DANH HIỆU
Phạn ngữ Buddha (Bụt đa), ta thường gọi là Phật, nghĩa là đấng
giác ngộ (Giác giả) : nơi đây, sự “tự giác”, “giác tha” và công hạnh giác
ngộ đã cứu cánh viên mãn. Nói cho rõ hơn, tức là bậc
đã giác ngộ ngã chấp chứng lý nhơn không, dứt sạch kiến
tư phiền não, giải thoát phần đoạn sanh tử; khác hẳn với phàm
phu ngoại đạo còn tà kiến mê chấp ngã nhơn, khởi phiền
não tạo nghiệp mãi trôi chìm trong biển khổ sanh tử. Và là bậc
đã giác ngộ pháp chấp chứng lý pháp không, phá sạch vô
minh, thoát hẳn khổ biến dịch; khác với A-la-hán cùng Duyên
Giác còn chấp lấy pháp, bị vô minh che mờ bản chơn, mãi mắc trong
vòng biến dịch khổ. Mà cũng khác với hàng Bồ Tát, vì Bồ
Tát dầu chứng lý mà chưa viên, dầu phá mê mà chưa tận, còn Phật thời đã cùng
tận viên mãn.
Cứ theo các nghĩa trên, Đức Phật nên gọi
là đấng Vô thượng (đối với Bồ Tát) Chánh đẳng (đối với Nhị thừa) Chánh giác (đối với phàm
phu tà ngoại). Đây chính là danh từ A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Phật Đà mà các Kinh luôn nói đến.
Và còn cần phải hội ý nghĩa của mười hiệu : Như Lai, Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Như thế mới hiểu
rõ hạnh đức và trí huệ của Đức Phật.
Lòng kính ngưỡng với Đức Phật là điều quan
trọng phải có nơi người niệm Phật. Muốn có lòng kính ngưỡng chơn chánh phải
nhận chơn điểm cao thượng của Phật. Vậy độc giả cần nên tham cứu cho tinh
tường.
Các danh từ trên là đức hiệu chung của chư
Phật. Giờ đây chúng ta luận đến biệt hiệu của Đức Từ
Phụ.
Phạn ngữ Amita. Ta đọc trại A Di Đà, nghĩa là Vô Lượng.
Trong Kinh Di Đà, Đức Bổn Sư từng
vì đại chúng mà định nghĩa hồng danh của Đức Từ Phụ : “Này Xá Lợi Phất ! Đức
Phật đó vì sao hiệu là A Di Đà ? Này Xá Lợi Phất ! Đức
Phật đó quang minh vô lượng, chiếu suốt mười
phương không bị chướng ngại, nên hiệu là A Di Đà. Đức Phật đó
và nhân dân trong nước của Ngài, thọ mạng vô lượng vô
biên a-tăng-kỳ kiếp, nên gọi là A Di Đà”.
Vì quang minh vô lượng và thọ mạng vô
lượng nên trong các Kinh gọi Đức Từ Phụ A Di Đà Phật là Vô Lượng Quang Phật (Kinh Hoa
Nghiêm v.v...) mà cũng có nơi gọi là Vô Lượng Thọ Phật (Kinh Vô Lượng Thọ v.v...).
Trong Kinh “Phật Thuyết Vô Lượng Thọ”, Đức
Bổn Sư bảo ngài A Nan : Đức Phật A Di
Đà có oai thần quang minh tối tôn đệ nhứt, quang
minh của chư Phật không sánh kịp, vì thế nên Đức Phật A Di
Đà có 12 hiệu riêng :
1. Vô Lượng Quang Như Lai
2 Vô Biên Quang Như Lai
3. Vô Ngại Quang Như Lai
4. Vô Đối Quang Như Lai
5. Diệm Vương Quang Như Lai
6. Thanh Tịnh Quang Như Lai
7. Hoan Hỷ Quang Như Lai
8. Trí Huệ Quang Như Lai
9. Nan Tư Quang Như Lai
10. Bất Đoạn Quang Như Lai
11. Vô Xứng Quang Như Lai
12. Siêu Nhật Nguyệt Quang Như Lai
Thập phương Tam-thế Phật
A-Di-Đà đệ nhứt,
Cửu phẩm độ chúng-sanh
Oai-đức vô cùng cực,
Ngã kim đại quy-y.
Sám-hối tam nghiệp tội,
Phàm hữu chư phước thiện,
Chí tâm dụng hồi-hướng.
