ĐÀI GƯƠNG TỊNH HẠNH


Hoa xuân, cành liễu oanh kêu hót,

Mình biết mình hơn kẻ biết mình!




ĐÀI GƯƠNG TỊNH HẠNH

(Lược thuật về hạnh nghiệp của Vô Sanh nữ sĩ) 

 

Nữ sĩ họ Hồ, tên Học Kiên, pháp danh Hiển Nhẫn, tự Vô Sanh, người ở tỉnh Hồ Nam, huyện Ích Dương. Cha cô tên Diệu Hoàng, tự Thôi Sơn, mẹ họ Điền, đều là những họ có tiếng ở đất Tương cả. Nữ sĩ sanh bình có đặc tính cứng cỏi mà hay thương người, thông minh mà mộ đạo, hoạt bát mà không lưu chuyển theo thế tục. Thấy người bị khổ nạn, cô liền tận tâm cứu giúp, chẳng kể cừu oán, công ơn, lại hằng tôn trọng bậc có đức, nghe lời lành như được của báu. Lúc còn thơ ấu, nữ sĩ ưa cung kính thần linh, thích cảnh chùa miếu u nhàn, thấy thánh tượng liền cúi lạy, đặc biệt tôn trọng ngôi Tam Bảo.

Huỳnh thị, chị dâu họ, tánh từ ái ôn hòa, đối đãi với cô rất có thâm tình, một hôm bỗng vương bịnh rồi mất. Lúc ấy mọi người trong quyến thuộc đều khóc than kể lể, riêng nữ sĩ chỉ yên lặng xót đau, hằng suy nghĩ: “Nhơn sanh hà tất có chết? Tình trạng sau khi chết như thế nào? Làm sao cho khỏi các điều khổ trong vòng sanh tử?” Suy tưởng đến đó, lòng lo buồn, tâm nghi mãi không thôi. Người ngoài thấy cô hình dung gầy kém, cử chỉ thất thường, cho là do sự xót thương thái quá, mà không rõ được bề trong. Dù trong lúc tuổi thơ, nữ sĩ đã biết nghĩ xa đến sự sống chết, một vấn đề rất lớn lao, trọng yếu của đời người.

Năm mười ba tuổi, cô học tại nhà, vừa được tám tháng, đã có thể lưu lãm các văn tự gần xa. Xem bộ Hương Sơn Ký thấy sự tích ứng hóa của đức Quán Thế Âm Bồ tát, cô liền có ý nghĩ muốn bắt trước  theo. Một hôm, vào tiết đầu xuân, nhân có cuộc vui họp bạn, nữ sĩ sắp sửa đi dự, vừa bước ra khỏi cửa, bỗng chợt nghĩ: “Có vui tất có buồn, có hợp tất có ly, có đi tất có về, thôi thà chẳng đi là hơn! Lúc ông Thôi Sơn làm hiệu trưởng trường Dương Trung, nữ sĩ theo cha lên lầu Nhạc Dương, thấy tượng Lữ Thuần Dương, lại nghe sự tích thành đạo của Ngài, liền sanh tư tưởng xuất thế. Nhưng bị duyên này sự kia, dây dưa mãi mà chưa thật hành được ý nguyện.

Năm mười bảy tuổi, cô về làm dâu nhà họ Đàm, vừa thành hôn, liền bảo Đàm Quân rằng: “Đến ba mươi tuổi, chắc tôi phải xa nhà, lìa bỏ tất cả, sống một cuộc đời tịnh hạnh. Lúc ấy chàng nên cố gắng tự nhiếp”. Nghe nói Đàm Quân cho là lời vẩn vơ, bất tường, cười mà bỏ qua. Chàng lại khuyên nữ sĩ nên tùng học để trao dồi thêm kiến thức tại trường Dân Lập ở Thượng Hải. Trong trường ngoài giờ học, các bạn ưa vận động chơi đùa, riêng cô lại nhàn tịnh, ít nói, thích ngồi một mình nơi chỗ vắng với trạng thái trầm tư. Nữ sĩ học hành ngày càng tiến bộ, xuất sắc, thầy bạn đều mến trọng, nhưng vừa được một học kỳ, lại phải thôi học theo Đàm Quân, lúc lên Bắc Quản, rồi đến Yên Kinh. Mặc dù trên đường hoạn quan, cô phải theo chồng, luôn luôn dời chỗ không nhứt định, song tấm lòng mộ đạo vẫn tùy duyên không biến đổi. Thường thường, trong các cuộc vui, tuy phải gắng gượng theo người, song nghĩ đến sự vui chẳng bền lâu, phút chốc rồi tan rã, nơi lòng vẫn hằng xem quan niệm buồn lo. Trong các bạn đồng niên, cô đã từng nghe họ kể cho biết nỗi niềm riêng: Kẻ thì âu sầu về gia tự, người thất vọng về danh lợi, tình duyên, kẻ khác lại đau về cảnh sanh ly tử biệt. Thấy cuộc đời vui ít khổ nhiều, mà các bạn còn mải mê hi cầu, đeo đuổi, như con nai khát nước chạy theo ánh nắng chập chờn, nữ sĩ bỗng xót thương suy ngẫm: “Đức Thế Tôn đã nói: “ba cõi đều vô thường, các pháp hữu vi không có chi là vui”, quả là lời chắc chắn không lầm. Thật khó hái được cành hoa hạnh phúc trong vườn đời huyễn mộng!” Lúc ấy trong thâm tâm cô đã có ý nghĩ muốn thoát ly hai họ Hồ, Đàm.

