ĐÀO QUỲNH LÂU
Vô tướng ánh mầu lộ thể chân
Gió từ phơ phất bốn mùa xuân.
Một niềm vẳng lặng thông tin tức
Lòng hướng Lỉên bang lễ niệm cần.
Xưa nay chẳng thật có đâu hư?
Luận đạo bàn thiền chuyện cũng dư!
Sáu chữ Di Đà không tự tánh
Ấy ai ta, Phật đấy bây chừ?
Đầm trong ngấn nước lặng hư huyền
In bóng trời mây ánh huệ viên.
Hạnh đủ công thành rồi sẽ rõ
Hoa thơm chim hót cũng màu thiền.
Đình dựa thanh tuyền, thất dựa non
Trong vùng tươi biếc, cửa tùng im.
Về nhà sớm nhận ngay đường lối
Chớ để lâm chung trễ khó tìm.
Thần chơi cõi tịnh tuyệt mù mây
Nào đợi gậy tê ánh sáng bày
Khéo luận đường xa mười vạn tám
Hư không lầu các giữa trời Tây!
Một dãy cây dường thất bảo lâm
Đầu cành nghe thoáng tiếng linh cầm?
Gió đông thổi lọt màn hoa lá
Diễn nói trăm ngàn diệu pháp âm!
Niệm Phật ngày đêm tự phản quang
Mấy hồi sanh diệt thấy vô đoan.
Trước làng, sau tuyết hoa mai nở
Lộ vẻ xuân tưởi sáng vũ hoàn!
Chín chục xuân quang khó mãi gìn
Dĩa đèn đêm vắng đối riêng mình.
Pha trà đâu phải vì hương vị
Khi hứng nào can uống một bình.
Cõi trần gieo được giống hoa sen
Nước ngọc liên trì nhụy nẩy sanh.
Một niệm tinh thần siêu phẩm tục
Nhẹ nhàng cõi tịnh bước thanh thanh.
Phá được trùng quan thấy cảnh quê
Từ nay chẳng lạc bước đường mê.
Xoay vần sáu chữ không sau trước
Nước chảy mây trôi tỏ lối về!
Vũ yết nhàn giai phương thảo đa
Ngũ niên tiêu tức đẳng phao thoa!
Động trung thâm bế yên hà tích
Nhứt niệm huân phong tống khách
qua!
ĐÀO QUỲNH LÂU
Đào Quỳnh Lâu tự Khánh Dư, người đời
Thanh, quê ờ Tô Châu, xứ Trường Châu. Cô là vợ của Bành Hy Lạc, người anh em của
Bành Hy Tốc, cả hai đều là cháu của cư sĩ Bành Nhị Lâm.
Quỳnh Lâu từ bé đã thông minh, am tường
thi vận, thường cùng em gái là Đào Nhân sớm hôm hòa xướng. Tánh ưa thanh vắng,
gặp cảnh non sông u nhã, liền có ý thoát tục quên đời, tâm niệm hằng lộ ra lời
thi văn. Không bao lâu, Đào Nhân bị bạo bịnh rồi từ trần. Quỳnh Lâu mang đậm mối
suy tư, từ đó thôi làm thi văn, chuyển sang nghiên cứu kinh Phật, mong tìm
phương giải thoát. Xem đến kinh Đại Báo Ân, cảm nhân duyên khổ hạnh nhiều kiếp
của Như Lai, cô liền phát đại nguyện cầu chứng Vô sanh pháp nhẫn. Quỳnh Lâu tự
tay thơ tả kinh nầy, cùng các kinh Kim Cang, Di Đà, bút pháp rất đoan chánh
tươi đẹp. Cô tu Tịnh độ, mỗi ngày đều niệm Phật, có làm vài mươi bài Tàm úy
ngâm, ý tứ gần với đạo.
