KHUYÊN TU TỊNH ĐỘ
Mười niệm xưng danh chẳng uổng công
Chớ ngại cõi trần rồi vắng khách
Chỉ e lưới nghiệp vấn trăm vòng
Muôn sông về biển bờ đâu ngập?
Trăm nước chầu vua điện vẫn không
Dễ đến không người, thôi đáng tiếc!
Việc chi còn mến cảnh lao lung?
Giải Thích:
Liên tiếp tám bài thi trong đoạn nầy, đều
là của Tỉnh Am đại sư. Để được dễ trực nhận, bút giả xin giải thích ngay từng
bài:
Có kẻ hỏi: “Nếu khuyên mọi người vãng sanh
hết, thì cõi nầy còn ai ở? Và nếu tất cả người đều về Cực Lạc, nơi đó đất đâu
mà dung chứa?” Đại sư đáp: “Chớ vội lo cõi nầy không có người ở, chỉ e cho ngay
trước mắt lưới nghiệp vây quấn khiến liền bị sa đọa! Lại như muôn sông đổ dồn về
biển, biển đâu bị tràn ngập? Sứ giả trăm nước đến chầu vua, điện Hàm Dương vẫn
rộng thông. Cảnh Tịnh độ tùy nguyện lực của Phật biến hiện cũng như thế. Chỉ tiếc
cõi Cực Lạc dễ về mà người đời còn mến cảnh lao tù tam giới, không chịu cầu
vãng sanh đó thôi!”
II
Người đồn Thiên Trúc chính Tây
phương
Thiên Trúc, Chi Na chỉ cách tường
Nghiệp ở cõi nhơ bàn tịnh uế
Thân nơi nhà lửa luận viêm lương
Ba ngàn thế giới trong luân chuyển
Muôn ức càn khôn thật cố hương!
Đến đến chớ sầu đường cách trở
Niệm tâm vừa tịnh thấy Không Vương.
Giải Thích:
Đương thời có nhiều kẻ lầm nhận cõi Tây
phương tức Tây Thiên Trúc, cách xứ Chi Na là nước Trung Hoa mười muôn tám ngàn
dặm. Lại có người luận mười muôn tám ngàn tức chỉ cho Thập bát giới gồm sáu căn
sáu trần sáu thức, diệt mười tám giới sẽ thấy cảnh Tây phương của tự tâm. Đại
sư đáp: “Thiên Trúc với Chi Na chỉ cách tường vách nghĩa là rất gần nhau, cũng
đồng ở nơi nhà lửa ngũ trược của Ta Bà, đâu phải là Cực Lạc? Còn luận về Cực Lạc
tự tâm tức Duy tâm tịnh độ, thì chỉ nên để cho bậc đã đắc vô sanh nhẫn. Đối với
phàm phu đầy nghiệp chướng, thân còn ở trong nhà lửa mà vội không hóa sự nhơ sạch,
nóng mát theo luận thuyết duy tâm, không chịu niệm Phật, tất sẽ bị xe luân hồi
quay, lửa tam giới đốt mà thôi. Chúng sanh nơi tam thiên đại thiên thế giới còn
ở trong vòng luân hồi. Chỉ cõi Cực Lạc ngoài mười muôn ức Phật độ kia mới thật
là quê hương, vì khi được về đó tất không còn bị nổi trôi luân lạc
nữa”.
Cao, thấp, sạch, nhơ cổ ngại gì!
Nhà xí khi vào sao bịt mũi?
Vũng tầy quá bước vén xiêm y?
Ốm đau lắm, lại thương thân khổ
Nắng gió chiều, than trái tiết thì!
Chớ nói lời suông sai thật hạnh
Hồi tâm mau sớm niệm A Di.
Giải Thích:
Có kẻ vịn câu nói của cổ đức: “Cao sơn
bình địa tổng Tây phương”, rồi bảo: “Chỉ cần tâm ta thanh tịnh, thì mọi nơi như
núi cao đất bằng, các chỗ nhơ sạch đều là Tây phương Tịnh độ, là ao báu hoa sen
cả, không có chi chướng ngại, cần gì phài cầu vãng sanh?” Phải biết câu nói
trên là cảnh giới của bậc đã chứng ngộ, phàm phu bắt trước theo chỉ thành ra lời
suông vô ích. Chính những kẻ nói như thế, khi vào nhà xí còn bịt mũi, bước qua
chỗ lầy lội phải vén áo xiêm, ốm đau vẫn thấy khổ, nắng gió mưa nhiều cũng than
trách, có điều chi là vô ngại đâu?
IV
Thường chê niệm Phật việc người ngu
Công việc người ngu, Phật cũng tu!
Long Thọ biện tài đâu ngốc Hán?
Văn Thù trí huệ há phàm phu?
Từ chương nhã luận còn Cư Dị?
Công cứ theo mình hỏi Đại Tô?
Nhắn kẻ thông minh nên nghĩ lại
Diêm La xét tội chẳng hồ đồ.
Giải Thích:
Những vị thông minh có học thức thấy kẻ
quê mùa cũng niệm Phật được, thường chê rẽ cho đó là lối tu của hạng ngu dốt.
Nên xét nghĩ, như Thiên Thai Trí Giả tương truyền là hóa thân của đức Thích Ca,
Vĩnh Minh đại sư là hóa thân của đức Di Đà, hai vị đó đều là Cổ Phật, mà còn tu
Tịnh độ để làm mô phạm hướng dẫn chúng sanh. Và các ngài như Văn Thù, Long Thọ,
hai vị Bồ Tát ấy đâu phải là phàm phu, kẻ ngốc, mà vẫn khen ngợi cùng hành trì
theo môn nầy. Lại còn như Bạch Cư Dị, Tô Đông Pha, hai bậc văn hào từ chương
tao nhã, kẻ chuyên niệm Phật, người thì đem Tây phương công cứ luôn theo bên
mình, là hạng người gì, ngu dốt hay trí thức? Vậy nên suy nghĩ, đừng vội phỉ
báng mà mang tội.