Thường thường trong lúc tiếp chuyện cùng người, nữ sĩ ưa đàm luận lý diệu huyền, quyết tìm đến chỗ cội nguồn, cầu sự giải quyết cao siêu, cứu cánh. Cô lập thệ làm sao đến ba mươi tuổi cũng phải lìa môn duyên, tìm một chỗ an thân tu hành để cho trọn đời sống. Lúc ấy, Đàm Quân có quen thân với ông Lý Ẩn Trần. Lý là một vị quan cựu trào nhà Thanh, từ khi Dân quốc thành lập đến nay, từ chức về quê ở ẩn.

 

Ông này rất mến đạo Phật, nhận sự hoằng pháp lợi sanh làm bổn phận. Một hôm, nhân có việc đến kinh, Lý tiên sanh ngụ nơi nhà Đàm Quân, nữ sĩ có dịp được tương kiến. Tiên sanh giảng luận về đạo Phật, nói rộng sự thù thắng ở Cực Lạc cho nghe, và khuyên cô nên lưu ý tìm sự giải thoát nơi pháp môn Tịnh độ. Nhân tiện, cô nhờ ông tìm giùm cho mình một cảnh chùa am để tịnh tu phạm hạnh. Lý tiên sanh nhận lời. 

Vì chí xuất trần quá tha thiết, cách vài hôm sau, nữ sĩ sốt lòng đi thẳng đến am Mã cách Ly thăm Lý tiên sanh, tỏ bày chủ ý của mình. Tiên sanh vui vẻ tán thành tặng cho một xâu chuỗi, và các sách Phật như: Thiện nữ nhơn truyện, Tịnh nghiệp soát yếu v.v... rồi giới thiệu đến Hạ Trạch để nghe Trần nguyên Bạch lão cư sĩ diễn giảng Trần lão là một vị uyên thâm Phật lý, phát nguyện muốn cho Phật pháp phổ cập toàn cầu, dùng nữ giới đi tiên phong như cách tông đồ Thiên Chúa bố giáo ở Âu Châu thuở xưa. Bấy giờ bên nữ giới người học Phật lần đông, mà khổ vì không có chỗ chuyên tu. Lão cư sĩ là người đầu tiên đứng lên đề xướng về việc ấy.

Khi thăm Lý tiên sanh, được nghe lời khuyến khích, nữ sĩ từ giã ra về, quyết lòng nhập đạo, đi ngang qua Thơ Trạch nhờ bạn thân là Mã nữ sĩ đưa qua Hạ Trạch nghe giảng một phen. Khóa giảng xong, cô liền quy tâm Phật pháp, tôn Trần lão làm bậc thầy. Bạn đồng đạo bảy người đều mặc áo vải, ăn chay trường bỏ cả sự trang sức xa hoa, sớm tối tụng kinh niệm Phật không biết mỏi. Nữ sĩ dù dõng mãnh tinh tấn, song tu hành ở nhà nhiều nỗi trở ngại, đôi ba phen nhờ Trần lão tìm giùm chỗ nơi thuận tiện cho sự thanh tu, nhưng mãi mà chưa được.

Một thời gian lâu sau, có tin ở Đông Trực Môn, am Cực Lạc. Bảo Nhất pháp sư sửa sang chùa hư, mở Đạo tràng làm chỗ cho cả tứ chúng tu tập. Về phía Tây am có vài nóc dân phòng, pháp sư sửa lại làm quan phòng, ngăn ra từng gian, vừa vặn trang nghiêm, mỗi gian đều có cửa nẻo riêng biệt, như cách chế thôn lạc, rất tiện cho nữ chúng ở tu. Nữ sĩ nghe được rất mừng, nhờ Trần lão đưa đến quy y với Bảo Nhất pháp sư. Sau đôi ba phen bày tỏ lạy cầu. Pháp sư xót thương hứa nhận và chỉ định gian nhà phía Tây ở Tây viện làm chỗ tịnh tu cho cô. Được lời nữ sĩ bồi hồi cảm động, tủi tủi mừng mừng, bể trần lao chìm nổi nửa đời, đến đây mới được chỗ an thân học đạo.

Từ khi ở Đạo tràng quy y lễ tạ Bảo Nhất pháp sư rồi trở về nhà, nữ sĩ ngày ngày đem việc ly gia khẩn khoản bàn với Đàm Quân. Chàng buồn bã không quyết định được, mời hàng thân quyến và bạn hữu đến cùng nhau thương nghị việc ấy. Mọi người không hiểu chí nguyện của cô, đồng ngăn cản. Nữ sĩ bèn cắt một miếng thịt nơi cánh tay để tỏ bày chí kiên quyết của mình. Đàm Quân khóc lóc cầm lại không được, xin mãn ba năm rồi trở về nhà cũng không được. Ngày 23 tháng 8 năm Tân Dậu, nữ sĩ đến am Cực Lạc. Qua ngày 26 thọ giới Bồ tát, phát nguyện ba năm không ra khỏi ngõ am, chuyên tu tịnh nghiệp, an lòng với đạo cho mãn kiếp sanh. Cô dù xa nhà ở ẩn, nhưng hàng thân hữu đến thăm càng đông, lòng không kham nổi sự phiền phức, liền đóng cửa phòng bảo người rằng: “Tôi lìa nhà thế như đưa đi chôn, vào tịnh thất như để xuống huyệt, đóng cửa phòng như lấp đất, việc ân nghĩa đối xử với bên ngoài từ nay kể như đã đoạn tuyệt!” Xem đây có thể thấy tâm chí của cô kiên quyết như thế nào! Lúc bấy giờ nữ sĩ tuổi vừa ba mươi, đúng với ý nguyện, hạn kỳ ngày trước.