Đến khi xuất gia, Quỳnh Lâu thường nói
pháp Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã cho gia nhơn nghe. Mỗi buổi sáng là thời
khóa tịnh nghiệp, rảnh rỗi lại duyệt các kinh đại thừa như Lăng Nghiêm, Viên
Giác, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm. Sự tìm hiểu về đạo lý của cô rất thâm thúy. Để đáp
mười bài thi bế quan của cư sĩ Bành Nhị Lâm, Quỳnh Lâu có sáng tác mười bài như
sau:
I
Vô tướng ánh mầu lộ thể chân
Gió từ phơ phất bốn mùa xuân.
Một niềm vẳng lặng thông tin tức
Lòng hướng Lỉên bang lễ niệm cần.
II
Xưa nay chẳng thật có đâu hư?
Luận đạo bàn thiền chuyện cũng dư!
Sáu chữ Di Đà không tự tánh
Ấy ai ta, Phật đấy bây chừ?
III
Đầm trong ngấn nước lặng hư huyền
In bóng trời mây ánh huệ viên.
Hạnh đủ công thành rồi sẽ rõ
Hoa thơm chim hót cũng màu thiền.
IV
Đình dựa thanh tuyền, thất dựa non
Trong vùng tươi biếc, cửa tùng im.
Về nhà sớm nhận ngay đường lối
Chớ để lâm chung trễ khó tìm.
V
Thần chơi cõi tịnh tuyệt mù mây
Nào đợi gậy tê ánh sáng bày
Khéo luận đường xa mười vạn tám
Hư không lầu các giữa trời Tây!
VI
Một dãy cây dường thất bảo lâm
Đầu cành nghe thoáng tiếng linh cầm?
Gió đông thổi lọt màn hoa lá
Diễn nói trăm ngàn diệu pháp âm!
VII
Niệm Phật ngày đêm tự phản quang
Mấy hồi sanh diệt thấy vô đoan.
Trước làng, sau tuyết hoa mai nở
Lộ vẻ xuân tưởi sáng vũ hoàn!
VIII
Chín chục xuân quang khó mãi gìn
Dĩa đèn đêm vắng đối riêng mình.
Pha trà đâu phải vì hương vị
Khi hứng nào can uống một bình.
IX
Cõi trần gieo được giống hoa sen
Nước ngọc liên trì nhụy nẩy sanh.
Một niệm tinh thần siêu phẩm tục
Nhẹ nhàng cõi tịnh bước thanh thanh.
X
Phá được trùng quan thấy cảnh quê
Từ nay chẳng lạc bước đường mê.
Xoay vần sáu chữ không sau trước
Nước chảy mây trôi tỏ lối về!
(
Một
vị tìm đạo lên núi gộp
lão nhơn
mặc áo bát quái, chống cây gậy lê dẫn vào động tiên. Khi ấy trời đã hoàng hôn, đường vô hang đá lợi càng tối mịt. Hốt nhiên từ đầu gậy lê phóng ra ánh sáng
rực rỡ soi tỏ lối đi. Đây ý nói cõi Cực Lạc có ánh sáng thất bảo tự nhiên, không cần phải dùng gậy lê phóng quang như cảnh
Tiên.
Kinh Pháp Bảo Đàn bản
cũ có câu: “Cõi Tây phương
cách đây mười
muôn tám ngàn dặm”.
Câu nầy
ám chỉ:
Nếu diệt mười tám giới là sáu căn, sáu trần, sáu thức, tức sẽ đi đến cảnh Tây phương của
tự tâm. Nhưng về
sau chư
tôn đức
Phật giáo cho câu nầy là lời hậu nhơn thêm vào, chớ
không phải
của Lục Tổ nói, nên gạt bỏ. Bởi trong kinh A Di Đà,
đức Thích Tôn bảo: Thế giới Cực Lạc ở về phương Tây cách đây mười
muôn ức
cõi Phật
chớ không nói mười muôn tám ngàn dặm.