V
Nếu nói sanh Tây còn thuộc vọng
Trụ nơi cõi trược há thành chân?
Đông Tây chẳng chấp càng phi lý
Tịnh uế đều quên cũng pháp trần
Sanh vốn không sanh, sanh bốn cõi
Thấy như lìa thấy, thấy ba thân
Biết chăng chân vọng nguyên đồng thể?
Mê ngộ đểu do tại bản nhơn.
Giải Thích:
Có kẻ lại bảo: “Bản tính vốn vô sanh, cầu
sanh Tây phương là còn thuộc vọng!” Đáp: “Nói thế thì trụ mãi ở cõi nầy, lại
thành ra chân thật hay sao? Nếu nói: tôi không cầu sanh về Tây, không chấp trụ ở
Đông, tùy ý thọ sanh, lại càng phi lý. Vì chỉ có bậc Pháp thân đại sĩ mới tùy ý
thọ sanh được. Còn hàng phàm phu, nếu không cầu sanh Tây phương để mau tiến tu
giải thoát, tất phải theo nghiệp chịu luân hồi ở cõi nầy, rồi từ đó dễ tạo nghiệp
bị sa đọa. Nếu lại bảo: tôi không chấp tịnh uế, nên không cầu cõi sạch chán cõi
nhơ! Khởi một niệm như thế cũng thuộc về pháp chấp rồi, làm sao nói là không chấp
được? Cho đến bậc thức đạt, dù sanh về Tây phương, từ cõi Đồng cư tiến lên Thường
tịch, mà vẫn thấy không sanh. Dù chứng ngộ ba thân, vẫn lìa sự thấy biết về chứng
ngộ. Thế thì có gì trái với lý vô sanh vô chứng đâu?”
VI
Chớ chấp Đàn Kinh bài bác Tịnh
Tổ cơ, lời Phật thảy viên dung
Mượn lời chỉ lý tuyên thiền đạo
Được ý quên lời hiểu diệu tông
Thập thiện đều tu đâu phải tội?
Chư hiền đồng niệm há thành không?
Đông tây một thể vô lai khứ
Pháp giới linh minh cõi đại đồng!
Giải Thích:
Trong kinh Pháp Bảo Đàn, đức Lục Tổ có
nói: “Người ở Đông phương tạo tội cầu sanh Tây phương, người Tây phương tạo tội
cầu sanh về cõi nào?” Lời nầy chỉ là cơ phong của Tổ, mượn đó để đưa hành nhơn
ngộ thẳng vào chân tánh, chớ chẳng phải bác rằng không có Tịnh độ, cùng bảo đừng
nên cầu sanh. Kẻ thức đại học đạo cần phải được ý quên lời, chớ nệ chấp lời mà
hại ý. Đối với Phật, chư Tổ là hàng hậu lai. Phật còn khuyên niệm Di Đà cầu
sanh, lẽ đâu Tổ lại bác? Lại nên biết, hành giả sanh về Tây phương đều tu thượng
phẩm Thập thiện, thì người Tây phương đâu có tạo tội? Và chư hiền thánh xưa nay
rất nhiều vị niệm Phật, hành động đó đâu phải nông nổi lầm lạc, hay luống uổng
không hư?
VII
Niệm Phật quả như nên súc miệng?
Tụng kinh môi ngậm cũng ưng cần!
Thuốc dùng trị bịnh, sao gây bịnh?
Lửa để điều thân, lửa đốt thân!
Phàm niệm vẫn đầy, chê thánh niệm
Phật tình chưa khỏi nói trừ nhân!
Lời xa hiện thật, khuyên ngưng lại
Lo gấp đời nầy thoát khổ luân!
Giải Thích:
Khi xưa, ngài Triệu Châu có nói: “Một chữ
Phật ta chẳng thích nghe. Nếu niệm Phật một câu, phải súc miệng ba ngày!” Nhiều
kẻ vịn vào hai lời trên đây bảo: “Thiền sư Triệu Châu vốn bậc danh đức, Ngài đã
nói như thế, tất niệm Phật là điều thấp kém lỗi lầm, không cần thiết!”
Tỉnh Am đại sư gạn hỏi lại: “Nếu niệm Phật
là lỗi lầm cần nên súc miệng, thì xưa nay các bậc cao đức cho đến Tăng Ni ở khắp
tòng lâm, lúc tụng kinh trong những thời khóa tụng, tất cũng ưng cần ngậm miệng
đừng hé môi mới phải! Và như thế, lý ấy có đúng không? Phải biết Triệu Châu đại
sư là bậc chứng ngộ, muốn hướng dẫn hạng thượng thượng căn phá mối chấp kiến về
Phật, nên mới nói những lời ấy, chớ đâu phải ý ngài cốt bác phá sự niệm Phật! Đại
khái, tất cả những cơ ngữ bên thiền, lời ở nơi nầy mà ý điểm khác. Cẳng hạn như
Tổ Quy Sơn nói: “Sau khi lão tăng viên tịch, sẽ chuyển kiếp làm con trâu ở dưới
chân núi!” Lời nầy đâu phải ý chỉ định chuyển kiếp làm trâu? Nếu nhận là thật,
rồi cứ theo lời nói mà giải thích, thì đã sai lầm còn gây thêm tội lỗi. Ví như
lửa có công dụng sưởi ấm điều hòa thân thể trong tiết lạnh, cho đến nấu chín thức
ăn, nếu biết dùng thì rất lợi ích. Bằng trái lại, tất sẽ bị thiêu thân cháy
nhà. Lửa trí huệ Bát Nhã cũng thế, hay trị bịnh kiến chấp. Nhưng nếu chẳng biết
dùng, lại trở nên gây bịnh, lạc vào lối chấp thiên không bác phá nhân quả, rồi
sẽ bị sa đọa. Phần đông người học Phật thời mạt pháp đều là hạng trung, hạ căn,
phàm tình phiền não đầy dẫy. Nếu khinh chê phá không dùng đến thánh niệm xưng
Phật danh để tiêu trừ nghiệp chướng, thì làm sao giải thoát? Trong tâm phiền loạn
ấy, chính ngay Phật tình như câu hồng danh, mà còn chưa khởi sanh niệm lên được,
nói chi đến việc cao siêu, dứt trừ Phật kiến? Luận cho cùng, với bậc thượng
căn, khi niệm Phật không thấy mình là người hay niệm, Phật là vị được niệm,
chúng sanh kiến cùng Phật kiến đều rỗng không. Niệm Phật như thế cũng đâu có
chi trái với ý ngài Triệu Châu, mà bảo không cần niệm? Nhược bằng căn hạnh chưa
được như vậy, tốt hơn là mặc dù còn chấp thấy Phật, cũng nên mau niệm Phật để
thoát khỏi luân hồi, đừng nói những lời xa vời vô ích trái với hiện thật.