Đức Phật nói: “Phàm việc chi đều có nhân duyên, có nguyện tất có ngày đền đáp”, Như Vô Sanh nữ sĩ: nửa đời chìm nổi, vườn trần mưa gió cánh xuân; nhân tốt sớm gieo, duyên tịnh đưa về cõi Phật. Ấy đâu phải là sự ngẫu nhiên ư?

 

Trích dịch: “VÔ SANH NGHIỆP KÝ”

Tỳ KHEO: THIỀN TÂM, HIỆU LIÊN DU

 

TỰ TRI LỤC

(Lời tự thuật của Vô Sanh nữ sĩ)

 

MẤY LỜI PHI LỘ

 

Hoa xuân, cành liễu oanh kêu hót,

Mình biết mình hơn kẻ biết mình!

 

Mùa thu tháng chín năm Tân Dậu, tôi đóng cửa thất nơi Tây viện am Cực Lạc, ở kinh sư, vâng lời Thầy dạy, cấm ngữ, tuyệt sự đời, chẳng chơi thi từ văn mặc.

Khi mới dụng công, nhiều cảnh giới bỗng nhiên phát hiện. Tôi thưa hỏi Thầy, người liền nói là ma, là huyễn vọng, dặn đừng tham chấp, chớ sợ hãi. Trải qua năm tháng sau, các cảnh tướng bất tịnh lại phát hiện. Đem trình hỏi Thầy, người bảo: “Đó là do đời trước con đã tu pháp bất tịnh quán, túc căn phát hiện, không có chi lạ”!

Từ đó về sau, cảnh tướng mỗi ngày mỗi khác. Thưa thuật lại, thầy bình luận cho chỗ thấy của tôi phần nhiều hợp với kinh Phật, song vẫn dặn kĩ chớ nên chấp trước, chớ cho là thắng giải. Vì thế, tôi không ghi chép, cảnh tướng trải qua liền quên.

Gần đây, sau khi ra thất, các bạn hữu ưa gạn hỏi mãi tình huống trong khi yểm quan. Chuyện vẫn nhiều, cảnh giới lại phức tạp khó nắm cương lãnh, bất đắc dĩ tôi phải gắng nhớ lại việc còn ghi nhớ, chép ước lược ra để nhờ thầy bạn chỉ bảo. Tôi cho rằng: nếu chuyên dụng công, tự có cảnh giới, không cần hỏi gặt hái, chỉ chăm lo cày bừa. Nếu chẳng cày bừa mà muốn gặt hái, tất không có lẽ đó. Trong vài tháng trở lại đây, chỗ dụng công của tôi càng thêm đắc lực. Xin chân thành ghi lại trong tập này, phần đại khái cùng một vài chi tiết nhỏ có lợi cho bạn đồng tu, để cùng nhau tham khảo.

 

Sau khi viết xong, tôi đặt nhan đề là “Tự Tri Lục”. Đây chính là lấy ý nghĩa: sự ấm lạnh tự mình riêng biết vậy.

 

Tháng quý đông, năm Giáp Tý 

NGÀY PHẬT THÀNH ĐẠO 

Ưu bà di: HIỂN NHẪN

 

 

PHÁP THỨC TU TẬP

 

Khi mới yểm quan, tôi đã chủ định điều cốt yếu thứ nhất là phải buông cả muôn duyên, xem thân này như đã chết, quan phòng như nấm mồ của mình. Ngày đêm sáu thời, tôi không để tâm đến việc chi khác, chỉ một mặt tưởng nhớ Phật A Di Đà cùng thế giới Cực Lạc là chỗ nương về duy nhứt, nhận chắc cõi này đầy dẫy nỗi khổ, miền kia thuần sự an vui.

Vì thế, khi đi đứng nằm ngồi, tôi giữ câu niệm Phật khăng khăng không rời. Niệm mãi tới lúc hình nhọc sức mỏi, thần khí hôn trầm, không còn có thể chi trì, lại đứng dậy lễ Phật để duy trì chánh niệm. Khi lễ Phật, ít thì 21 hoặc 48 lạy, nhiều hoặc hai ba trăm lạy không nhứt định, lấy sự hôn trầm tan mất, tâm được thanh tịnh làm chừng. Có khi lễ đến đầu xay xẩm, mắt lờ mờ, thân hình ngả sụm, vẫn còn lạy mãi không thôi. Đây là phương châm tối thượng để đối trị bệnh hôn trầm, tôi thường thể dùng và thường được hiệu nghiệm. Nếu khi tạp niệm sôi nổi, tinh thần tán loạn, không pháp chi dứt được, tôi liền tụng danh hiệu Di Đà, Quán Âm, Thế Chí, Thanh Tịnh hải chúng xoay vần nối nhau không ngớt để ngăn trừ. Hoặc có khi lại tả vài trăm câu Phật hiệu vào sổ tay, rồi cứ xem kĩ theo mặt chữ niệm từ trên xuống dưới, cách này cũng rất là đắc lực. Hai phương pháp trên có thể đối trị bịnh tán loạn, xin đưa ra đây để cho bạn đồng tịnh thử dùng.

