CHÂU HOẰNG ĐẠI SƯ
Hai chục năm qua việc đáng nghi
Ngoài ba ngàn dặm gặp sao kỳ!
Đốt hương, liệng kích dường như mộng
Ma, Phật, tranh suông lẫn thị phi!
I. XÓA SỰ HIẾU DƯỠNG THEO ĐỜI
Công sanh dưỡng
Biển thẳm non cao
Gấm vóc trân tu đáp được nào?
Cha mẹ ữa trần cấu
Đạo con mới thành tựu!
Ôi chà chà!
Giải thoát xuất trần nhân lớn lao
Phàm tình đâu đã hiểu!
Cháu hiền cùng con thảo
Chân không, lẽ diệu mau tham cứu!
Bởi thế nên đem
Năm sắc kim chương xóa sạch làu!
II. XÓA TÌNH VỢ CHỒNG ÂN ÁI
Vợ chồng duyên đẹp
Loan phượng mến yêu
Mối giây ân ái thuở nào tiêu?
Mộng tình theo lẽo đẽo
Duyên hết lìa đôi nẻo!
Ôi chà chà!
Vấn vương vui hết lại buồn đau
Tam đồ thêm khổ não!
Xét rõ phá oan gia
Tìm cửa đạo mầu mau thoát tháo.
Bởi thế nên đem
Cá nước duyên kia xóa sạch làu!
III. XÓA LÒNG QUYẾN LUYẾN CON CHÁU
Cháu con đeo đẳng
Như thịt bứa thừa.
Vì con cháu chịu kiếp trâu lừa!
Họ Đậu non Yên xưa
Ngày nay đâu còn nữa?
Ôi chà chà!
Nghĩ lo trăm kế lại ngàn mưu
Cũng về nơi Ô hữu!
Trở lại tánh Bản lai
Dầu rằng vạn kiếp trường xuân hảo!
Bởi thế nên đem
Con cháu kim lan xóa sạch làu!
IV. XÓA BỎ NIỆM CÔNG DANH
Công danh khoa bảng
Riêng chiếm ngao đầu
Vui mừng đắc ý buổi thanh thu!
Ấn vàng ngời tinh đẩu
Danh đẹp thơm trường cửu
Ôi chà chà!
Bao nhiêu thanh thiếu những mong cầu
Tóc xanh thành bạch thủ!
Khi tỉnh giấc hoàng lương
Một tiếng cười khan đời mộng ảo!
Bởi thế nên đem
Quý hiển công danh xóa sạch làu!
V. XÓA BỎ SỰ THAM SANG GIÀU
Của tiền giàu có
Xe ngựa nhà lầu.
Lẫy lừng thanh thế sánh vương hầu.
Khi cầu nhiều kiếp khổ
Lúc được lo nghiêng đổ!
Ôi chà chà!
Đạm thanh biết đủ thắng trân tu!
Áo gai dường cẩm tú!
Khoảng trời đất tiêu dao
Nhà rộng của nhiều đâu đủ báu?
Bởi thế nên đem
Tài sản điền viên xóa sạch làu!
VI. XÓA TÂM MÊ ĐẤM SẮC TÀI
Cầm kỳ văn họa
Tài sắc phong lưu
Gieo vàng tỏ ngọc vẻ tươi mầu!
Cờ thi hòa rượu đấu
Cầm ca dìu dặt tấu!
Ôi chà chà!
Gấm hoa xán lạn suốt canh thâu
Nhã nhạc lừng ngưu đẩu!
Già chết chợt đến nơi
Cấp cứu trầm luân ai đảm bảo?
Bởi thế nên đem
Tài sắc văn chương xóa sạch làu!
VII. XÓA TÁNH ƯA THÍCH DU NGOẠN
Dạo chơi thắng cảnh
Thu đẹp xuân kiều!
Túi thi đàn rượu khắp ngao du!
Non nước vài thân hữu
Mưa khói mờ hoa liễu!