Nguyện đồng niệm Phật nhơn,
Cảm ứng tùy thời hiện,
Lâm chung Tây-phương cảnh,
Phân-minh tại mục tiền,
Kiến văn giai tinh tấn,
Đồng sanh Cực-lạc quốc,
Kiến Phật liễu sanh-tử,
Như Phật-độ nhứt-thiết,
Vô-biên phiền-não đoạn,
Vô-lượng pháp môn tu;
Thệ nguyện độ chúng-sanh,
Tổng giai thành Phật đạo;
Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng,
Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng,
Tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí.
Nhứt giả lễ kính chư Phật,
Nhị giả xưng tán Như-Lai,
Tam giả quảng tu cúng-dường,
Tứ giả sám-hối nghiệp-chướng,
Ngũ giả tùy-hỉ công-đức,
Lục giả thỉnh chuyển pháp-luân,
Thất giả thỉnh Phật trụ thế,
Bát giả thường tùy Phật học,
Cửu giả hằng thuận chúng-sanh,
Thập giả phổ giai hồi-hướng.
BÀI TỰA
VỀ VĂN “SÁM THẬP PHƯƠNG”
Thập phương Tam-thế Phật
A-Di-Đà đệ nhứt,
Cửu phẩm độ chúng-sanh
Oai-đức vô cùng cực,
Ngã kim đại quy-y.
Sám-hối tam nghiệp tội,
Phàm hữu chư phước thiện,
Chí tâm dụng hồi-hướng.
Nguyện đồng niệm Phật nhơn,
Cảm ứng tùy thời hiện,
Lâm chung Tây-phương cảnh,
Phân-minh tại mục tiền,
Kiến văn giai tinh tấn,
Đồng sanh Cực-lạc quốc,
Kiến Phật liễu sanh-tử,
Như Phật-độ nhứt-thiết,
Vô-biên phiền-não đoạn,
Vô-lượng pháp môn tu;
Thệ nguyện độ chúng-sanh,
Tổng giai thành Phật đạo;
Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng,
Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng,
Tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí.
Bài hồi hướng, “Thập phương” văn chữ Hán vốn là của ngài Đại Từ Bồ Tát soạn ra. Sau
khi tụng Kinh cùng
niệm Phật, tụng bài này cốt để đem bao
nhiêu công đức tụng niệm đều hồi hướng cầu được vãng sanh về Tây phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà. Tụng bài này
phước đức lớn lắm nến từ xưa đến nay, ở nước Ta cũng như nước Tàu, trong các chốn thiền môn, luôn
luôn dùng bài này phổ vào các thời khóa.
Nhứt giả lễ kính chư Phật,
Nhị giả xưng tán Như-Lai,
Tam giả quảng tu cúng-dường,
Tứ giả sám-hối nghiệp-chướng,
Ngũ giả tùy-hỉ công-đức,
Lục giả thỉnh chuyển pháp-luân,
Thất giả thỉnh Phật trụ thế,
Bát giả thường tùy Phật học,
Cửu giả hằng thuận chúng-sanh,
Thập giả phổ giai hồi-hướng.
Còn từ “nhứt giả” đến “thập giả”, là mười điều nguyện rút ra
trong phẩm “Phổ Hiền Hạnh Nguyện” của Kinh Hoa Nghiêm. Trong Kinh mỗi một nguyện ngài Phổ Hiền Bồ Tát vì ngàị Thiện Tài Đồng Tử và chúng hội Bồ Tát mà giảng giải rất rộng, 10 câu
là những câu tổng nêu về mỗi nguyện thôi.
Phàm tụng văn hồi hướng, cần nhứt người tụng phải hiểu rõ nghĩa
lý trong văn, vì có hiểu thời chỗ hồi hướng phát nguyện mới thiết thực, tâm quán
tưởng mới xác thật, công đức mới tăng trưởng. Nếu tụng mà không hiểu chi hết, thời hồi hướng đỏ là hồi-hưởng về đâu ? Phát
nguyện đó là phát
những gì và như thể nào ? Thành ra chỉ có tụng theo lệ suông thôi,
chắc khó thành
tựu công đức được.
Vì lẽ trên đây,
nên tôi không quản tài sơ văn vụng phỏng theo
nguyên văn và y cứ nơi nghĩa
trong Kinh mà dịch cả hai bài ra Quốc văn. Dịch xong lại còn ngại vì trong
sám văn có nhiều nghĩa sâu ẩn, khuất khúc, nên
viết thêm đoạn thích
nghĩa sau đây để giải rõ bổn Quốc văn, ngõ hầu khi tụng đến, tụng chữ hiểu nghĩa, câm
và lý tương ứng khi hiệp, lâu lâu
tinh thuần, thiện căn công đức chắc chắn là vô cùng
vô tận vậy.