Phương pháp niệm Phật rất nhiều, tôi chọn lấy hai cách: 1. Niệm to tiếng, khi niệm quán mỗi tiếng mỗi câu đi vào trong tâm. Bởi, niệm to tiếng có thể rửa sạch trần cấu của năm ấm, quán tiếng vào tâm thì lòng dễ chuyên mà tạp tưởng ít. 2. Ngồi im niệm thầm, khi niệm miệng dù không ra tiếng, nhưng trong tâm mỗi chữ mỗi câu vẫn rành rẽ rõ ràng. Hai phương pháp nầy tôi thay đổi nhau mà dùng, tùy theo trong người khi khỏe lúc nhọc. Niệm mãi như thế, lâu ngày sức huân tập thuần thục, không niệm mà tự niệm. Lần lần đến khi cùng người chuyện vãn mà trong tâm câu niệm Phật vẫn nối tiếp nhau không hở dứt. Khi ấy động cùng tịnh đã hiệp một. Đây gọi là cảnh giới tương ưng.

Thời gian niệm Phật của tôi dài ngắn không định, có khi một giờ, hai giờ, có khi năm, sáu giờ. Trước tiên là niệm to tiếng, niệm mãi đến khi mệt thì ngồi yên nhiếp tâm mà niệm thầm để khôi phục sức khỏe; ngồi lâu đã mỏi lại đứng lên đi kinh hành hoặc lễ Phật cho thân thể được hoạt động. Ba điều trên đây, tôi cứ tùy thời xoay vần thay đổi, nên có thể duy trì sức niệm được lâu. Muốn cho vọng niệm bớt ít, tôi tự khắc lệ, dùng chuỗi ký số lấy một ngàn câu làm đơn vị. Trong khoảng ngàn câu đó, nếu có một câu thất niệm, không chắc chắn, rõ ràng, thì bỏ cả, trở lại từ một. Lại khi niệm Phật, tôi thường nhắm mắt, nếu nửa chừng ngẫu nhiên mở mắt ra, cũng bỏ cả, đếm trở lại từ một. Lúc lễ bái, phát nguyện, tôi đem hết lòng thành kính khẩn đảo, như tự thân ở trước Phật, sớm tối đều lấy 108 lạy định làm thường khóa. Mỗi khi rời phòng thờ Phật, tôi lễ Phật xin phép, tự hẹn thời gian bao lâu sẽ trở vào, khi vào cũng lễ Phật thưa trình, như thờ đức Thầy nghiêm, không dám sai trễ. Đèn hương trên bàn Phật, tôi giữ nối luôn không cho tắt dứt, nếu không thể được vẹn toàn thì phải có một trong hai món. Vài điều trên đây là những phương pháp dùng hình thức để duy trì chánh niệm.

Trước kia tôi vẫn hay buông trôi theo thói quen, nhưng sau khi nhập thất lại lấy sự sửa đổi tập quán làm chủ yếu. Lúc gặp những cảnh vật đáng ưa, sự tình đáng mến, liền dứt bỏ; với những cảnh vật đáng ghét, sự tình khó chịu, thì gắng ẩn nhẫn cho qua. Khi đau ốm, tôi nghĩ rằng: đây là lúc sắp vãng sanh, là điểm quan yếu của một đời tu, ta nên tinh tấn, nhẫn các sự khổ, chớ để khi lâm chung mất chánh niệm. Tôi lại tự lập chí kiên quyết: dù chi bịnh khổ suy mòn, mạng sống đến giờ hấp hối, nếu còn một chút hơi thở, chút tri giác, thì lấy đó mà tưởng niệm Phật. Như thế báo thân đã mãn, tất được vãng sanh, chẳng là đều vui ư? Nghĩ đến đó, lòng tự an nhiên, không kinh sợ.

 

Tôi vẫn ít ngủ, phen nhập quan này, sự ngủ nghỉ lại càng ít hơn. Dù có ngủ tâm cũng không hôn mê, thường tợ như chiêm bao, mà chẳng phải chiêm bao, vẫn thấy mình có thể lễ Phật niệm Phật như lúc bình thường không khác. Nhân đó tôi lại càng cố gắng lặng lòng quán sát, quét trừ ma ngủ để nối luôn niệm thanh tịnh, mong làm sao cho niệm lực ngày đêm như một. Điều này rất là khẩn yếu...

 

TRẢI QUA CẢNH GIỚI

 

Thời gian yểm quan tu tập chưa bao lâu, tôi cảm biết tứ thể nhẹ nhàng, đầu não mát mẻ, trong miệng nước tân dịch tuông tuông như suối trào, vị ngọt ngon.

 

Vào khoảng hai mươi mốt ngày sau, một đêm, trong thất khói đàn hương quá ngạt, tôi đứng lên đi lại mở cửa sổ để thay đổi không khí. Cửa vừa mở, mắt nhìn về phương Tây, thoạt thấy một đạo hào quang hình như cái móng theo chiều gãy chiếu sang phương Đông, ánh sắc vàng hồng, làm cho cả am sáng rỡ như ban ngày. Tôi nhắm mắt chắp tay niệm Phật vài câu, mở mắt ra xem vẫn còn thấy hòa quang vàng nháng lên mấy lần mới tắt mất. Trong lòng tự biết đó là điềm tốt, càng thêm tinh tấn tu hành. Nhiều lần đang khi gõ mõ niệm Phật, mỗi dùi mõ đánh xuống phát ra một làn ánh sáng. Tôi lại thấy trong ngực có bình lưu ly, khi niệm Phật, mỗi chữ mỗi câu đều chun vào chứa đựng cả trong bình. Trên đây là những cảnh giới trước sau trong khoảng tháng mười một tháng chạp.