Ôi chà chà!
Ráng hồng suối bạc sánh phong lưu
Đâu nghĩ ngày mai hậu?
Sáng tối thoáng qua mau
Thảng thốt quay đầu suy, bịnh, lão!
Bởi thế nên đem
Phong nguyệt tình vui xóa sạch làu!
Châu
Hoằng đại sư, tự Phật Huệ, hiệu Liên Trì, người đời Minh, con nhà họ Trầm, ở xứ
Nhân Hòa tại Hàng Châu. Năm mười bảy tuổi ngài đã được bổ làm Giáo thọ, nổi tiếng
là người học hạnh kiêm toàn.
Láng giềng có bà lão, mỗi ngày niệm Phật
vài ngàn câu, lấy làm thường khóa. Nhân lúc rỗi rảnh sang chơi, ngài hỏi duyên
cớ, bà đáp: “Ông nhà tôi lúc sanh tiền chuyên lo niệm Phật, đến khi chết, không
đau bịnh chi, vui vẻ vòng tay cáo từ mọi người mà qua đời. Do đó, tôi biết công
đức niệm Phật không thể nghĩ bàn!” Ngài nghe nói cảm động, từ đó hằng để ý đến
pháp môn Tịnh độ. Lại viết bốn chữ: “Sống chết việc lớn” dán nơi vách đầu bàn đệ
tự răn nhắc.
Năm ba mươi hai tuổi, ngài xuất gia, rồi
đi tham phỏng các bậc danh đức. Sau cùng đến học đạo với Tiếu Nham Nguyệt Tâm
thiền sư, tham câu “Niệm Phật là ai?”. Một hôm, đang đi tham cứu bỗng chợt tỉnh
ngộ. làm bài kệ rằng:
Hai chục năm qua việc đáng nghi
Ngoài ba ngàn dặm gặp sao kỳ!
Đốt hương, liệng kích dường như mộng
Ma, Phật, tranh suông lẫn thị phi!
Niên hiệu Long Khánh thứ năm, Đại sư đi
khất thực ngang qua đỉnh Vân Thê, thấy cảnh nước non cực kỳ u nhã, quyết ý cất
am ở tu. Trong núi ấy có nhiều cọp, ngài hành phép Du Già thí thực, từ đó các
loài thú dữ không còn khuấy hại nữa. Mấy năm sau, gặp lúc nắng hạn lâu, cư dân
quanh vùng đến am cầu xin đảo võ. Ngài đáp: “Tôi chỉ biết niệm Phật, không có
tài chi khác!”. Mọi người vẫn nài nỉ cố thỉnh. Đại sư cảm lòng thành của dân
chúng, ra thảo am gõ mõ đi dọc theo bờ ruộng mà niệm Phật. Bước chân của ngài
đi đến đâu, mưa lớn rơi theo đến đó. Nhân dân vui mừng kính đức, cùng nhau hiệp
xây cất điện chùa. Tăng chúng các nơi lần lượt nương về, không bao lâu chỗ ấy
thành cảnh đại tòng lâm trang nghiêm thanh tịnh.
Đại sư tuy đã tỏ thiền cơ, nhưng xét thấy
căn lực người thời mạt pháp kém yếu, kẻ nói lý thì nhiều song ngộ lý thật rất
ít. Vì muốn lợi mình và người, nên ngài chủ trương Tịnh độ, cực lực bác bỏ cuồng
thiền. Bộ Phật Thuyết A Di Đà Kinh Sớ Sao do ngài trứ tác, dung hòa cả sự lý, gồm
nhiếp khắp ba căn, lời dẫn giải rất là uyên áo. Về trước, các bậc Tôn đức trong
Phật giáo, tuy hoằng truyền Tịnh độ, nhưng vẫn không bỏ Thiền tông đến phiên Đại
sư là người được chánh truyền tâm ấn từ ngài Tiếu Nham thuộc dòng Lâm Tế, lại
chỉ hoằng dương Tịnh độ. Vì thế, các nhà thiền học đường thời rất không bằng
lòng. Ông Tào Lỗ Xuyên, một vị học Phật, hai phen gởi thư đến Vân Thê gạn hỏi.