HÂN TỊNH TỲ KHEO
Cẩn Chí
Trong khoảng không
gian vô tận, chẳng phải chỉ có nội một cõi Ta Bà của Đức Giáo chủ Thích Ca
Mâu Ni Phật mà chúng ta hiện ở đây thôi, kỳ
thật ngoài Ta
Bà ra còn có vô biên thế giới khác. Phàm hễ có một thế giới thời có một Đức Phật làm Giáo
chủ, thế giới đã có vô
biên thời là có vô lượng chư Phật. Chẳng những hiện tại đây vô biên thế giới ở mười phương (Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam,
Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, trên và dưới) có vô lượng chư Phật, và về thời kỳ quá khứ đã có vô lượng chư Phật và đến thời kỳ vị lai cũng sẽ có vô lượng chư Phật. Nên trong văn nói :
Mười phương chư Phật ba đời.
Trong vô lượng chư Phật ở mười phương ba đời đó, suy ra thời Đức Phật A Di Đà là bậc nhứt.
Về Phật quả thời Phật đồng chứng như nhau, đồng trí viên,
đồng hạnh mãn, đồng đức đủ, đồng nguyện toàn, công
đức của chư Phật đã đồng sao lại nói Phật A Di Đà là bậc nhứt ?. Đây nói
bậc nhứt là cứ nơi ứng Hóa thân của Phật mà so sánh
thôi, chớ không phải nói đến Pháp thân và Báo thân, về Pháp thân
và Báo thân của chư Phật quyết hẳn là đồng, vì hai
thân đó là thật thân quả chứng của chư Phật vậy. Còn ứng Hóa thân
là những thân vì
chúng sanh cảm cách đến Phật mà ứng hóa ra, chúng sanh cơ cảm có sai khác nên thân ứng hóa của chư Phật cũng tùy đó mà sai khác, lại sự sai khác dó
cũng do vì bổn nguyện của chư Phật lúc còn tu
hạnh Bồ Tát không đồng nhau vậy.
về sự thù thắng nơi ứng thân của Đức Phật A Di Đà lược kể về phần đại khái thời có bốn điều :
A. – Quang minh thường chiếu suốt các cõi nước ở mười phương không bị che ngăn,
như trong Kinh
Tiểu Bổn A Di Đà
nói : “Quang minh của Đức Phật đó vô lượng, chiếu các cõi nước ở mười phương không bị chướng ngại nên hiệu A Di Đà”.
Trong Kinh Đại Bổn A Di Đà nói : “Giả sử khi Ta đặng thành Phật mà quang
minh có hạn lượng, ít nhứt là chẳng soi suốt trăm nghìn ức na do tha
cõi nước của chư Phật, thời Ta nguyện không chứng quả Chánh giác”,
(điều nguyên thứ 12 trong 48
điều nguyện).
Còn quang minh nơi ứng thân của chư Phật, phần nhiều có hạn lượng, hoặc chiếu một do tuần, 10 do tuần, 100,
1000,… do tuần, hoặc chiếu 1 thế giới, 10, 100, 1000,… thế giới. Như quang minh nơi ứng thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ chiếu có 1 tầm !
Vì quang minh vô lượng nên Đức Phật A Di Đà có 12 biệt hiệu như trong Đại Bổn Kinh : 1. Vô Lượng Quang. 2.
Vô Biền Quang. 3.
Vò Ngại Quang. 4.
Vô Đối Quang. 5.
Viêm Vương Quang (có
chỗ để Diệm Vương Quang). 6. Thanh Tịnh Quang. 7.
Hoan Hỷ Quang. 8.
Trí Huệ Quang. 9.
Nan Tư Quang. 10.
Bất Đoạn Quang. 11.
Vô Xứng Quang.
12. Siêu Nhựt Nguyệt Quang.
Do đây nên về quang minh thường nơi ứng thân, thời Đức A Di Đà được phần thù thắng trong
hàng chư Phật vậy.
B. Thọ mạng ứng hiện ra đời của chư Phật phần nhiều đều có hạn lượng : hoặc 100 tuổi, 1.000 tuổi… hoặc 1 kiếp, 10 kiếp, 100 kiếp, 1.000 kiếp… như Đức Phật Thích Ca ở đời chỉ có 80 năm.