Đêm hai mươi bảy tháng chạp, lúc trời gần sáng, tôi bỗng cảm thấy mình đang đi trên tuyết, mỏi mệt muốn trở lại, thoạt nghe tiếng người bảo: “Đã đến Tây phương, phía trước có người đón tiếp con”. Tiếng nói vừa dứt, trước mắt bỗng mở ra một vùng ánh sáng mênh mang, các tướng tốt rực rỡ của cõi Cực Lạc hiện bày trong ấy, tràng phan bảo cái rất mực trang nghiêm, có vị Bồ tát an tọa trên tòa sen báu. Tôi tự biết đó là đức Quán Thế Âm, song miệng vẫn niệm Nam mô A Di Đà Phật, rồi cúi xuống lạy. Bồ tát bước đến đỡ dậy, khen ngợi: “Công hạnh của con cũng khá tốt, chỉ hiềm còn thiếu chữ Bi”! Tôi liền gieo mình đảnh lễ: Nam mô đại từ đại bi A Di Đà Phật. Vừa ngước đầu dạy, thoáng thấy Bồ tát bay lên có dạng như hơi khói nước sôi trào. Trong tâm thầm nghĩ “Đó chắc là Ngài làm phép”. Lúc ấy liền thức tỉnh.

Bấy giờ, tôi cảm thấy có vô số hạt châu sáng lăn vòng khắp trong thân, các hạt châu đều kêu thành tiếng niệm Phật, mà lạ thay, tiếng đó lại lanh lót ở giữa chừng không. Khi ấy nơi tâm càng mát mẻ, nhẹ nhàng, cảnh hiện được ba giờ mới dứt. Từ đây cho đến hơn mười ngày sau, mỗi khi lễ phật, niệm phật, lúc vừa mới chắp tay, trong thân các hạt châu lại bắt đầu hành động không ngớt, kế lại hiệp thành một hạt châu lớn phía sau có ánh sáng vàng. Lăn vòng khắp châu thân.

 

Trong một ngày có đến đôi ba phen như vậy. Lại có khi tôi vừa niêm Phật một tiếng, bỗng thấy châu sáng lên một hạt, niệm đến số 108 câu, các hạt châu liên kết nhau hòa thành xâu chuỗi, tự máng vào cổ mình. Cảnh trạng này mấy ngày mới hết.

Ngày Nguyên Đán năm nhâm Tuất, sau giờ ngọ tôi bỗng thấy vô số nam nữ qua lại, cười nói ồn ào quấy rầy mãi chẳng thôi. Bọn ấy dạy bảo tôi niệm chú mới, tôi vừa đọc qua một biến, liền giác ngộ biết là ma, vội bước xuống tòa đến trước bàn gõ mõ niệm Phật lớn tiếng. Tiếng niệm phật nếu dừng, tiếng kia lại nổi lên, hoặc kêu chị chị em em, hoặc khua như tiếng đồ đạc bễ vỡ hoặc có nhiều người đem đồ ăn ngon ngoài đời lại nài nỉ ép bảo ăn. Khuyên chớ tu hành đã luống công mà nhọc nhằn khổ não, tôi lại thấy trẻ nhỏ hai bên nói : “Ta là Phật Di Đà đây” kế lại tự cam lấy bốc cháy nóng từ trên đầu, rồi lần lần bay dang ra xa. Đôi khi lửa từ trong miệng phựt ra có ngọn. Bây giờ trong thân như có vật chi muốn vọt ra ngoài mà không được. Cảnh trạng như thế biến hiện rất nhiều, đáng kinh, đáng sợ ! Lúc ấy tâm tôi dù hơi khiếp hãi, song thần trí vẫn sáng suốt không bị động , quyết liều chết giữ chắc một câu niệm phật để chống trả lại. Như thế luôn cả sáu ngày đêm, mắt không nhắm, không nằm, không ăn, không một khắc nào rời lễ niệm khẩn cầu, như con thơ kêu cứu cùng cha mẹ. Đến cuối ngày thứ sáu, khí lực suy kém, trong người quá mỏi mệt, mà vẫn còn gắng sức chỉ trì lễ Phật vài trăm lạy để cầu xin gia hộ. Trong lúc thân càng khốn như thế, cảnh ma lần lần tiêu dứt. Sau khi ấy, tôi lên giường nằm thử, may mắn sức khỏe lại khôi phục như thường.

Qua ngày kế, đang lúc tịnh tọa, tôi cảm thấy từ nơi ngực hơi nước tuông tuông phun ra như sóng cuộn, mãi mãi chẳng thôi, khí lực kém lần, không thể tự chi trì được. Tôi liền phát tâm chí thành khẩn cầu, niệm phật, thầm nghĩ: “giờ phút vãng sanh, âu là hôm nay. Thôi, không còn nên đoái tưởng một mảy may gì nữa cả” ! Như giây phút, trước cảnh trạng suy kiệt như săp chết đến nơi ấy, hơi nước bổng nhiên xoay lại, hòa thành cái chụp lưu ly trong suốt sáng rỡ, che trùm cả thân mình. Tôi liền khen ngợi Phật Pháp không thể nghĩ bàn! Tiếc thay! Người đời không chịu tu hành, hoặc tu mà đạo không hơn ma, không thể duy trì chánh niệm, để tinh thần hỗn loạn, nến đỗi giữa đường phải bỏ dở. Thật đáng thương! Đáng xót !!

Vào hạ tuần tháng giêng, một hôm dường như chiêm bao mà không phải chiêm bao, mắt còn chưa nhắm, tôi cảm thấy như mình sắp chết, trên đầu có ít người kêu réo. Lúc ấy, thần trí tôi không hề lay động, vẫn chuyên tâm niêm Phật, cho rằng: đây chính là giờ vãng sanh. Lại tự nghĩ: “Sao phương Tây còn chưa có nười đến tiếp dẫn”? Vừa nghĩ như thế, bỗng cảm thấy mình từ trong đường tối đi ra, vụt bay thẳng lên hư không, khắp châu thân toàn là cánh sen vàng, tùy tâm chớp động, vui thích vô ngần! Lại tưởng: “ sao không thấy Phật”? Liền khi ấy trước mắt hiện ra đức Phật lưu ly ngòi trên tòa sen lớn, có bồ tát hầu hai bên, Phật bảo: “ta cho con một hoa sen”. Tôi liền thức dậy.