Người tu thiền từ
nơi không mà vào, để tâm rỗng không, nên lần lần vọng niệm chẳng khởi, chỉ thấy một màu vắng lặng. Kế đó không cảnh hiện ra, tường vách non sông đều mất hết. Nhưng đó là cảnh
tạm chớ chẳng phải là chơn cảnh
của tự tâm, nếu nhận chơn tức
bị lầm lạc. Khi chơn cảnh
hiện ra, sẽ tỏ ngộ nước chảy mây trôi, hoa vàng
trúc biếc,
đều là quê hương xưa
của tự tánh.
Cổ đức bảo: “Chớ nhận vô tâm là thật đạo. Vô tâm còn cách một trùng quan!” Phá
trùng quan là vượt
phá hiện
tượng
thiên không nói trên.)
Qua mùa đông, Quỳnh Lâu cảm bịnh, tự biết
khó lành, thường chuyên niệm danh hiệu Phật. Trước khi mãn phần, cô thỉnh mẹ đến
từ biệt và nói: “Đại Hòa thượng đã đến rước, con đi đây!” Đứa thị tỳ thưa: “Còn
lão thân thì sao?” Đáp: “Cảnh Tây phương đẹp, ngày kia cô sẽ về rước bà đi!”
Nói xong liền mất. Bấy giờ nhằm ngày 23 tháng giêng, niên hiệu Càn Long thứ 45,
cô mới vừa được hai mươi lăm tuổi.
Đến mùa xuân năm Càn Long thứ 49, có Tây
Phương Đại sĩ dùng phương tiện giáng cơ nơi Ngọc đàn, vì hàng thiện tín tuyên
dương pháp môn Tịnh độ. Một hôm, Bành Nhị Lâm cư sĩ đến đàn, thưa hỏi chỗ sanh
của các vị sư hữu đã từ trần. Đại sĩ mỗi mỗi đều phúc đáp rành rẽ. Trong ấy, một
vị sanh về cung trời Đâu Suất, một vị hưởng phước báu cõi người, có bốn vị được
sanh Tịnh độ. Đó là Hương Sơn lão nhơn hiệu Thật Định, Lữ Đình đại sư hiệu Tế Hội,
Thệ Nguyện Tỳ kheo pháp danh Phật Ân và một vị cư sĩ là Trầm Bính hiệu Kính
Phù. Sau rốt Bành cư sĩ hỏi đến Đào Quỳnh Lâu. Đại sĩ đáp: “Đào thị đã sanh về
miền biên cảnh ở Tây phương”. Giây lát Quỳnh Lâu giáng đàn đề thi rằng:
Vũ yết nhàn giai phương thảo đa
Ngũ niên tiêu tức đẳng phao thoa!
Động trung thâm bế yên hà tích
Nhứt niệm huân phong tống khách
qua!
Tạm dịch:
Mưa tạnh, thềm nhàn rợp
cỏ thơm
Năm thiên thấp thoáng tợ thoi dồn!
Ráng mây khóa kín người tiên động
Để gió nam đưa khách lạc hồn!
Nhân đàn cơ cô hiểu thị cùng đại chúng rằng:
“Muốn sanh về Cực Lạc, các vị cần phải có tâm trường sắt đá, niệm Phật thành một
khối, ngoài không bị sáu trần nhiễm vào, trong không bị bảy tình khuấy động,
thì nơi chốn bùn nhơ sẽ có hoa sen mọc lên. Khi ấy, niệm một câu Phật hiệu, liền
có một đạo hào quang phóng ra: Niệm ngàn muôn câu Phật hiệu thì có ngàn muôn đạo
quang minh. Quang minh đó vẫn vô tướng, từ trong phát sanh, chớ chẳng phải từ
bên ngoài mà được. Đức Phật A Di Đà luôn luôn ở trước mặt các vị, tùy chỗ xuất
hiện. Nếu vừa có một mảy may vọng niệm, thì ánh sáng Phật ẩn mất không lộ bày.
