạn, như có, như không, cho đến
khi Chân Duy Thức biến mất, Đại Viên Cảnh Trí tự nhiên phơi bày, danh hiệu Phật
sẽ dẫn dắt hành giả đi vào tánh Viên Thành Thật, chứng Vô-sanh
Pháp-Nhẫn.
Do đó, phải nói rằng
Niệm Phật là pháp môn đệ nhất dùng để chuyển thức thành trí, mà
chúng sanh thời Mạt pháp phải siêng năng thọ trì.
Nầy Vi-Đề-Hy, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, bị vô số tư tưởng điên đảo
làm khuất lấp tánh Viên-giác. Như kẻ ngủ mê chợt thức giấc giữa ngã tư đường
cái, chẳng rõ phương hướng, lẫn lộn chánh tà, thấy cong nhìn ngược, bất phân
thiện ác. Tư tưởng điên đảo ấy nẩy sanh thân và tâm, rồi nhận thân tứ
đại giả hợp làm thân, chấp cái tư tưởng vô minh điên đảo kia làm tâm. Cứ
thế mà sanh tử, tử sanh nối nhau không dứt, tạo vòng lẩn quẩn luân hồi.
Nhưng cái vô minh điên đảo ấy cũng chẳng thật. Như hoa đốm, như bóng nước, như
ảo tưởng nơi sa mạc, như người ngủ chiêm bao, thấy những sự việc, cảnh vật rõ
ràng, nhưng khi thức dậy, thời không còn gì hết. Nếu chuyển hóa vô minh điên
đảo thời thân và tâm sẽ thành Giác-ngộ. Hoặc không phát tâm tu trì thời vẫn ở
mãi trong sanh tử huyễn mộng ấy mà tự vui. Chỉ có danh hiệu Phật là đầy đủ năng
lực nhiệm mầu để chuyển hóa sanh tử trở nên Niết-bàn, chuyển hóa giả huyễn trở
nên chân thật.
Vì sao vậy ?
Khi xưng niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật, hành giả dần dần thành tựu chánh
định Như-Lai, tự nhiên phát sanh Tuệ-giác Không-tánh, vì danh hiệu Phật là
Hư-không-tạng, là Viên-giác-tánh, là Vô-cấu-tạng, là Tịch-tịnh-tạng... Nhờ vậy,
hành giả biết các pháp đều như huyễn, thời tự nhiên lìa xa các huyễn hóa, sanh
diệt. Ngay lúc ấy, bèn thâm nhập Viên-giác-tánh. Đó gọi là tri huyễn
tức ly, ly huyễn tức giác.
Dùng pháp nào để Tri
? Nếu không phải là diệu dụng của danh hiệu Phật ?
Không cần phải hủy
diệt các thứ huyễn, mới cho chúng nó là huyễn. Không cần thay đổi bản chất
huyễn của nó mới gọi là Không. Mà chính cái biết "nhứt thiết pháp
là Không" khiến đương thể của huyễn pháp tức là Không.
Tiếp tục xưng niệm
Nam-mô A-Di-Đà Phật như thế, hành giả không phóng tâm theo huyễn cảnh, huyễn
sự, mà hướng cái biết trở vào Viên-giác-tánh. Đó là danh hiệu Phật đang tuôn
chảy liên miên bất tận thành một khối lưu ly sáng rực, vằng vặc. Mà mỗi mỗi
sát-na đều hiển lộ Như-Lai Tạng, và cái biết cũng không còn nữa. Danh hiệu Phật
vẫn tương tục không gián đoạn, hòa tan căn, trần, thức đều nhập vào
Viên-giác-tánh, bình đẳng bất động, thường trụ như hư không và tròn đầy chiếu
suốt mười phương.
Bởi vậy, phải nói rằng niệm Phật là pháp môn đệ nhất, sử dụng danh hiệu Như-Lai
mà thâm nhập Như-Lai-Tạng, mà chuyển biến huyễn hóa, hư dối trở nên
Viên-giác-tánh. Các hạng chúng sanh thời Mạt pháp phải siêng năng thọ trì.
Nầy Vi-Đề-Hy, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, bị phiền não chi phối ngày
đêm không tạm dừng, nên nhận vọng tưởng làm Tâm, bỏ quên Thắng-giải-trí,
Vô-thượng-trí. Rồi lại bị tham, sân, si, mạn, nghi lôi cuốn, và thân kiến, biên
kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ kiến chồng chất lấp vùi. Do đó khởi
tâm phân biệt, thấy có mừng có giận, yêu ghét, vui buồn, vinh hoa, hủy nhục...
nếu tận trừ phiền não thì thân tâm vắng lặng, an nhiên, tự tại, tức đồng với chư
Phật không hai không khác.
Muốn tận trừ phiền não, thì không chi hơn là phát huy năng lực Trí giả siêu
việt của danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật. Thật vậy nhờ cần mẫn xưng niệm Phật
hiệu mà hành giả hiện bày Tự Tâm Quang Minh Hiện Lượng, chuyển phiền não dữ dội
ấy trở thành Bồ-đề thật tướng, đưa hành giả thẳng vào cảnh giới Thánh
Tri Tự Chứng. Lúc bấy giờ, có khả năng bấm ngón chân xuống mặt đất, sử dụng
ấn Địa Xúc để cải biến Ta-bà thành Tịnh-độ trang nghiêm, niệm niệm
tương ứng với Thập-địa Bồ-Tát, niệm niệm du hành, giáo hóa xã hội chúng
sanh khắp mười phương vi trần bằng hà sa thế giới.
Comments
Post a Comment