Còn về ứng thân của Đức Phật A Di Đà,
thọ mạng vô lượng. Trong Tiểu Bổn Kinh nói:
“Đức Phật đó sống lâu vô lượng vô biên
vô số’ kiếp, nên hiệu là A Di
Đà”. Điều nguyện thứ 13 trong Đại Bổn Kinh nói :
“Giả sử khi Ta đặng thành Phật mà thọ mạng có hạn lượng, ít nhứt không được trăm nghìn
ức na do tha
kiếp đó, thời Ta nguyện không
chúng quả Chánh giác”. Nên Đức Phật A Di Đà
cùng hiệu là Vô Lượng Thọ Phật.
Đây là thọ mạng của Đức Phật A Di Đà có phần thù thắng trong
hàng chư Phật vậy.
C. Về phần đồng cư nơi Cực Lạc, là cõi nước của Đức Phật A Di Đà cực kỳ trang
nghiêm, thuần vui thanh tịnh, tuyệt không có mảy may khổ não, như trong Đại Bổn Kinh, Tiểu Bổn Kinh và
Quán Kinh đã rộng thuật.
Lai trong bộ Yếu Giải nói: “Cực Lạc đồng cư, tứ độ viên dung:
thọ lạc viên dung
– Ở nơi đồng cư độ (cõi phàm)
mà viên kiến cả ba bộ trên (3 cõi Thánh : Phương Tiện độ, Thật Báo độ, Thường Tịch Quang độ – cõi trước là cõi của Nhị thừa Thánh nhơn, kế là cõi của đại Bồ Tát, sau rốt là cõi của Đức Phật).
Chứ so với các cõi
khác, như Ta Bà chẳng hạn, nơi chúng ta đồng sống đây chính
là Đồng Cư độ của cõi Ta Bà vậy thời lại đủ thứ uế nhơ, nào tam khổ, bát vô lượng đều khổ sở ngũ trược… lại hạng phàm phu
không thể dự phần nơi cảnh Thánh.
Đây là cõi Đức Phật A Di Đà, về phần Đồng Cư độ có phần đặc biệt trong các cõi nước ở mười phương vậy.
D. -Nhân dân trong nước của Đúc Phật A Di Đà dầu là phàm,
nhưng cũng đều trụ bậc “Bất thối chuyển”, nghĩa là
ở vào địa vị thẳng mải đến thành Phật, không còn
ngưng trệ lui sụt. Nói chi
các bậc Thánh !
Trong hàng Thánh của nước Cực Lạc, cứ về bậc “Nhất sanh bổ xứ Đồ Tát” như ngài Quán
Âm, Thế Chí, hay như là Di Lặc, số nhiều vô hạn, huống là bậc Thập địa, Địa tiền cùng Thanh Văn Duyên Giác ! -Trong Tiểu Bổn Kinh nói :
“Nơi nước Cực Lạc, chứng sanh nào
sanh về đó đều là bậc Bất thối chuyển. A La Hán
và Bồ Tát đều đồng vô lượng vô biên,
không thể tính đếm mà biết được, chỉ có thể gượng nói vô lượng vô biên
vô số thôi”.
Bậc Thánh
trong cõi khác hoặc là có số hạn, như cõi Ta Bà
có 62 ức hằng hà sa vị Bồ Tát..
Lại nhân dân nơi Cực Lạc tuổi thọ đồng với Phật, nghĩa là vô lượng, như Tiểu Bổn Kinh nói : “Thọ mạng của Đức Phật đó và thọ mạng của nhân dân của Ngài, vô lượng, vô biên,
vô số kiếp”.
Đấy là nhân
dân, La Hán, Bồ Tát của Đức Phật A Di Đà có phần đặc thắng trong các
cõi nước mười phương vậy.
Vì những phần đặc thắng trên đây,
nên trong văn nói :
Mười phương chư Phật ba đời, Di Đà bậc nhứt
Đối với chúng sanh, Đức Phật A Di Đà có
nguyện lực độ sanh rất lớn. Nguyện lực đó rõ ràng
nhứt là đã nêu
bày trong 48 điều nguyện của Ngài: những nguyện độ khắp Thánh phàm
trong mười phương ! Lại trong Quán
Kinh có câu: “Phật tâm đó là lòng đại từ bi vậy dùng Vô
duyên từ nhiếp độ các chúng
sanh”. Kinh lại nói : “Đức Vô Lượng Thọ Phật có 84.000
tướng, trong mỗi tướng đều cố 84.000 tùy
hình hảo, trong mỗi hình hảo lại có 84.000
ánh sáng, mỗi ánh sáng chiếu khắp các cõi nước ở mười phương. Ánh sáng này nhiếp thọ chúng sanh
niệm Phật không lìa
bỏ”.
