CHUNG LY CẨN


Biết được Di Đà, A Di Đà, A Di Đà!
Không biết Di Đà, làm sao mà, làm sao mà?
Không biết Di Đà, Di Đà ngoài phương Tây xa
Biểt được Di Đà, Di Đà chỉ tại nhà ta!


CẢNH DUNG 



Cư sĩ Chung Ly cẩn, người đời Tống, quê ở cối Kê. Bà mẹ là Nhậm phu nhơn tinh tu Tịnh độ, khi lâm chung khuyến tấn ông gắng niệm Phật. Chung Ly Cẩn từ đó cảm ngộ tu hành, nguyện mỗi ngày kiêm làm hai mươi điều thiện.

Sau ông làm quan ở Triết Tây, hằng cùng ngài Tuân Thức ở chùa Từ Vân luận về chỉ yếu vãng sanh, sự tu hành lại càng tinh tấn. Nhậm phu nhơn có lưu lại tượng Phật bằng gỗ chiên đàn, mà thường đội trên đầu để hành đạo, cư sĩ cũng tiếp tục noi theo gương của mẹ. Một hôm khi ông đang chiêm lễ, nơi giữa đôi mày của tượng Phật bỗng buông tuôn ra mấy hột Xá lợi.

Không bao lâu, ông được thuyên chuyển làm Tri phủ ở Khai Phong. Đêm nọ, vào lúc canh ba, cư sĩ bỗng thức dậy gọi người nhà bảo rằng: “Mẹ ta về báo mộng, bảo giở vãng sanh đã đến”. Đoạn, ông dạy nấu nước tắm gội, thay y phục, ngồi kiết già niệm Phật mà qua đời. Trước đó một ngày, cả nhà đều mộng thấy Chung Ly Cẩn ngồi trên hoa sen xanh, nhạc TRời vi nhiễu, nương nơi hư không mà bay về Tây.

Sau khi cư sĩ mãn phần, con ông là Cảnh Dung làm quan đến chức Triều thỉnh đại phu, cũng thường tụng kinh Quán Vô Lượng Thọ, tu Niệm Phật tam muội. Không bao lâu, CẢNH DUNG từ quan, về cất am tranh ở nơi vườn đông tu niệm. Ông từng nói kệ rằng:

 

Biết được Di Đà, A Di Đà, A Di Đà!
Không biết Di Đà, làm sao mà, làm sao mà?
Không biết Di Đà, Di Đà ngoài phương Tây xa
Biểt được Di Đà, Di Đà chỉ tại nhà ta!

 

Một đêm, Cảnh Dung thỉnh vị tăng là Diệu Ứng tụng phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện. Ông ngồi nghe xong, khi cây hương vừa tàn, thì hai tay kiết ấn mà hóa.

Cháu nội của Chung Ly Cẩn là Tôn Tùng, ngụ ở Tô Châu, cùng Bảo Tích đại sư kiết liên xã niệm Phật. Sau Tôn Tùng cũng không bịnh, ngồi kiết già hướng về Tây chắp tay niệm Phật mà vãng sanh.

Comments

Popular posts from this blog