Cách vài hôm sau, trong lúc tĩnh tọa, tôi thấy mình bay lên hư không hóa thành hào quang vàng, chính hào quang là thân mà không có thân tướng, nhẹ tang sáng suốt, vui thích vô cùng! Có một ngày, bỗng nhiên thân mình như kết lưới, kết rồi lại dứt, cảnh tượng ấy kéo dài hơn tháng mới thôi. Không bao lâu, tôi cảm thấy khắp mình sáng suốt, soi thấy ngũ tạng, cả thân tái sanh như thịt thúi, mắt thành lổ to như hai ngọn đèn. Khi niệm một tiếng Phật, liền thấy thịt thúi lột ra một lớp như sóng vỗ trôi cát. Lần lần lột sạch hết cả. lại thấy thân như chụp lưu ly, trong ấy trùng bu đầy, đầu trùng đều ngước cả lên rất đáng sợ, vài ngày mới hết. Kế lại thấy khắp thân từ da thứa đến thịt xương lột ra từng lớp như lột bỏ tơ mục, đến khi hết, lòi cả tạng phủ ra bừa bãi trên giường.Các tướng như thế biến hiện không thể nghĩ bàn!

Trải qua mấy cảnh giới trước, tôi tự thấy khắp mình ánh sáng chói suốt, phát hiện nhiều thứ châu báu trang nghiêm. Các tướng ấy một ngày biến đổi vài lần, hoặc hóa làm lộng phướn, hoặc hóa thành đền đài, hoặc từ các lổ chân lông đồng thời chiếu ra hào quang vàng như sợi chỉ. Có hôm, những sợi ấy hợp thành một bó chỉ vàng phân nửa hướng lên trên , phân nửa rũ xuống dưới, đều hóa thành lưới báu, mỗi mắt lưới một hạt châu, chân lưới bao chụp cả thân mình, các hạt châu va chạm nhau thành tiếng thanh thao êm dịu! Có lúc từ ba mặt lưới mưa nhỏ tuôn phơi phới, mỗi giọt nước hóa thành hình tròn liên tiếp như thế vài ngày đêm không dứt, rốt sau lại biếng thành ao vàng. Trong ao ấy có các thứ báu hoạt động sanh vật, trên có chữ Vạn màu vàng che phủ.

Một hôm, tôi bổng thấy đỉnh đầu bễ vỡ tuôn ra nhiềuhoa báu phun vọt lên trên, ánh sáng chiếu xuốt, soi thấy chư phật bồ tát đầy khắp hư không. Bấy giờ sáu căn lẫn lộn, không còn phân biệt được, không trong không ngoài. Mặc dù cảnh giới có biến đổi lạ lùng, song tôi vẫn an nhiên, không vui mừng, kinh sợ.

Vài hôm sau, tôi lại thấy từ trong ngực có hoa sen báu vọt ra, cánh sen sắc vàng hồng, khép nở liền liền. Trong hoa hiện ra đức Phật A Di Đà sắc vàng, Phật bay lên hư không, mình cúi lạy theo. Lúc ấy lại tự hiểu đức Phật mà mình đang lễ bái, chính là mình, không hai không khác. Một ngày, tôi chợt cảm thấy tâm khai, phóng hào quang sáng trắng như điện chớp, hiện ra cõi lưu ly báu. Trong đó có rất đông bồ tát và la hán an tọa, mình cũng đồng ngồi, quang cảnh như nhi đồng theo phụ huynh dạo chơi.

Vào hạ tuần tháng ba, một hôm tôi thấy chụp lưu ly phủ mình tự nhiên vỡ nát, miểng vụng văng ngang thì hóa thành cát sắc bạc, miểng văng lên biếng làm lồng vàng từ sau lưng văng ra phía trước rồi xoay lại. lúc ấy trong thân khốn khổ lạ thường, như rắng bò ra, như tằm nằm ngủ, đang khi khó chịu, tôi chợt cảm biết thân tâm khoan khoái, muôn niệm đều tiêu, nghe rõ các tiếng buồn khổ từ dưới đưa lên rất là thảm thiết! Kế lại nghe tiếng niệm Phật du dương trong trẻo từ xa lại gần, thanh tịnh an vui không thể nói dụ được! Nhìn xuống tôi thấy đất biến thành lưu ly sáng suốt mà chính đó là thân mình, bên tả hóa hiện cây Bồ đề to lớn, tàng rộng che trùm rất xa. Từ trên đảnh đầu mình lại phóng ra ánh sáng sắc vàng, giữa ánh sáng hóa hiện cây cột thủy ngân, đầu cột có tiếng niệm Phật như máy phun nước nối liền không dứt. Ngày ấy tôi tịnh tọa ước chừng sáu giờ, sau khi xuất định, còn nghe tiếng người niệm Phật như kêu mình cứu vớt, hơn mười ngày mới thôi.

Từ đó về sau, trên đầu tôi đều cùng cánh sen bao vây, toàn thân cũng là cánh sen kết thành, mình đi dưới ánh sáng nắng màu sáng chói, tốt đẹp vô cùng.