Đức Phật A Di Đà có
lòng từ, nguyện lớn, phóng
quang minh tiếp độ chúng sanh không lìa bỏ, nên trong
văn nói:
Di Đà bậc nhứt chẳng rời quần sanh.
Do nguyện lực của Đức Phật A Di Đà, nên những người được sanh về cõi Cực Lạc của Ngài đều từ trong hoa
sen báu nơi ao thất bảo mà hóa
sanh, nghĩa là mượn hoa sen làm bào thai mà cho thân hình.
Đó gọi là “Liên
hoa thanh tịnh hóa sanh”, cũng có câu “Liên hoa vi
phụ mẫu”. Vì người vãng sanh
về đó nơi trí có cao thấp, nơi phước có nhiều ít không đồng nhau, nên
hoa sen là chỗ thác sanh cũng có nhiều hạng, đại khái chia
làm 9 phẩm:
1. Thượng phẩm thượng sanh.
2. Thượng phẩm trung sanh.
3. Thượng phẩm hạ sanh (ba phẩm này thuộc bậc Đại thừa Bồ Tát).
4. Trung phẩm thượng sanh.
5. Trung phẩm trung sanh
(2 phẩm đây thuộc hàng Nhị thừa Thánh nhơn).
6. Trung phẩm hạ sanh (1 phẩm đây thuộc hàng có
công đức lành ở đời).
7. Hạ phẩm thượng sanh.
8. Hạ phẩm trung
sanh.
9. Hạ phẩm hạ sanh (3 phẩm này thuộc về hạng người tạo ác nghiệp).
Cứ nơi chín phẩm trên đây, thời thấy rằng từ bậc Đại thừa Bồ Tát, Nhị thừa Thánh nhơn, người lành tốt trong đời cho đến kẻ tạo ác nghiệp, phạm ngũ nghịch thập ác v.v… mà có gia công niệm Phật, thời đều được vãng sanh
về cõi Cực Lạc cả (trừ người hủy báng Tam Bảo).
Đức Phật A Di Đà sẵn đức từ bi nguyện lực, dùng chín
phẩm liên hoa
báu để chờ tiếp dẫn chúng sanh
nào muốn sanh về nước của Ngài; nên
trong văn nói :
Sen vàng chín phẩm sẵn dành.
Oai lực linh thông của Phật vô cùng, đức lành của Phật vô cực. Trí quang
chiếu phá sự mê tối của chúng sanh
khắp mười phương, đó là “oai lực”. Chúng
sanh niệm Phật, thời liền hộ niệm giữ gìn cho được an ổn không thối không thất, và hiện vô lượng thân đến khắp vô lượng thế giới để tiếp dẫn chúng sanh
về cõi Cực Lạc. Đây là
“linh thông”
Tâm của Phật không phút
nào quên chúng sanh, như cha mẹ hiền nhớ còn thương con. Lại không công đức nào mà Phật không hoàn
mãn đây là “đức lành”. Như Tiểu Bổn Kinh nói: “Nếu có người thiện nam, người thiện nữ nghe nói đến Đức Phật. A Di Đà rồi hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày,
hoặc ba ngày,
hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày,
hoặc sáu ngày,
hoặc bảy ngày, chấp trì danh
hiệu nhứt tâm bất loạn. Người này đến lúc lâm
chung, Đức Phật A Di Đà và hàng Thánh chúng hiện ra nơi trước, người lúc chết tâm hồn không điên đảo, liền đặng vãng sanh
về nước Cực Lạc của Phật A Di Đà”.
Kinh Lăng Nghiêm có câu : “Các Đức Như Lai trong mười phương thương nhớ chúng sanh
như mẹ nhớ cọn”. Lại có câu :
“Người nào niệm danh hiệu Phật, thời hào quang của Phật chiếu đến người đó, làm
cho. các sự tai vạ tà ma, quỷ quái không
đến gần được”.
Oai lực linh thông
của Phật vô cùng, đức dày của Phật lại vô cực nên văn
nói:
Oai linh đức cả đã dành vô
biên.
Từ đây nhẫn lên là giải một đoạn 4 câu kệ về phần tán thán
công đức của Phật:
Mười phương chư Phật ba đời.
Di Đà bậc nhứt chẳng rời quần sanh.
Sen vàng chín phẩm sẵn dành.
Oai linh đức cả đã dành vô biên.
Comments
Post a Comment