KHỞI TÍN


Niệm Phật mầu
Duyên tối hảo!
Quét sạch trần tâm muôn vọng ảo
Trốn cha mấy lúc ruổi phong trần
Quán khách nhiều phen hồn mộng não!
Chẳng tham thiền
Không nghiên giáo!
Ngồi tịnh lò hương khói vi nhiễu
Hỏi tìm khắp chốn biết về đâu
Tham phỏng chừng nao ngày kiết liễu?
Đừng cầu ngoài
Trong lặng chiếu!
Vạt áo Ma-ni vô giá bảo
Tùy nơi hiện sắc rất phân minh
Sáu nẻo thần quang đâu chút thiếu!
Nước lững lờ
Non cao ráo
Trong tịnh nhìn xem đều cảnh diệu
Cười ai danh lợi luống bôn ba
Bỏ sự nhàn vui mê lối đạo!
Trăng lặng mờ
Chuông sáng báo
Cậy mình dung sắc chưa suy lão
Xưa nay hiền triết số hằng sa
Ai chẳng xương tàn vùi bích thảo?
Chỉ tâm ấy
Không thọ yểu
Thoát ly biển khổ vòng điên đảo
Trăm năm thân thể tợ không hoa
Khám phá không hoa đời cũng hảo!
Nương gậy bình
Mang bát áo
Thanh thản muôn duyên vui với đạo
Kiếp sanh định số đã an bài
Tánh Phật thiên chân đâu phải tạo?
Ẩn am tranh
Bền tiết tháo
Quan khó khiến sai, vua khó triệu.
Trọn ngày ngồi tịnh dứt tâm cơ
Bích nhãn hồ tăng nhìn chẳng thấu!
Mưa song mai
Trăng rèm liễu
Canh rau cơm đỏ tùy duyên liệu
Dám rằng đóng cửa mến thanh cao
Cũng chẳng nhìn ai hềm kém thiếu!
Sống ít quen
Chết chẳng điếu
Hơi tắt đãy da quàng mảnh chiếu
Vùi chôn thiêu hóa mặc tình người
Khỏi bận cháu con hiền, bất hiếu!
Vui vẫn điềm
Khổ chẳng yếu
Cõi mộng phù sanh đà thấu hiểu
Khắp khuyên quẳng phứt gánh ưu phiền
Cùng nhau ca khúc hoàn hương điệu!
Có đôi lời
Rất giản yếu
Đời người tợ lưới giăng phi điểu.
Lưới giăng muốn thoát phải làm sao?
Niệm Phật về Tây, phương tối diệu!



Nóng đảnh quyết sanh An Lạc quốc
Nhẹ thân hiển rõ Niết Bàn tâm!



KHỞI TÍN

 

Thích Khởi Tín, tự Hương Hải, họ Đan, người ở Phú Xuân. Cha là Hoa Tạng, rộng thông về nội điển, tỏ suốtviệc hướng thượng, khuyến tấn Khởi Tín bảo xuất gia. Sau khi thoát bạch (bỏ y phục đời) sư qua Nam Bình cầu giới, thầy dạy tham cứu chữ “Thùy”. Khởi Tín dụng công hết sức hành trì, thường suốt đêm không ngủ, ngồi thẳng trên bồ đoàn như hình tượng gỗ.

Niên hiệu Gia Khánh năm đầu đời Thanh, vào ngày rằm tháng bảy, sư lên viếng cảnh Ngô Sơn. Lúc tới nơi vào khoảng đầu hôm, đèn đuốc thắp giăng như hội hoa đăng, ánh sáng rực rỡ chói lòa cả mắt. Xúc chạm cảnh ấy, Khởi Tín chợt tỏ ngộ, khi trở về đem trình lại với cha. Hoa Tạng ấn khả, lại bảo đi tham vấn khắp hàng trí thức. Sư vâng lời, đi lần đến Tô Châu, đóng cửa nhập thất nơi am cổ Mai, mỗi ngày niệm mười muôn câu Phật hiệu. Lúc ra thất, ngẫu nhiên làm thi, đều chỉ hướng về Tịnh độ. Sư có bài Niệm Phật Ca như sau:

 

Niệm Phật mầu
Duyên tối hảo!
Quét sạch trần tâm muôn vọng ảo
Trốn cha mấy lúc ruổi phong trần
Quán khách nhiều phen hồn mộng não!
Chẳng tham thiền
Không nghiên giáo!
Ngồi tịnh lò hương khói vi nhiễu
Hỏi tìm khắp chốn biết về đâu
Tham phỏng chừng nao ngày kiết liễu?
Đừng cầu ngoài
Trong lặng chiếu!
Vạt áo Ma-ni vô giá bảo
Tùy nơi hiện sắc rất phân minh
Sáu nẻo thần quang đâu chút thiếu!
Nước lững lờ
Non cao ráo
Trong tịnh nhìn xem đều cảnh diệu
Cười ai danh lợi luống bôn ba
Bỏ sự nhàn vui mê lối đạo!
Trăng lặng mờ
Chuông sáng báo
Cậy mình dung sắc chưa suy lão
Xưa nay hiền triết số hằng sa
Ai chẳng xương tàn vùi bích thảo?
Chỉ tâm ấy
Không thọ yểu
Thoát ly biển khổ vòng điên đảo
Trăm năm thân thể tợ không hoa
Khám phá không hoa đời cũng hảo!
Nương gậy bình
Mang bát áo
Thanh thản muôn duyên vui với đạo
Kiếp sanh định số đã an bài
Tánh Phật thiên chân đâu phải tạo?
Ẩn am tranh
Bền tiết tháo
Quan khó khiến sai, vua khó triệu.
Trọn ngày ngồi tịnh dứt tâm cơ
Bích nhãn hồ tăng nhìn chẳng thấu!
Mưa song mai
Trăng rèm liễu
Canh rau cơm đỏ tùy duyên liệu
Dám rằng đóng cửa mến thanh cao
Cũng chẳng nhìn ai hềm kém thiếu!
Sống ít quen
Chết chẳng điếu
Hơi tắt đãy da quàng mảnh chiếu
Vùi chôn thiêu hóa mặc tình người
Khỏi bận cháu con hiền, bất hiếu!
Vui vẫn điềm
Khổ chẳng yếu
Cõi mộng phù sanh đà thấu hiểu
Khắp khuyên quẳng phứt gánh ưu phiền
Cùng nhau ca khúc hoàn hương điệu!
Có đôi lời
Rất giản yếu
Đời người tợ lưới giăng phi điểu.
Lưới giăng muốn thoát phải làm sao?
Niệm Phật về Tây, phương tối diệu!

 

Năm Gia Khánh thứ mười bảy, ngày mười chín tiết mạnh đông, Khởi Tín viên tịch nơi am Ẩn Tu ở Đông Viên. Trước khi lâm chung, sư tắm gội thay y phục, rồi ngồi kiết già niệm Phật mà qua đời, hưởng dương ba mươi bảy tuổi. Người thân cận dò xem thấy đảnh nóng tợ lửa. Lúc đem liệm vào bảo khám, thi thể nhẹ như bông. Hoa Tạng đến thăm, tặng đôi liễn khen ngợi rằng:

 

Nóng đảnh quyết sanh An Lạc quốc
Nhẹ thân hiển rõ Niết Bàn tâm!

Comments

Popular posts from this blog