VIII
Niệm Phật viên thông
nhiếp sáu căn
Nhĩ căn ai bảo chiếm ưu phần?
Âm văn nếu chính viên thường thể
Danh tự đâu là khởi diệt nhân!
Dùng niệm niệm danh, danh vẫn thiết
Đem nghe nghe Phật, Phật càng gần!
Xét ra hai thánh đều huynh đệ
Đồng giúp Di Đà tiếp vãng sanh.
Giải Thích:
Trong kinh Lăng Nghiêm, về phần Tuyển trạch
viên thông, đức Văn Thù có bình luận môn tu Niệm Phật của ngài Đại Thế Chí bằng
mấy câu:
“Các hành là vô thường.
Niệm tánh vốn sanh diệt. Nhân quả nay sai khác. Làm sao được viên thông?”
Và kết cuộc Văn Thù Bồ Tát đã chọn lấy lối
tu phản văn thuộc về Nhĩ căn của đức Quán Thế Âm với hai câu:
“Phương nầy chân giáo
thể, Thanh tịnh bởi âm văn”.
Có kẻ khi đọc tới đoạn trên đây, chấp rằng:
“Đức Văn Thù đã bình luận lựa chọn như thế, thì ngồi tịnh lắng nghe vào trong
là môn tu cao siêu hơn cả, chẳng nên niệm Phật làm chi cả!”
Đại sư giải thích: “Thật ra chân không vẫn
ở trong huyễn hữu. Luận về phần tương đối phiến diện, thì các hành đều vô thường
sanh diệt. Nhưng bàn sâu đến chỗ viên dung toàn diện, chính các hành là thể
chân thường tịch diệt. Cho nên tất cả môn tu của hai mươi lăm vị thánh trong
kinh Lăng Nghiêm, đều đủ ba nghĩa: viên, thông, thường. Để chứng minh, như đức
Văn Thù đã nói phần âm văn tức nghe tiếng, là để viên thường. Thế thì âm thanh
danh hiệu A Di Đà, đâu phải là nhân sanh diệt? Và chính ngài cũng lại nói:
“Thánh tánh vô bất thông. Thuận nghịch gia phương tiện”. Thánh tánh thảy đều
thông, tất biết pháp nào cũng là viên thường. Như vậy đủ rõ tánh cách niệm danh
hiệu đâu phải sanh diệt, chẳng qua tùy cơ nghi thuận nghịch mà nói thế thôi.
Cho nên phải nhận thức chỗ bình luận của đức Văn Thù, thuận hay nghịch, hơn hoặc
kém, cũng đều là phương tiện tùy cơ mà quyền nói. Bởi duyên kinh Lăng Nghiêm phần
lớn khai thị về lối tu thiền theo không môn, đức Văn Thù phải tùy ứng theo đường
cơ mà lựa chọn như thế, chớ chẳng phải tu pháp Nhĩ căn của đức Quán Thế Âm là
cao siêu hơn hết đâu!
Lại còn nhiều bằng chứng như trong nhều
kinh đại thừa khác, Văn Thù Bồ Tát đã rất khen ngợi môn Niệm Phật, cho Niệm Phật
tam muội là pháp công đức cao dễ tu dễ tiến nhứt. Môn Niệm Phật nhiếp cả sáu
căn, ý căn là chủ, năm căn kia thuộc phần phụ. Lối tu Nhĩ căn chỉ từ một cửa mà
vào, niệm Phật thì cả sáu căn đều thâu nhập. Cho nên Nhĩ căn không nhiếp niệm
Phật. Niệm Phật gồm nhiếp Nhĩ căn và thích hợp với cả ba cơ thượng, trung, hạ.
Tóm lại, hai lối tu của đức Quán Thế Âm cùng Đại Thế Chí thật ra đều đồng đẳng,
không phân cao thấp. Và hai ngài cùng là pháp hữu, cùng phụ đức A Di Đà tiếp dẫn
loài hữu tình mười phương sanh về Cực Lạc, cùng thân thiết chẳng cách xa nhau vậy”.
Như trên, vì lòng từ bi Tỉnh Am đại sư đã dùng thi văn phá lối nhận thức sai lầm của một số đông người học Phật, để đưa họ vào con đường thẳng ích. Chủ tâm của Ngài chẳng phải có ý muốn đề cao Tịnh độ hơn các môn khác, bởi lẽ Ngài cũng là một đại thiền sư. Tập thi văn còn nhiều, bút giả chỉ chọn dịch và giải thích mấy bài trọng yếu.
KHUYÊN TU
Chẳng kết duyên lành làm đạo diệu
thâm
Lửa danh lợi đốt, khổ thăng trầm.