Ngài cũng hai phen phúc đáp mà vài đoạn có liên quan đến Tịnh độ, sẽ được trích
thuật ở phần sau.
Đại sư bình thời cũng tu các công đức để
phụ trợ tịnh nghiệp, nhưng truyền giới pháp, khai những ao phóng sanh. Ngài lại
thẩm định nghi Thủy Lục, hành Du Già Diệm Khẩu để cứu khổ u minh, truyền bá văn
giới sát, khiến người quy hóa làm lành rất nhiều.
Năm Vạn Lịch thứ bốn mươi, cuối tháng 6,
Đại sư vào thành từ biệt các đệ tử và những người cố cựu, nói: “Tôi sắp đi nơi
khác!.” Rồi ngài trở về chùa thiết tiệc trà từ giã đại chúng. Mọi người không
hiểu là duyên cớ gì. Đến chiều mùng một tháng bảy, ngài vào Tăng đường bảo:
“Mai này tôi sẽ đi”.
Qua chiều hôm sau, đại sư kêu mệt rồi vào tư thất ngồi kiết già nhắm mắt. Chư Tăng, các đệ tử tại gia và những người cố cựu trong thành đều hội đến. Ngài mở mắt ra nhìn mọi người nói: “các vị nên chân thật niệm Phật, đừng làm điều chi khác lạ, và chớ phá hoại quy củ của tôi”. Nói xong, hướng về Tây chấp tay niệm Phật mà qua đời. Thọ được tám mươi mốt tuổi.
PHỤ VẤN ĐÁP
(Lược trích)
Thơ hỏi: – Kẻ
hèn nầy từ lâu giữ miền Đông Lỗ, đối với các kinh điển Nho và Phật, đã làm con
mọt sách từ bốn mươi năm qua. Lại thường phụng giáo với những hàng thức giả,
cũng uẩn súc được đôi phần. Nay nhân sư Đoạn Phàm đến Vân Thê, xin gởi mấy lời
để mong sự hiệu chính nơi ngài là bậc thiện tri thức.
1. Trong Phật pháp có ba tạng, mười hai
phần giáo, đức Thế Tôn khi xưa đan giăng nhiều thứ lưới nơi bể sanh tử sâu rộng,
để tùy phần vớt các loài cá nhơn thiên lớn nhỏ đưa lên bờ Niết Bàn. Nhưng nên
nói lớn để gồm nhỏ, đâu thể cử một mà bỏ nhiều! Gần đây, tôi nghe có kẻ bảo:
nhiều kiếp thành Phật, tất là Tiệm chớ không phải Đốn. Vả Tiệm giáo cũng là Phật
dạy, chưa từng không đúng, song dùng Tiệm để bỏ Đốn giáo, phải chăng thật đã
sai lầm?
Tôn giả bên trong ẩn dấu sự tỏ ngộ đốn
viên, ngoài thì hiển bày pháp môn Tịnh độ. Việc nầy chư Phật cũng có như thế,
không đủ để hiềm nghi. Nhưng học chúng của ngài lại chỉ trọng một đức A Di Đà
mà bỏ hết mười lăm vì Vương tử, muốn tôn một kinh Tịnh độ mà bỏ hết ba tạng mười
hai phần kinh. Đó là điều kẻ hèn nầy không muốn nghe! Hiện nay tuy nhằm thời mạt
pháp, song con người há chỉ có độn tánh mà không lợi căn? Như đức Thích Tôn vì
Ca Diếp, Kiều Trần Như thì nói pháp nầy; vì Thiện Tài, Long Nữ lại nói pháp
khác. Chỗ thuyết giáo của Phật tùy cơ biến đổi, thật tròn trặn như trên mặt nước
lăn trái hồ lô, nếu như cắm cọc đóng đinh, giữ cây chờ thỏ, làm sao lợi ích
hàng nhơn thiên được? Rất mong Tôn giả tùy cơ thuyết pháp, khi gặp hàng lợi căn
nên vì nói thượng thừa, để họ ngộ lý viên dung không còn thiên trệ kiến, cho đại
bàng cùng chim én đều được thích nghe. Như thế há chẳng là điều rất lành rất tốt
ư?
