HỨA NHÂN THỤC
Chẳng trụ có, không, dứt biệt phân
Một lòng nhàn tản tợ phù vân.
Hoa vàng trúc biếc phô mùi đạo
Để ý tìm cầu lạc lối chân.
Cần tu tịnh nghiệp thoát trần duyên
Dẹp mối suy tư thấu lẽ huyền.
Nếu lại nghi ngờ sanh thức kiến
Mây mù che khuất cảnh thanh nhiên.
Đàm tông nói giảo luận tuôn trào
Tranh tỏ thông minh thấy hiểu cao.
Sao kịp bền tu, tâm hạnh thật
Di Đà sáu chữ trảm ma đao.
Muôn kiếp chìm mê hối ngộ chầy
Đường tu lỗi rẽ thấy nhiều đây!
Trả xong duyên huyễn thành vô lậu
Một đóa sen màu nở cõi Tây.
HỨA NHÂN THỤC
Hứa Nhân Thục, người ở Nam Hương huyện
Đan Đồ. Cư sĩ tánh thuần hậu thông minh, lại rất hiếu thuận. Do cha là Ngộ
Thành chuyên tu tịnh nghiệp, nên Nhân Thục cũng kính tin ngôi Tam Bảo, thường
trì tụng chú Chuẩn Đề. Lên mười lăm tuổi, cư sĩ vào trọ ở trong thành học tập
nghiệp khoa cử. Khi có tiền dư, lại phóng sanh giúp kẻ nghèo khổ. Thân phụ muốm
tìm nơi hỏi vợ cho, ông đều từ chối.
Đến hai mươi hai tuổi, Nhân Thục ứng
khoa Viện thí xong, mang bịnh lạc huyết. Vài năm sau, lần lâm vào cảnh trầm
kha, nằm kêu rên nơi giường bịnh. Ngộ Thành hiểu dụ con rằng: “Bịnh vốn do nghiệp
trước chiêu cảm. Đức A Di Đà ở thế giới Cực Lạc là đấng vô thượng y vương. Nếu
con phát tâm niệm Phật cầu sanh về cõi đó, thì nghiệp trầm kha vạn kiếp sẽ được
thoát hẳn trong một sớm chiều”. Nhân Thục nghe nói tỉnh ngộ, xin thỉnh Tuyết Cốc
hòa thượng ở chùa Trúc Lâm đến nhà, cầu thọ Tam quy Ngũ giới. Kế đó cư sĩ phát
lộ sám hối, quyết chí niệm Phật cầu sanh Tây phương. Đến ngày mùng tám tháng
tư, lại xin mời chư Tăng đến nhà niệm Phật trong bảy hôm. Mãn kỳ hạn, liền nhờ
xuống tóc, rồi mặc đồ tu. Quyến thuộc trông thấy đều sa nước mắt lộ vẻ bi cảm.
Nhân Thục nói: “Xin tránh đi nơi khác đừng làm loạn chánh niệm của tôi!” Từ đó
cư sĩ càng gắng hết sức niệm Phật. Sang mùng một tháng năm, lại cầu thỉnh chư
Tăng niệm Phật thêm một kỳ hạn bảy ngày nữa. Trong khóa niệm, bịnh chuyển nặng,
chỉ còn nằm ngửa nơi giường khó nỗi day trở. Nhân Thục bèn dứt cả ăn uống
chuyên lòng niệm Phật chờ vãng sanh. Đến chiều ngày thứ sáu, cư sĩ thưa với cha
rằng: “Con sắp đi, đêm nay có thể viên mãn!” Ngộ Thanh hiểu ý, thiết bàn Phật
trước mặt bịnh nhơn, đốt hương lên đèn, xin chư Tăng đứng hai bên trợ niệm. Tới
nửa đêm, ngoài cửa song bỗng có ánh sáng đỏ chói trời, chớp lên vài lượt. Nhân
Thục tự gắng sức nằm nghiêng bên hữu, chắp tay mỉm cười mà qua đời. Lúc ấy cư
sĩ mới vừa được hai mươi lăm tuổi.
Ngộ Thành tự là Tâm Tăng, có làm nhiều thi
kệ vịnh đạo, được lưu hành nơi đời. Nay xin lục ra bốn bài như sau:
Một lòng nhàn tản tợ phù vân.
Hoa vàng trúc biếc phô mùi đạo
Để ý tìm cầu lạc lối chân.
Dẹp mối suy tư thấu lẽ huyền.
Nếu lại nghi ngờ sanh thức kiến
Mây mù che khuất cảnh thanh nhiên.
Tranh tỏ thông minh thấy hiểu cao.
Sao kịp bền tu, tâm hạnh thật
Di Đà sáu chữ trảm ma đao.
Đường tu lỗi rẽ thấy nhiều đây!
Trả xong duyên huyễn thành vô lậu
Một đóa sen màu nở cõi Tây.
Comments
Post a Comment