Lại mỗi khi tôi tịnh tọa, bỗng thấy hào quang phóng ra, tường vách cõi đất đều chấn động, vật chi chạm đến hào quang đều liền vỡ nát hóa thành hoa vàng xoay lộn không ngớt. Trên hư không hoa báu bay liệng lên xuống đều đều chậm chậm như những cánh chim trời. 

Trên đây là những cảnh giới trải qua từ rằm tháng chín yểm quan đến rằm tháng tư xuất quan. Từ đây đến rằm tháng mười là ngày nhập quan, trong vòng sáu tháng, cảnh giới không đổi mấy mà cũng không mất. Hoặc thấy toàn thân hiện thành ánh quang minh, dường như tơ phơi phới xoay vần không ngừng. Hoặc có lúc tự mình ngồi trên hoa sen bay lên hư không đi đồng hàng với các bậc Bồ tát, thường được nghe lời khen ngợi.

Đêm mười tám, sau mấy ngày nhập quan, tôi hay tin tiên phụ mất, liền bày linh vị trên bàn Phật, quì tụng kinh A Di Đà. Trong lòng xúc cảm, vừa niệm bài hương tán, nước mắt bỗng rơi nhỏ giọt như chất dầu. Sau thời kinh tôi đang tịnh tọa, chợt thấy bóng đen bay đến trước linh vị, lại nghe trên hư không có tiếng bảo: “Công đức đã viên mãn, cha của con được vãng sanh về biên cảnh Tây phương. Chờ khi nào đạo nghiệp con thành tựu, sẽ đồng được thấy Phật”. Liền khi ấy, bóng đen tan đi như mây khói. Tôi lại tịnh tọa nhập thâm định, thấy thân phụ đang ngồi trong vườn hoa rộng lớn, tốt đẹp rực rỡ, không phải cảnh nhơn gian. Đây phải chăng là miền biên địa ở Tây phương? 

Đêm mười chín, trong lúc thầy cùng các bạn lập đàn niệm Phật để siêu độ cho tiên phụ, tôi thấy tiếng niệm Phật trong đàn kết thành một phiến, trong rõ chỉnh tề, du hành trong hào quang của tôi đến sáng mới thôi. Ngày ấy cảnh giới của tôi cũng đặc biệt thù thắng. Trên hiện hào quang vàng, dưới thành ao sen rộng lớn có vô số hóa Phật, tâm tôi khoan khoái cũng niệm Phật không ngớt. Thảng như thường có cảnh giới này lo gì tịnh nghiệp của mọi người không thành?

Vào buổi chiều tối ngày mùng 8 của một tháng mùa đông, lúc tôi niệm Phật, hào quang hóa thành lông cứng thẳng, sức rất mạnh khó điêu huấn. Nhưng khi niệm đến sau một ngàn câu, bỗng có tiếng nổ như mở nút miệng bình, hào quang mới lần lần dịu mềm xoay vào trong miệng. Bấy giờ thân thể tôi đồng như hơi bọt, mát mẻ vô cùng bên tai vang ra tiếng êm dịu.Mấy ngày trở lại đây, cảnh giới phát động khốn khổ khác thường, bây giờ mới được yên lặng. Đây chính là vì tôi không quản chi cả, chỉ dùng một chữ Nhẫn để chống lại. “Nhẫn” này không phải nhẫn chịu sự thống khổ, mà chính thật pháp không nhẫn, là quên cả thân tâm ngoại cảnh, xem tất cả đều không. Tôi dùng cách này để hàng phục tâm mình, cảm thấy rất được tương ưng.

Ngày mùng mười, trước giờ ngọ, tôi niệm Phật đến lúc khẩn cấp, bỗng nhiên tâm khai hiện ra một vị Phật, sánh với đức Phật hồi tháng tư thì vàng sáng và rõ hơn, Phật hiện đối trước tôi, như đứng ánh sáng trăng bàng bạc phía trên lại hiện ra các thứ châu ngọc rực rỡ chớp nháng lấp lánh. Lúc ấy trong tâm tôi có trạng thái vừa đau, vừa sáng vừa yên tịnh, hơn một giờ mới hết. Liền đó, tôi lại thấy các hình tướng trang nghiêm ở cõi Cực Lạc xoay dạo không ngừng. Ấy cũng là công đức sẵn có trong tâm, chẳng phải cảnh ngoài.

Chiều rằm, đang lúc tĩnh tọa, tôi thấy trong hào quang sắc chàm hiện ra một chữ “Hồng” màu đỏ, hai bên nổi lặn như đèn điện tắt cháy, tự biết đó là bốn chữ A Di Đà Phật hiệp thành, tôi quán soi hồi lâu bỗng hiểu: bổn lai của ta chính là cái này. Nhân tưởng: “Bình nhựt vọng niệm từ đâu phát ra?” Lúc đó liền thấy một niệm nghĩ ấy dờn dợt từ dưới chữ mà ra, đó là chỗ vọng niệm phát xuất. Châu vi của chữ Phạn ấy lại vang ra tiếng trong rõ dị thường!

 

Đêm mười bảy, thân mình hốt nhiên hóa thành sợi chỉ trắng rất sáng suốt, xoay vần như gò núi. Nhân đó tự biết: Lông trắng giữa chân mày chia ra thì thành 32 tướng cho đến tất cả cảnh giới đều do nơi lông trắng này mà thành. Lúc tôi dụng công được tương ưng thì tâm cùng tiếng hiệp thành một khối lảnh lót như tiếng đồng tử hoặc có lúc ứng tiếng hòa với tiếng tôi mà niệm.