2. Kinh Hoa Nghiêm là Nhứt thừa viên
giáo, là vua trong các kinh. Trong bộ Di Đà Sớ Sao, Tôn giả lại đem kinh Di Đà
sánh với Hoa Nghiêm, điểm ấy tợ hồ chưa thỏa đáng. Đã thế, có người lại còn
nhân đó mà làm luận đưa cao tịnh độ, đè nén Hoa Nghiêm, khiến cho màu tím sắc
chu thành ra lẫn lộn! Mong Tôn giả vì căn Tịnh độ nói Tịnh độ, với cơ Hoa
Nghiêm nói Hoa Nghiêm, đừng chê nhau cũng chớ lạm nhau, mới thật là lưu thông
Phật pháp.
Thơ đáp: – Tiếp
được tờ mây, biết cư sĩ đại lượng bao la, muốn đem hết chúng sanh trong pháp giới
đưa vào biển tánh nhứt thừa. Đó là nguyện lớn của đức Phổ Hiền, riêng lòng thật
lấy làm kính ngưỡng!
1. Theo lời cư sĩ bảo: tôi nên tùy cơ
diễn giáo, đó là ý kiến rất hay! Nhưng tùy muôn cơ mà dẫn dạy, đó là việc của
chư Phật ra đời. Điều ấy kẻ hèn này chưa làm được. Như khi xưa Lục Tổ ở Tào Khê
chuyên dạy môn thiền Trực Chỉ, đâu phải ngài không thông các giáo pháp khác? Và
như Viễn Công ở Lô Sơn riêng mở Bạch Liên Xã, gồm các bậc cao tăng danh sĩ, há
chỉ tiếp độ kẻ độn căn? Đến như năm tông: Vân Môn, Pháp Nhãn, Tào Động, Quy Ngưỡng,
Lâm Tế, tuy đồng ra một nguồn, nhưng sự tiếp độ của mỗi tông đều có phần sai
khác. Những điều trên là sự thi thiết riêng của chi phái môn đình, đó cũng là lẽ
tất nhiên, chẳng lấy làm chi lạ! Chư Tổ sư khi xưa đều như thế, huống nữa là kẻ
phàm thường nầy ư? Nếu không tự lượng bắt chước theo Phật, nay nói pháp nầy,
mai diễn pháp khác, thì thành ra mờ mịt chẳng có sư thừa. Đó tuy nói là lợi người,
kỳ thật làm cho người lầm lạc. Tại sao thế? Bởi Phật là đấng pháp vương, đối với
các pháp đều tự tại. Còn kẻ dân thường mà tiếm xưng thiên tử là điều nguy hiểm,
há chẳng nên kiêng dè ư?