Đâu hay nhà ruộng cùng tiền của
Tạm mượn người coi ít chục năm!
Tấn, Bạt Đà La Tôn giả.
Hằng ngày phiền não quẩn quanh vòng.
Ngục tù quan pháp còn khi mãn
Cái ngục gia đình mãi đóng gông!
Tấn, Ca Rị Ca Tôn giả.
Chết rồi bốn đại thảy qui chân.
Oan cừu ân ái vui buồn mộng
Trước mẳt mình theo với nghiệp nhân!
Tấn, Bán Thác Ca Tôn giả.
Ăn dở tâm sanh giận!
Thịt cá thích say no
Chúng sanh đầy khổ hận!
Đời người trong bữa ăn
Tham giận mê luẩn quẩn.
Bậc trí dứt trần duyên
Vui đạo hằng tinh tấn.
Từ Thọ Thâm thiền sư.
Đen trắng nào hay chuyện dữ hiền.
Đến lúc hơi tàn bày khổ nghiệp
Mới kinh mình vướng mối oan khiên!
Nếu không xưng Phật trồng căn thiện
Đâu được trời Tây nở bảo liên?
Mượn nước cành dương trần cấu lặng
Bờ mê sớm thoát bước lên thuyền.
Xung Mặc đại sư.
Lần lữa hoa dung thấy kém già!
Tóc bạc răng long đừng ngớ ngẩn
Diêm vương tin gởi biết chăng mà?
Bắc Sơn đại sư.
Đường Tây cần chỉ giữ lòng bền
Gắng sức siêng tu thẳng bước lên.
Chánh hạnh ví thêm công trợ hạnh
Di Đà từ thệ vẫn đâu quên!
Tây phương báu lạ cảnh hằng xinh
Từ phụ xót thương độ hữu tình!
Tám vạn bốn ngàn môn giải thoát
Di Đà sáu chữ tuyệt cao minh!
Minh, Nhứt Nguyên đại sư.
Ao sen hoa đẹp nở hàng ngày
Sắc lạ quang minh chiếu bảo đài
Bi nguyện tay vàng xa tiếp dẫn.
Chúng sanh sao mãi vẫn còn say?
Bao quát muôn phương môn Niệm Phật
Cao hơi đập cửa khuyến tu hành.
Duyên sao vội gấp kêu dường ấy?
Vì sợ người mê rớt hỏa khanh!
Nguyên, Trung Phong đại sư.
Mai trắng vừa tàn, hạnh nở xinh
Gió xuân há phải có riêng tình?
Lòng thanh sáu chữ hàm muôn tượng
Công đức Di Đà thắm vạn linh.
Minh, Diệu Ý đại sư.
Lá biếc điểm xen bốn sắc hoa
Mỗi hoa vị niệm Di Đà.
Chớ nghi Tịnh độ đường xa cách
Mưa phới người về tợ nước sa!
Tống, Bắc Sơn đại sư.
Đường Tây thẳng tắt biết hay chưa?
Sáu chữ hồng danh Tối thượng thừa!
Muốn dắt tay lôi nhưng chẳng được
Do người tự nguyện Phật duyên đưa.
Tây phương quê cũ sớm quay về
Hơi thở mạng người chớ trễ mê!
Kiếp tạm có chùng nên quí tiếc
Đừng cho lỡ bước lạc sơn khê!
Liên bang rảo bước sớm tu trì
Sống chết vô thường chẳng hẹn kỳ.
Khảy ngón ánh dương ngoài cửa tắt
Thương câu: “Thất thập cổ lai hy!
Minh, Nhứt Nguyên đại sư.
Trần sa sống chết kiếp trần sa
Lại hết trần sa chẳng thoát ra!
Một niệm chỉ nhân tình chửa dứt
Vô biên số kiếp đắm mê hà!
Nguyên, Trung Phong đại sư.
Biển trần tham dục biết sao cùng!
Khóa lợi vàm danh có dứt xong.
Tình niệm nếu xoay thành Phật niệm
Tây phương Cực Lạc một đường thông.
Nghĩ sâu địa ngục phát bồ đề
Trở gót quê sen chớ lại mê!
Nong nả lối xưa nên sớm bước
Kẻo khi trời tối lạc đường về.
Niệm Phật đâu từng ngại việc làm
Người theo công việc tự mê tâm.
Bóng câu thần huyễn không tồn tại
Chớ phụ trời Tây đấng Nguyện vương!
MÌ tranh mưa tạnh ánh dương hồng
Thoáng chốc mù che lại chẳng đồng.
Huống nữa mạng người trong nhịp thở
Chuông mai còn chắc được nghe
không?
Sống chết mênh mang khắp biển trần
Di Đà thuyền nguyện độ mê tân.
Kiếp xưa có phận đời nay gặp
Mau bước lên thuyền lại cõi chân.
Một niệm mê sanh vạn mối mang
Trần lao nghiệp thức kết thành
đoàn!
Nếu không phải bậc tâm hùng liệt
Đâu dễ vươn mình đến Lạc Bang?
KHUYÊN TU
(Điệu Giang Nam Vọng)
Ta Bà khổ!
Thân thế tợ bèo trôi.
Sừng ốc đuổi đeo danh rỗng hảo
Lông ruồi giành giựt lợi suông
thôi.
Một niệm sớm tâm hồi.
Nhơn ngã thạnh!
Sớm tối kết vô mình.
Địa ngục từng đoàn vào thọ khổ
Tây phương không kẻ chịu tu hành.
Luống chết luống hoàn sanh!
Ta Bà khổ!
Năm tháng nước xuôi dòng.
Vinh nhục bi hoan bao thuở dứt
Thị phi nhơn ngã lúc nào xong?
Sống chết nẻo mơ mòng?
Trong ba cõi
Mặt nước điểm phù dâu.