Đêm hai mươi, sau khi tôi tụng xong kinh Địa Tạng, tiếp tục qua kinh Di Đà, đến quyển thứ tư, câu A Dật Đa Bồ tát, bỗng nhiên thân thể rổng rang, tất cả đều không. Tôi lần ngồi xuống đất cũng không thấy hay động, da mặt đầu mình không biết đau ngứa, xúc giác tiêu tan, cảnh giới trang nghiêm lúc bình thường đều mất cả. Như thế giây lâu mới trả lại nguyên trạng. Khi ấy, tâm càng mát mẻ, hào quang càng rộng rãi dịu dàng vô cùng!

Ngày hai mươi tám, tôi tự cảm thấy thân thể hóa thành vầng mây, mây là thân không tướng. Áng mây thân đó họp lại thành gò núi, tan ra thành bạch quang, sự trong ngần của băng tuyết không thể sánh kịp. Khi ấy bốn phía, hai bên cùng sau trước, đều không còn phân biệt. Tôi chỉ tự cảm biết trạng thái lúc bấy giờ là một thể hồn nhiên sáng suốt mà thôi...

 

 

LỜI BÌNH LUẬN

 

Trong kinh sách Phật, có nhiều chỗ khuyên răn người tu, lúc được cảnh giới tốt hay có sở đắc chi, chớ nên phô bày. Nếu phô bày thì dễ sanh ma chướng, tà niệm, hoặc có khi được rồi lại mất. Trừ ra hai phương diện:

 

1)    Bậc Phật, Bồ tát hiện thân, vọng tâm đã dứt, vì muốn thủ tín cùng đời, hay vì dắt dìu chỉ dẫn người sau, nên mới nói ra.

 

2)  Lòng mình có chỗ nghi, muốn thuật riêng lại với bậc thiện tri thức để nhờ quyết đoán sự chánh tà, tránh các điều hại, không phải có ý khoe khoang tự đắc.

 

Vô Sanh nữ sĩ là người thế nào, tôi không thể lường được, nên không giám phẩm bình về sự phô bày của tôi. Nhưng xin khuyên các hành giả phải cẩn thận, đừng có được ít mà đòi nhiều, và nếu không phải vì một trong hai trường hợp trên, xin chớ phô ra. Như thế mới khỏi mang tội đại vọng ngữ, và tránh được các điều hại.

Tập này, có một vị cư sĩ muốn in để truyền bá rộng ra, viết thơ hỏi ý kiến Ngài Ấn Quang. Đại sư không cho và bảo: “Nếu tu hành đắc lực, tự nhiên có cảnh giới. Song cảnh giới ấy cũng tùy công đức nơi tâm mà hiện, chớ không có chi lạ! Người tu, nếu đúng theo pháp mà niệm Phật, thì thấy tướng hảo càng tốt, không thấy cũng vô hại, bởi nhân chắc thật tất quả không hư dối.

 

Như tu niệm không đúng pháp, hoặc dụng công chẳng chí cực, thì có sở đắc là ma, không sở đắc là ngu si. Dù khi các cảnh tướng tốt hoặc xấu phát hiện, cũng nên giữ vững chánh niệm, đừng quá vui mừng, kinh sợ, vì đó là những chỗ hở để ma dễ nhập vào tâm. Người đời nay, khi tu hành, phần nhiều có tánh hiếu kỳ, không chú trọng nơi chỗ dụng công, chỉ mong cầu được thấy hảo tướng. Đã như thế, chẳng những không được cảnh tốt, mà do bởi vọng tưởng phân vân, ma nhân đó giả hiện Phật, Bồ tát để gạt gẫm, khiến cho điên cuồng.

Ấn Quang sợ e tập này in ra, không khéo lại thành mối duyên thúc đẩy kẻ vô tri sa vào nơi hố sâu ấy. Theo ngu ý, chẳng bằng nên thôi đi là hơn...”

 

Lời Ấn Quang đại sư dạy bảo trên đây thật là xác đáng. Nhưng, hàng cư sĩ bên Trung Hoa phần nhiều trình độ học Phật khá cao, đối với tập này, có thể không là điều cần thiết. Riêng Phật tử Việt Nam ta, sự hiểu đạo đa số còn mông lung, tâm tu hành không thiết tha tinh tấn nên tôi muốn mượn tập này để làm duyên tăng trưởng lòng tin cùng khuyến khích bạn đồng tu trên con đường tịnh nghiệp.

Với tập này, nếu người biết phân minh điều hay dở, thiết tưởng cũng không đến đỗi có hại. Điều hay là xem gương người để sửa đổi, sách tấn; rút lấy kinh nghiệm của người để làm lợi ích cho mình. Điều dở là như lời Ngài Ấn Quang đã chỉ trích ở đoạn trên.

Xem “Tự tri lục” xong, các hàng liên hữu suy nghĩ thế nào? Có lẽ chúng tôi nên hổ thẹn nhiều với bổn phận mình, với Hồ nữ sĩ! Vậy ta nên rảo bước cố theo kịp người trên đường về Cực Lạc. Ta phải thiết thực sửa đổi tăng tiến, chớ đừng nhìn nơi chỗ sở đắc của người mà khen ngợi mong tưởng suông. Như thế là vô ích, khác nào như kẻ nghèo ngồi nhà tính đếm gia tài của bậc phú ông? Và, nếu kẻ có đôi chút công hạnh mà tham chấp cảnh giới, hoặc vọng cầu các hảo tướng quá phần lượng, lại là một điều hại cần nên để tâm.

 

Trên đây là tất cả bao nhiêu điều thiết yếu.

 

NGƯỜI BẠN SEN

LIÊN DU

Comments

Popular posts from this blog