2. Kinh Hoa Nghiêm đúng là Nhứt thừa
viên giáo, gồm vô lượng môn: cầu sanh Tịnh độ là một trong vô lượng môn của Hoa
Nghiêm. Theo căn cơ thời nay, nên do một Tịnh độ mà vào Hoa Nghiêm, không phải
nêu Tịnh độ mà bỏ Hoa Nghiêm. Cư sĩ bảo do tôi đem kinh Di Đà sánh với Hoa
Nghiêm, nên mới có kẻ làm luận đưa cao Tịnh độ, đè nén Hoa Nghiêm. Xin hỏi bộ
luận ấy ở đâu, do ai trứ tác? Nhưng tôi cũng chưa từng đem kinh Di Đà sánh
ngang với Hoa Nghiêm. Trong văn sớ sao của tôi chỉ nói: “Kinh Hoa Nghiêm cực
viên, kinh Di Đà được một ít phần viên”. Đó là chỉ bảo kinh Di Đà chỉ thuộc một
phần pháp quyến của Hoa Nghiêm, có chi gọi rằng đồng bậc? Vả lại khi nói Hoa
Nghiêm, đã gồm Tịnh độ, và nói Tịnh độ cũng thông với Hoa Nghiêm. Thế thì kẻ diễn
Hoa Nghiêm tự nói Hoa Nghiêm, người nói Tịnh độ tự diễn Tịnh độ, vẫn đồng hành
mà không trái nhau. Người thời nay chỉ biết Hoa Nghiêm rộng hơn Cực Lạc, song
không rõ đức Di Đà chính là Phật Giá Na. Ngài Long Thọ truyền bá kinh Hoa
Nghiêm mà nguyện sanh Cực Lạc. Đức Văn Thù, Phổ Hiền đồng phụ tá Phật Tỳ Lô Giá
Na, hiệu là Hoa Nghiêm Tam Thánh, cũng phát nguyện về cõi Liên bang. Cư sĩ
khuyên tôi vì căn Tịnh độ nói Tịnh độ, với cơ Hoa Nghiêm nói Hoa Nghiêm. Xin hỏi
các ngài Văn Thù, Phổ Hiền, là bậc người nào? Những vị Bồ Tát ấy niệm Phật cầu
sanh Tịnh độ, là căn Tịnh độ hay Hoa Nghiêm? Cư sĩ lâu nay vẫn truyền dương
kinh Hoa Nghiêm, mà trái với đức Văn Thù, Phổ Hiền, Long Thọ là điều tôi chưa
hiểu nổi!
Thật ra, cư sĩ với tôi đều là bạn lành
trong Hoa Tạng thế giới. Nay lão hủ lại muốn mời cư sĩ cùng làm huynh đệ ở Liên
bang. Mong cư sĩ xét suy, đừng xem tôi là người bên ngoài vậy.
Thơ Hỏi: – Đại
đức Đoạn Phàm có đem về thơ phú đáp của Tôn giả. Duyệt xem, thấy lời và ý ân cần,
thật rất cảm lòng chiếu cố! Nhưng nỗi riêng chưa tỏ hết, còn xin có mấy điểm
trình bày:
1. Kinh Pháp Hoa, trong phần khen
công đức thọ trì có dẫn: “Nếu người nữ nào thọ trì phẩm này sẽ thoát hẳn nữ
thân, sanh về Cực Lạc”. Như thế sự vãng sanh Tịnh độ, phải chăng là nhân quả
của nữ nhơn? Lại nữa, kinh Lăng Nghiêm trong phần tuyển lựa viên thông, đức Văn
Thù đã bác môn Niệm Phật của ngài Thế Chí là vô thường, sanh diệt. Vậy ý Tôn giả
nghĩ thế nào?
2. Tề Kỷ thiền sư, khi các học giả đọc
đến hai câu kệ của ngài Thiện Đạo: “Duy có đường tắt tu hành. Chỉ niệm A Di Đà
Phật” đã quát to: “Vẫn còn quanh lỗi cũ, niệm được cái gì?” Thiền sư lại bảo:
“Y như trước bỏ cha trốn đi, lưu lạc tha phương, khổ thay A Di Đà Phật!” Lời của
một bậc ngộ đạo nói như vậy, há không có ý vị ư?
3. Bởi thế bậc thức đạt đã bảo: “Trải
nhiều kiếp cần khổ tu hành không bằng một niệm ngộ Vô sanh pháp nhẫn”. Người
trí cần phải vượt khỏi môn quyền học tam thừa, không còn ngã và ngã sở. Nay sự
vãng sanh Tịnh độ, ta là người hay sanh Cực Lạc là chỗ sanh về, thì năng, sở,
người, cảnh còn phân biệt rõ ràng, đâu gọi là cứu cánh?