Tài sắc dù cho lừng tiếng khắp
Gò hoang vùi dập nam xương sâu.
Sao chẳng sớm quay đầu?
TỊNH ĐỘ THI
I
Chuyên cần lễ niệm sớm rồi hôm
Ao báu đài sén nhập mộng hồn.
Xương nát thân tan ngàn vạn kiếp
Khó đền ân đức Đại Từ Tôn!
II
Sáu thời tưởng niệm Từ bi phụ
Con trẻ ngày nao trở gót về?
Nói đến luân hồi vô tận việc
Trông mau rớt lệ động lòng quê?
III
Anh khuyên em dạ niệm Di Đà
Lại độ thê nhi thoát ái hà
Ví được đồng tâm cùng niệm Phật
Diêm La thúc thủ biết sao mà?
IV
Xưa có sĩ phu Ngô Tử Tài
Gõ hòm mỗi sớm nhắc quy lai
Thân tuy còn ở trong ba cõi
Hồn đã nương về Bạch ngẫu thai. (Thai sen trắng)
V
Niệm Phật phải chuyên niệm đến cùng
Đến cùng tâm niệm bỗng tiêu dung!
Ta Bà biển khổ phong ba lặng
Yên ổn thuyền sen tới Lạc cung.
VI
Muốn kết duyên lành hội Thắng liên
Hơn thua phải quấy thảy đều quên!
Pháp mầu khó gập tâm hằng nhớ
Vui vẻ đồng lên giải thoát thuyền.
VII
Bởi còn chấp ngã khởi tham sân
Chôn lấp hoàng kim trượng lục thân!
Nay gặp duyên may vào Tinh xã
Chẳng nên theo cũ dính phong trần.
VIII
Khắp đem đất trược Tam thiên độ
Gieo giồng trời Tây cửu phàm liên
Đường đạo đây hơn không cách khác
Chỉ cần một niệm vững bền thuyền.
IX
Hằng để thân tâm hướng tịch dương
Tịch dương nơi ẩy có liên hương!
Gió cây chim nước tuyên lời diệu
Xót kẻ tình đời mộng hãy vương.
X
Ba mươi sáu chước, chước chi mầu?
Câu Phật ngàn muôn niệm đến đâu!
Nến tắt hương tàn mơ cõi báu
Bóng câu kiếp tạm chẳng bền lâu!
Trung Phong đại sư.
TỊNH ĐỘ THI
TRONG BỊNH VẼ
CẢNH CỰC LẠC
Cực Lạc đẹp mầu thanh Tịnh độ
Không bốn đường ác cùng các khổ
Nguyện người đau bịnh như thân ta
Đồng sanh về cõi Vô Lượng Thọ.
Đường, Bạch Hương Sơn
TIỄN GÓT TRĂNG PHÁP SƯ
Biển khổ đường mê nghĩ thoát thân
Cách đây mười vạn cõi vi trần?
Hoa sen nơi ấy trăm ngàn ức
Mỗi mỗi liên hoa hiện Phật thân!
Đường, Lý Thương Ẩn
ĐIẾU BẢO NGUYỆT
ĐẠI SƯ
Sống chết mau như duỗi cánh tay
Chung tình càng khổ có ai hay?
Lạc Thiên chẳng phải Bồng Lai khách
Hướng niệm Tây phương độ tháng ngày!
Tống, Tô Đông Pha.
Bạch Lạc Thiên
trước
tiên cầu
về Bồng Lai tiên cảnh. Kế tiếp xét thấy Bồng Lai không bằng cung trời Đâu Suất, nên lại cầu về Đâu Suất thiên cung. Bởi thế ông đã có câu thi: “Hải sơn bất
thị ngô quy xứ. Quy tắc tu quy Đâu Suất thiên”. Sau rốt càng đi sâu vào đạo, ông chuyển hướng cầu về Cực Lạc, vì Đâu Suất dễ lạc bước khó sanh lên, lại chánh báo và y báo đều không bằng Cực Lạc. Điều này thể hiện qua mấy câu thi: “Ta nay bảy mươi mốt.
Chẳng ham việc ngâm nga. Xem kinh mỏi con mắt. Làm phước sợ bôn ba. Lấy gì độ tai mắt. Một câu A Di Đà! Đi niệm A Di Đà. Ngồi cũng A Di Đà. Dù gấp như tên bắn.
Chẳng rời A Di Đà. Khắp khuyên người thế gian. Đều niệm A Di Đà”.
KHUYÊN NỆM PHẬT
Cõi người khổ bịnh rồi già chết
Thiên giới nào ai thoát Ngũ suy?
Thà đối Cửu liên cam phẩm thấp
Không mong trần thế lại đầu thai.
Bao phen lạc bước giữa trường đời
Việc thế như gai lắm rối bời!
Hoa đẹp vườn xưa thương cảnh cũ
Trâu
dê dày đạp mãi không thôi!
Nguyên, Ưu Đàm đại sư
Ý nói: Cảnh
giới chân như thanh tịnh
trong sáng suốt
an vui, như
khu vườn
xưa đầy hoa đẹp đủ màu sắc. Nhưng chúng sanh vì mê chân tâm theo vọng cảnh để cho loài trâu dê tham
sân si dầy
đạp tan nát vườn hoa chân tâm tươi đẹp
ấy. Ý này giống như lời
một hiền đức Việt Nam đã nói khi có người đến hỏi đạo: “Vườn ngự xác xơ hoa cỏ
rối. Mà nay hôm sớm mặc trâu dê!” (Kim cốc hoang sơ hoa thảo
loạn. Nhi kim hôn hiểu nhậm ngưu dương!)