Khi niệm Phật, cần yếu phải thường thường soi vào trong, mới phát minh được lý:
“Một niệm bất thối”. Tiếng niệm Phật lại cần phải theo tâm mà khẩn thiết, mới
phát sanh được nguyện lực và sức niệm mạnh mẽ vô thượng. Tâm và tiếng nên dung
hòa nhau, thì ánh sáng tự tâm sẽ chói suốt bốn bề, không chỗ nào chẳng phải Phật,
và không lúc nào chẳng niệm Phật, mới là đắc thủ! A Di Đà gọi là Vô Lượng, nên
biết đó là trí huệ vô lượng, thần thông vô lượng, từ bi vô lượng, nhiếp thọ vô
lượng. Nếu không phát thâm tâm vô lượng, đâu có thể thấy được tướng Vô kiến đảnh
của đức Cực Lạc Bổn sư? Thương thay cho chúng sanh! Dục niệm chưa trừ, đạo căn
lần mất, Phật tuy thương xót, nhưng biết làm sao? Vậy hãy nghe lời tôi khuyên,
mau cố gắng niệm Phật!”
Cách hơn tháng sau, Nhị Lâm cư sĩ lại đến
Ngọc đàn, hỏi Quỳnh Lâu về các tình tiết lúc lâm chung, gồm mấy điểm như sau:
“Được biết cô đã vãng sanh, rất mừng rất
tốt!
– Nhưng các ông La Đài Sơn, Châu Trọng
Quân, trai giới tinh nghiêm, hoằng thệ rộng lớn, mà còn bị lạc vào vòng báo cõi
nhơn thiên. Phần cô, công phu chưa thuần, giới phẩm chưa vẹn, mà lại được vãng
sanh là thế nào?
– Vậy quang cảnh lúc cô vãng sanh ra
sao?
– Và sau khi vãng sanh sự hưởng thọ như
thế nào?
– Đã được thấy Phật chưa?
– Chừng nào lên bậc Bất thối?
– Xin cô giải bày rành rẽ, để mọi người
nghe biết phát tâm tin mến tu hành. Đây tưởng cũng là một việc họp với bản nguyện
độ sanh của cô vậy!”
Ngày ấy, Tịch Căn Bồ Tát giáng đàn thay
thế dạy rằng: “Tháng trước ta ở biên cảnh cõi Cực Lạc thuyết pháp rồi mới đến
đây, nên Đào thị nương thần lực của ta mà cùng đến. Nay ta không ghé miền ấy,
nên Đào thị không đến được.
– Bình nhựt tuy công phu của Đào Quỳnh
Lâu không sánh kịp bọn ông La Đài Sơn, nhưng lúc lâm chung chánh niệm của cô
hơn các vị đó rất xa, nên cảm được đức Quán Thế Âm thân lâm tiếp dẫn.
– Khi lâm chung Đào thị thấy kim liên
hoa hiện tiền mà vãng sanh.
– Nay cô đang ở miền biên địa thế giới
thất bảo, sự ăn mặc đều tự nhiên hóa hiện.
– Dù cô chưa được thấy Phật, song mỗi
ngày chư Đại Bồ Tát ở Cực Lạc sang biên địa thuyết pháp hai thời. Người tinh tấn
sẽ lần lần sanh lên chín phẩm, kẻ giải đãi cũng hưởng thọ được năm trăm năm. Một
ngày ở biên cảnh Tây phương bằng một trăm năm tại miền Diêm Phù Đề nầy. Từ khi
vãng sanh đến nay, Quỳnh Lâu tinh tấn lắm, tương lai có thể ở vào bậc Thượng phẩm
hạ sanh, lên hẳn ngôi bất thối chuyển. Thời gian ấy nơi đây là hai ngàn năm nữa”.
Cứ theo giáo điển, Tịch Căn Bồ Tát là vị
Đại sĩ từng dự pháp hội Duy Ma và Vô Lượng Thọ, lúc đức Thích Ca Thế Tôn ứng thế
thuyết pháp.
Comments
Post a Comment