4. Nếu như nói: “Hoa nở thấy Phật ngộ
vô sanh”. Đây tất phải đợi sau khi vãng sanh thấy đức Di Đà mới được ngộ đạo,
phải chăng là quá chậm trễ xa vời?
5. Trong thơ trước, tôi đã khuyên tôn
giả “Vì căn Tịnh độ nói Tịnh độ, với cơ Hoa Nghiêm nói Hoa Nghiêm” thật đã vì
ngài mà tỏ bày hết tâm não. Tôn giả lại không lưu ý, nên vừa rồi thính chúng
nơi pháp hội của ngài từ Hàng Châu sang đất Tô, vị nào cũng nôn nao cầu về chín
phẩm. Nhân khi cùng nói chuyện, tôi vừa đề cập đến thượng thừa thì họ đều sửng
mắt kinh lòng! Đó là lỗi của thầy, hay của hàng đệ tử? Đấng đại trượng phu khí
lượng phải xung thiên, nay ngài đã ra ứng thế, mở pháp đường, lên giảng tọa,
sao không đủ tác lược của bậc đại nhơn, mà chỉ bắt trước hành động những ông
già bà cả ăn chay ở đầu làng xóm ngõ? Nếu một mai bị bậc lanh lợi thông suốt hỏi
đến, sẽ toan ẩn mình trên sao Bắc Đẩu, hay chui thân vào núi Thiết Vi ư?
6. Thế thì việc Tôn giả muốn vời tôi
cùng làm bạn sen nơi Cực Lạc, khác nào bảo kẻ nầy gánh gai bỏ vàng, đuổi theo vật
mà chạy vào mê lộ? Há chẳng nghe nói: Nếu là chim Đại bàng kim súy, mới dương
cánh đã vượt cao chín tầng mây; ngựa Nhiếp ảnh thần câu, vừa cất vó đã ra ngoài
vạn dặm. Hạng nầy không còn theo thứ lớp mà ăn uống, cũng không tùy tiện chịu
vùi thân. Người xưa bảo: “Nếu muốn cứu cánh việc ấy, phải đứng trên chót vót đỉnh
non cao, đi sâu tận lòng đáy biển thẳm. Như chưa bỏ được sự êm ấm của khuê
phòng, thì có chỗ nào dùng được!”
Cho nên, Phật pháp là việc lớn, không phải
phàm thường. Mong ngài nghĩ lại!
Thơ Đáp: – Mấy
điều huệ cố của cư sĩ, lời hay lẽ diệu, luận biện điệp trùng, thật là đáng ngợi
khen, đáng ngưỡng vọng. Nhưng trộm nghĩ: lòng thương tôi tuy sâu, song tiếc đã
lắm lời phí uổng!
Nếu cư sĩ quả muốn tuyên dương Thiền
tông, ức chế Tịnh độ, thì không cần nói chi nhiều. Sao chẳng bảo: “Chư Phật
trong ba đời bị miệng ta nuốt mất hết cả. Một đức Phật còn chẳng lập, có ai là
A Di Đà?” Lại sao không bảo: “Nếu người biết được tâm, đại địa không tấc đất. Một
tấc đất đã không, nơi nào là cõi Cực Lạc?” Chỉ dùng hai lời ấy thôi, đủ gồm hết
những điều cư sĩ muốn nói. Nay nghĩ nếu mỗi mỗi thơ đáp, e phạm lỗi đấu tranh.