NHỚ TỊNH ĐỘ
Nghĩ tợ cánh bồng lạc cõi Nam
Tựa lầu ca thán nguyệt canh tàn
Xa mờ hội pháp người lành đẹp
Lại tưởng đài hoa báu lạ nghiêm
Thân cá tuổi suy lần thiếu nước
Kiếp chim ô tạm lót hiên thềm
Ngỏ cùng thân hữu trong thiền đạo
Tạo cảnh chùa thêm gán lộ bàn.
Minh,
Sở Thạch thiền sư
Lộ bàn là cái chóp nhọn có chiếc đĩa tròn như hình cái mâm hứng
sương, gắn trên nóc chùa tháp.
Ý câu này nói: Đã tham thiền
ngộ bản tâm, nên thêm niệm Phật cầu sanh về Tây phương, cho sự
giải thoát được đảm bảo chắc chắn.
NGẪU CẢM
Lần trông mái tóc điểm màu sương
Tự xét thân ni chẳng cửu trường
Một kiếp đã thành chi sự nghiệp?
Trăm năm còn có mấy thần hồn?
Chóng tìm nơi lấp nhà an ổn
Chớ mãi cam lòng chốn tủ môn
Cõi ngọc không xa về có lối
Đài sen quy hướng lễ Từ Tôn.
Thanh, Liên Ẩn đại sư
NHỚ VỀ TỊNH ĐỘ
I
Từng nghe bạch hạc vốn tiên cầm
Trăng sáng bay về gởi hảo âm
Muốn nhắn tin xa hàng bạn đạo
Để ai hiểu rõ mối hoài tâm!
Thủy lâu cành bích mơ trời ngọc
Ngân hải đai kim nghĩ lối tầm
Khảy ngón phù sinh dường mộng huyễn
Cõi trần chỉ ngại lưới duyên thâm!
II
Lưu ly đất báu tử kim tràng
Phỉ thúy lầu cao cửa ngọc nhàn!
Quỳnh quyển vân chương khen chẳng hết
Thân tâm hướng lễ ý hằng sang
Phượng loan chớp cánh hàng hàng múa
Anh vũ đưa hơi tiếng tiếng vàng
Thanh mộng còn tham say giấc đẹp
Lầu xa trống điểm giục canh tàn.
Sở Thạch thiền sư
III
Sen Phật hiện trong biển lửa hồng
Bạn chi tám giáo lại năm tông?
Mỗi câu hằng tịnh ma xa lánh
Muôn niệm đều như Phật cảm thông
Kiếp bụi mê căn lần sạch gốc
Đời tu tinh tấn đến tròn công
Chỉ ưng quyết chí toàn thành tựu
Vì bởi hàm linh thể tánh đồng.
IV
Phàm phu trí kém quán chưa rành
Chỉ giữ trì danh tất vãng sanh
Cõi trược chí tu như chẳng đổi
Trời tây đài báu tự ghi danh!
Đầu dao mật dính trần mau nhiễm
Mặt nước bèo trôi đạo khó thành
Về gấp thôi chi lần lựa nữa
Đầm sen hương lạ sắc tinh anh.
Tĩnh Am đại sư.
V
Đông tây xuôi ngược bước phong trần
Ngoảnh lại phù sinh mấy chục xuân!
Niệm Phật những mơ miền bích thảo
Cúi đầu hướng đến néo hoa tân
Ai thương Đỗ vũ sầu non nước
Ta mến Di Đà niệm thiết thân!
Chẳng học cao tăng nguyền chuyển độ, (chuyển kiếp độ sanh)
Chỉ mong Cực Lạc được làm dân.
VI
Muốn nương Liên quốc gởi tinh thần
Niệm Phật đường lâm bịnh mãn phần!
Thân tợ sa lầy mong khỏi vực
Ý như chạy giặc nghĩ đào sanh!
Bích sa đến động ba đào thắm
Hồng thụ về trời cỏ biếc xuân
Mây ráng tàn dương nhìn lối cũ
Mưa hoa nhạc báu khác phàm trần!
Liên Lữ cư sĩ
VƯỜN THƠ TỊNH ĐỘ
I
Xem khắp kinh văn với luật nghi
Nơi nơi đều khuyến niệm A Di!
Một câu tiêu hết muôn đời nghiệp
Hà huống nhiều năm mãi tụng trì?
II
Song trăng, trà cúc, cảnh nhàn tu
Ngày tháng năm qua với số châu
Mười ngón lần tràng không rảnh rỗi
Phù sinh dám để phí công phu.
III
Thiện Đạo tiếc than nay đã khuất!
Thiếu Khang vắng bóng đại từ bi!
Đem tiền dụ trẻ từng câu Phật
Trai gái đều khuyên khắp tụng trì.
IV
Di Đà sáu chữ phỉ bình sanh
Mỗi tối trì vang ước mấy canh
Đối bóng nghĩ thương ngoài thế cuộc!
Dưới trăng, trước gió lại kinh
hành.
V
Hàng cây, ao báu, nhạc thanh hòa
Đôi bến cầu vàng lại nối qua
Chợt thấy hóa sanh tân Phật tử
Sen hồng nở cánh, tiếng chim ca!
Bắc Sơn đại sư
VI
Tây phương Cực Lạc chúng đều tôn
Khuyên khắp người đời học diệu môn
Có miệng bớt duyên trò chuyện nhảm
Một câu Phật hiệu độ thần hôn.
Nhứt Nguyên đại sư
VII
Chuỗi hạt một tràng đen nhánh nhánh
Như Lai ngang đáng hiện đoàn đoàn
Xoay vần tịnh niệm theo nhau mãi
Thâu lại buông ra chỉ một ban.
Cổ Âm pháp sư
VIII
Sáu chữ chân kỉnh nghĩa rộng xa
Tổng trì nào khác kệ dà đà?
Những từ nhắm lối Tây phương thẳng
Giết hết Đài sơn chỉ lộ bà.
Liên Trì đại sư
Đài Sơn chỉ lộ bà: Bà lão chỉ đường đi non Ngũ Đài. Sự tích đại lược như sau:
Một thiền sư đi Ngũ Đài Sơn,
giữa đường gặp bà lão nơi quán trà, hỏi:
“Thưa
bà, đường
nào đến
non Ngũ Đài để
lễ đức Văn Thù ?” Bà lão là
một bậc phi thường, bảo: “Cứ nhìn lối thẳng mà đi!” Thiền sư không hiểu
đó là cơ
ngữ khai thị về tự tánh, nghe xong cứ mặc nhiên lầm lũi tiến bước. Bà lão quở to: “Ủa? Khéo cho vị sư này!”
Trong đây, ý ngài Liên
Trì muốn
nói: – Niệm
Phật chính là vô Thượng thiên, những cái không chỉ đường, hay chỉ đường như lão bà, đều
giết bỏ hết: tức là thề nhập chân tâm, diệt các ý niệm đó.
Ngay lúc bà lão nói, nếu ở vào trường hợp của đại sư, có lẽ
ngài đáp lại
bằng một tiếng hét.
IX
Đời mạt tình người hiểm đáng kinh
Di Đà sáu chữ chớ xem khinh
Một lòng niệm đến quên thân cảnh
Bát giác thần chơi tựa các quỳnh!
X
Một muôn câu Phật giữ thường quy
Mỗi tối sơ canh lại tụng trì
Gối mộng có cầu sang Cực Lạc
Thân nầy đã tựa bích liên chi!
Cư sĩ Trầm Lãng Thanh
TỊNH ĐỘ THI
I
Trong mơ khóc đối đấng Kim Tiên
Cầu giúp thần công dứt nghiệp duyên
Phẩm thấp hoa hèn âu mãn nguyện
Khỏi nơi sanh tử khổ triền miên!
II
Lên lầu mơ hướng cõi trường xuân
Nơi ác vàng sa, ráng đỏ bừng!
Cảm đấng cha lành thương trẻ dại
Cánh bèo mãi lạc bến trầm luân!
III
Cảnh đẹp Tây phương sự uyển nhiên
Muốn về còn phải tại nhân
duyên
Giữ lòng một niệm dường gương sáng
Chi ngại Từ Tôn chẳng hiện tiền!
IV
Nhựt lặn trời tây sáng tử hà
Hồ tâm trong suốt hiện liên hoa
Ngẩng đầu lối thẳng miền quê đó
Ai bảo mười muôn cõi cách xa?
Nhật Quán thiền sư.
V
Nghèo khó đông con nhiều nỗi khổ
Giàu sang ngại ít gái cùng trai
Đạo nhơn độ ngọ rồi vô sự
Nằm ngắm trời tây mây trắng bay.
VI
Lầu các trùng trùng Anh
Vũ châu
Ấy ai đến đó thừ nhàn du?
Thanh giang mẩy khúc Ly tình điệu
Thương kẻ vô tâm mãi khổ sầu!
Hối
Phu
“Lầu các trùng trùng Anh Vũ châu”, tức
ám chỉ
cõi Cực
Lạc, nơi có lầu
báu trùng điệp
và nhiều
chim lạ.
“Thanh giang mấy khúc Ly tình điệu”. Xưa có sĩ tử
trên đường
ứng thí đi đến Thanh giang, một vùng non xanh nước biếc, nghe điệu thổi sáo rồi tiếp theo bài ca, chỉ nhớ hai câu sau chót
“Khúc chung nhơn
bất kiến. Giang ngạn sổ phong thanh”. (Khúc
nhạc ca xong chẳng thấy người. Bên bờ sông duy còn sừng sững mấy ngọn núi xanh biếc). Sĩ tử kinh ngạc, cho đó là tiên
khúc, vì lời
ca rất
siêu xuất,
lìa phàm tình, hay đến
độ nhập thần không thể diễn tả! Đây ý nói niệm Phật là khúc nhạc chân tâm như Ly tình điệu
ở Thanh giang, tiếc cho kẻ vô tâm, không hiểu thấu, chỉ mãi theo niệm trần phiền não đau buồn.
VII
Niệm Phật đừng hềm vọng tưởng nhiều
Vọng nguyên hư giả khởi từ đâu?
Chỉ cần mỗi chữ nghe rành rõ
Niệm mãi tình quên đến ngọc lầu.
VIII
Mặc trì Phật hiệu cảnh êm đềm
An tĩnh thầm vui lúc giữa đêm
Bóng trúc trăng dời song cửa sáng
Nghi hàng cây báu mọc bên thềm!
Bắc Sơn đại sư
IX
Niệm Phật khác chi thuyền độ lớn
Đưa người toàn chẳng lựa ngu hiền
Bên nầy ví biết nhiều nguy hiểm
Thì xuống thuyền sang cõi bảo liên.
X
Làng sen đến viếng bạn sen ta
Một nén hương thanh một chén trà
Việc thế bàn chi thêm tục lụy?
Niềm vui nhàn ngợi bạch liên hoa.
Ưu Đàm đại sư
KHUYÊN TU
(Sao lại bài đã dịch khoảng ba mươi năm về trước,
dưới bút hiệu Trí Hiền).
Xưa Nhan Bính, Như Như cư sĩ
Dẫn luận kinh, ý ý khuyên cầu
Bút nhàn phiên, khoảng canh thâu
Tỉnh ai trần lụy, đổi sầu làm tươi!
Thân mộng ảnh, lắm người yêu quí
Yêu quí thân, cho lụy vì thân
Tham vui những ước vô ngần
Nào hay vui lợi là nhân khổ sầu!
Giấc phù thể, bóng câu cửa sổ
Vóc hư huyễn, giọt lộ lòng hoa
Đôi mươi trẻ, chín mươi già
Những dù yểu thọ chẳng qua vô thường
Dép dưới giường, dễ biết ngày mai?