Nếu hẳn không trả lời, vì đạo pháp có tương quan, lại chẳng thể im lặng. Vậy
xin tỏ bày ước lược như sau:
1. Cư sĩ dẫn kinh Pháp Hoa, nói sự
vãng sanh Tịnh độ là nhân quả của người nữ. Thế thì việc Long Nữ thành Phật,
cũng là nhân quả của người nữ ư? Lại dẫn kinh Lăng Nghiêm nói: đức Văn Thù bác
niệm Phật là vô thường, sanh diệt, không viên thông. Thế tại sao ngài Kiều Trần
Như tỏ ngộ hai chữ KHÁCH TRẦN có
thể gọi là suốt lý vô thường, hợp lẽ bất sanh diệt, lại chẳng được trọn là pháp
viên thông? Nếu quả thật:, đức Quán Âm đỗ cao, ngài Thế Chí thi rớt, thì sao cư
sĩ chẳng nghe biết điều thí dụ: “cửa rồng chạm trán” là lời của kẻ quê mùa miền
Đông dã ở nước Tề?
2. Về những điều của Tề Kỷ thiền sư bảo,
cư sĩ đã học Thiền, sao chẳng biết đó là những nhà tông sư vì người cởi chấp mở
trói, ý ở ngoài lời, lại cứ theo văn tự hiểu thành sự thật, mà chịu chết dưới
câu nói như thế? Nếu quả vậy, thì cổ đức bảo: “Đạp trên đỉnh đầu Phật Tỳ Lô mà
đi”, cũng là đạp thật sự hay sao? Những cơ phong ấy trong các Ngữ lục có ngàn
muôn ức. Lão hủ bốn mươi năm về trước cũng đã từng dùng đến để cho lời nói cao
siêu xuất cách, câu văn mạnh mẽ hùng hào. Về sau xét lại biết hổ thẹn, không
còn dám theo lề lối cũ, nay chợt nghĩ đến hãy còn đỏ mặt. Như Tề Kỷ thiền sư
nói: “Y như trước bỏ cha trốn đi, lưu lạc tha phương, khổ thay A Di Đà Phật!”
Xin cũng dùng chuyên ngữ đối đáp: “Nay chính thật như con nhớ mẹ, trở lại quê
xưa, vui thay A Di Đà Phật!” Thử đem cân lường câu nói nầy với lời ngài Tề Kỷ,
xem bên nào ít nhiều nặng nhẹ, và có bao khoảng cách xa?
3. Trong thơ lại dẫn lời cổ nhơn bảo:
“Trải nhiều kiếp cần khổ tu hành, không bằng ngộ một niệm Vô sanh pháp nhẫn”.
Xin hỏi: “Cư sĩ đã chứng được Vô sanh pháp nhẫn chưa?” Nếu chứng được thì không
nên cho rằng: Ta là người hay sanh Tịnh độ là chỗ sanh về. Tại sao? Bởi tâm tức
là cảnh, ai là người hay sanh? Cảnh tức là tâm, đâu là chỗ được sanh? Vì không
còn thấy năng sở, nên tuy vãng sanh mà chưa từng có sanh. Đó mới là chân vô
sanh. Nếu cho không sanh về đâu mới là vô sanh, thì thành ra lỗi đoạn diệt,
thiên (lệch) không vậy.
4. Cư sĩ bảo: Nếu đợi hoa nở thấy Phật
mới ngộ vô sanh là chậm trễ xa vời. Kẻ hiểu thiền tông sao chẳng biết: từ mê được
ngộ như giấc chiêm bao dài mới thức tỉnh? Người niệm Phật tùy theo căn cơ, có vị
trong hiện đời đã kiến tánh. Đó là hoa sen nở trong giây phút. Có kẻ sau khi
vãng sanh mới kiến tánh. Đó là hoa nở về lâu. Bởi căn cơ có sáng tối, công
phu có trễ siêng, nên hoa nở mới có sớm muộn, đâu được nhất khái cho là sai chậm
ư?
5. Trong thơ còn đề cập đến mấy vị
tăng ở núi hoang nào đó, khi hỏi tới thượng thừa thì đều sửng mắt kinh lòng! Cư
sĩ khuyên tôi với căn Hoa Nghiêm thì nói Hoa Nghiêm, với cơ Tịnh độ thì đàm Tịnh
độ. Nay những kẻ ấy thuộc về hàng độn căn, chính nên giảng Tịnh độ, sao cư sĩ
không tùy bịnh cho thuốc, lại luận thượng thừa với họ làm chi?
Cư sĩ lại bảo tôi đã ra ứng thế, mở pháp
đường, lên giảng tọa, mà không đủ tác lược của bậc đại nhơn. Lão hủ chưa từng
dám dương với danh dự ra ứng thế, nên tự ưng không có tác lược của bậc đại nhơn.
Điều này hãy tạm gác qua, không cần bàn luận. Nhưng nếu bỉ người tu Tịnh độ là
hạng ông già bà cả ăn chay quê mùa, thật ra không phải chê các vị đó đâu, mà
chính là bỉ đức Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ vậy! Đâu riêng gì những vị
Bồ Tát ấy, mà chư Tổ Huệ Viễn, Thiện Đạo, Thiên Thai, Vĩnh Minh, chư đại thiện
tri thức, các hàng danh nhơn niệm Phật, theo cư sĩ, cũng là hạng quê mùa cả ư?
Song hạng quê mùa nếu biết niệm Phật được vãng sanh, sẽ lên ngôi Bất thối chuyển,
cũng đâu nên xem rẻ khinh chê? Những ông già bà cả ăn chay niệm Phật, cũng đáng
khen là họ biết giữ theo quy củ quê mùa của chính mình. Còn hạng thông minh tài
biện, ăn thịt uống rượu, vọng nói bát nhã, hôm sớm cứ tìm chư tăng gạn thiền
nói đạo thì thế nào?
Đến như việc các ông già bà cả khi bị kẻ
lanh lợi thông suốt hỏi đến, thì chẳng cần lên sao Bắc Đẩu, vào núi Thiết Vi
làm chi cho cao xa. Họ chỉ cần đặt giường nằm nơi cổ họng, trải tòa ngồi trên
đôi mắt của các vị lanh lợi thông suốt ấy. Làm như thế để chi? Để dạy chúng hãy
tạm đóng môn tam muội nơi cửa miệng, biết nhắm mắt hồi quang phản chiếu xét trở
lại chính mình đó thôi!
6. Cư sĩ cho rằng việc khuyên niệm Phật
cầu sanh Tịnh độ là điên đảo, đuổi theo vật vào mê lộ, là gánh gai bỏ vàng, làm
khuất nhục đến mình. Nhưng các thí dụ ấy còn chưa thân thiết. Nay lão hủ xin
đem một thí dụ khác thay thế:
Có một lão nông dân chân thật gởi thiếp
vào cửa vị phú trưởng giả, mời đến nhà ở đồng ruộng của mình viếng cảnh. Mọi
người nghe nói đều cười. Lão nông lại quét dọn đường sá sạch sẽ, đến mời thỉnh
lần nữa. Người gác cửa nhà phú trưởng giả cười bảo: “Chủ nhơn lần trước không
quở trách ông là may lắm rồi. Ông định làm mặt dày hay sao?” Lão ông đáp: “Tôi
thấy ttong các nhà giàu, có kẻ làm giàu mà bất nhơn. Có người ngoài giàu nhưng
trong nghèo. Có kẻ chưa giàu song tỏ ra kiêu mạn trước. Có người chỉ giữ kho,
giữ sổ sách ở nhà giàu, mà tự cho là mình giàu. Vả lại cảnh giàu sang như Kim cốc,
My ô, nay còn đâu ư? Tôi là một lão già ở đồng ruộng, an hưởng sự vui thái
bình, nên quên phận thấp kém của mình, mới thương xót mà mời thỉnh. Thôi từ nay
cũng xin tự biết lỗi rồi!” Nói xong cùng nhau cười rộ mà chia tay.
Comments
Post a Comment