Mạng người hô hấp cho hay
Gẫm cơn vĩnh biệt tuyền đài mà đau!
Than duyên kiếp, ngắn sao một kiếp?
Đắm huyễn thân, nhiều thiệt bởi
thân!
Lớp da gói những thịt gân
Bến duyên giả hợp rồi phân chắc gì?
Tóc, răng, móng, vẻ chi đất bợn!
Huyết, tủy, xương, chán gớm bọt
bèo;
Bên ngoài rệp đúp muỗi đeo
Bên trong trùng sán lẫn vào nhớp
chưa?
Nỗi nóng bức, ngày trưa tiết hạ
Cơn lạnh lùng, đêm giá trời đông
Xét thân khổ, tỉnh mơ mòng
Khép lòng ái luyến, mở lòng thoát
ly.
Mùi thế lụy say chi lắm kẻ?
Lớp phong lưu, bày vẽ y quan
Dại khôn cùng học làm sang
Sóng lòng điên đảo theo làn sắc
thanh
Đầu xương nọ, cài trăm thắt lụa
Đãy da kia, ướp xạ xông hương
Đua đòi nhung gấm phô trương
Chỉ tuồng che lớp vô thường nhơ
tanh
Vườn hoa mộng, tưởng xanh muôn thuở
Tuổi phương xuân, còn ngữ dài xa!
Phút đâu tai điếc mắt lòa
Diêm Vương chực rước đến tòa U Minh
Làn tóc bạc, nhắn tín sứ quỉ
Chiếc răng long, gởi ý quy âm
Càng tài càng sắc càng dâm
Càng cho đọa lạc, càng lầm mà thôi
Mùi hoan ái, một thời say tiếc
Nẻo luân hỏi, muôn kiếp đắng cay
Đến khi sắp xuống Diêm đài
Gân xương đau nhức, chân tay rụng rời!
Vợ lưu luyến, đầy vơi mắt lệ
Con xót xa, kể lể tiếng than!
Dầu rằng quyến thuộc trăm ngàn
Có ai thay thể cho chàng được
chăng?
Kẻ sổng ở, nặng oằn gánh tủi
Người thác đi, rong ruổi phách hồn
Đường âm mờ tựa đêm hôm
Trông ra quạnh quẽ bồn chồn thảm
thê!
Nại Hà đến, lạnh tê gió lốc
Qui Môn sang, ghê gốc tiếng thương!
Bảy ngày lìa quá cõi dương
Âm ty đã trải trăm đường khảo tra
Tào quan xử, quát la chàng vị
Ngục tốt hờn, quay chủy múa xoa
Đài gương Nghiệt Cảnh sáng lòa
Soi tường thiện ác chối qua được
nào
Người nhân đức, đưa vào cửa phưởc
Kẻ hung gian, giải trước hình ty
Dạ đài khổ sở xiểt chi
Mới hay nhân quả mấy khi sai lầm?
Rừng đao kiếm, bao năm hết tội?
Kìểp sừng lông, nhiều nỗi đa mang!
Trả đền cho dứt nghiệp oan
Mới mong thoát khỏi mọi đàng long
đong
Dù ai có to lòng lớn mật
Mặc chàng hay báng Phật khinh Tăng
Chẳng qua đối trước Diêm quân
Cúi đầu co gối chịu phần xử tra.
Hồn phách đã chơi xa âm giới
Thi hài còn ở cõi dương gian
Có tiền mua lớp áo quan
Không tiền vùi góc núi hoang lạnh
lùng!
Chất xương thịt sẽ cùng tan rã
Tấm hình hài lần hóa tanh hôi
Chỉ mong chầy sớm mà thôi
Chầy trong nửa tháng, sớm thời ít
hôm
Nét kiều diễm, chập chờn xuân mộng
Kiếp tài hoa, hình bóng bạch vân
Khi xưa tài sắc mười phân
Mà nay một nắm cô phần lạnh tanh
Thời oanh liệt, hùng anh đâu tá?
Cuộc ái ân hư giả còn chi?
Phất phơ cành liễu xanh rì
Giấy tiền treo đó dường ghi mối sầu!
Bóng chiều rủ xuống mầu cỏ biếc
Bia mồ trơ một chiếc vắng không
Nghĩ thôi rơi lệ chạnh lòng
Đời người đến thế là xong một đời!
Vì chẳng biết tìm nơi giải
thoát
Nương về nơi Chánh giác quy-y
Luân hồi hẳn dứt có khi
Bên trời Bát Nhã còn chi lo phiền?
Lối ma quỉ, dừng riêng mưu sống
Đất từ bi gieo giống hoa
đàm
Giữ lòng thiện, dứt lòng tham
Gái trai tăng tục đều kham tu hành
Rõ cảnh mộng, chớ quanh đường mộng
Biết miền chơn, kịp chóng tu chơn
Dần dà tính thiệt so hơn
Tuổi xuân qua mất để hờn về sau!
Sáu chữ Phật, cùng nhau gắng niệm
Chín phẩm đài, sẽ chiếm ngôi vinh
Chớ nên mình phụ lấy mình
Trách sao Diêm lão vô tình chẳng
dung?
Bỏ điều ác, thuận tùng nẻo thiện
Chừa lỗi xưa, tu tiến đường sau
Lại vì quyến thuộc bảo nhau
Cùng khuyên già trẻ sớm mau tu trì
Khiến mỗi kẻ đều quy bển giác
Cho muôn người đồng thoát sông mê
Dù trong lao khổ dám nề
Đài sen đốt mảnh hương thề nguyền
xin
Nguyền xin quyết vững tin lời Phật
Nguyền từ nay khép chặt phòng thu
Nguyền kiếp nầy gắng công phu
Thân người dễ mất quả tu khó thành!
Comments
Post a Comment